Những Văn Kiện Đời Tu (Tập 1) – Chứng Tá Phúc Âm

(catechesis.net)

CHỨNG TÁ PHÚC ÂM

(Evangelica testificatio, 29-06-1971)

Dẫn nhập

Văn kiện mang giọng điệu nói chuyện thân mật cha con. Đức Phao-lô VI ôn lại giáo huấn của Va-ti-ca-nô II về đời tu và quảng diễn vài khía cạnh do thời thế đặt ra, thí dụ việc sống khó nghèo hay đời sống cộng đoàn. Tông thư trình bày những giá trị thần học của đời tận hiến dưới ánh sáng của Tin Mừng; những quy tắc pháp lý hầu như hoàn toàn vắng bóng. Đức thánh cha nhấn mạnh tới việc củng cố con người nội tâm, nguyên lý thống nhất toàn thể cuộc sống (xem số 31-34 ; 43-45).

Bố cục gồm có bốn phần, không kể nhập đề và lời nhắn nhủ cuối cùng.

Nhập đề : Chứng tá Phúc Âm giữa Dân Thiên Chúa (1-6)

I/ Những hình thức của đời tu : chiêm niệm ; hoạt động tông đồ. Tất cả đều đòi hỏi phải kết hợp với Chúa (7-12)

II/ Những cam kết chính yếu : ba lời khấn khiết tịnh (13-15), khó nghèo (16-22), vâng phục (23-29).

III/ Lối sống : chứng tá về đời sống nội tâm (30-38) và huynh đệ (39-41)

IV/ Việc canh tân và tăng trưởng thiêng liêng : cầu nguyện, thinh lặng, thông dự bí tích và tham gia vào sứ mạng Giáo Hội (42-40)

Lời nhắn nhủ cuối cùng (51-56)

NHẬP ĐỀ

CHỨNG TÁ PHÚC ÂM GIỮA DÂN THIÊN CHÚA

1. Chứng tá Phúc Âm

Các con thân mến, trong Đức Giê-su Ki-tô,

Chứng tá Phúc Âm của đời tu biểu dương trước mắt mọi người địa vị thượng đẳng của tình yêu Thiên Chúa, với sức hùng mạnh mà chúng ta phải tạ ơn Chúa Thánh Thần. Với tấm lòng rất đơn sơ, như Đức Gio-an XXIII vị tiền nhiệm đáng kính của Ta đã nói những ngày trước công đồng (1), Ta muốn nói với các con rằng : lòng quảng đại cao siêu của những người nam, nữ đã hiến dâng cuộc đời mình cho Chúa trong tinh thần cũng như trong sự tuân giữ những lời khuyên Phúc Âm, đã gieo vào lòng Ta, vào lòng các vị chủ chăn, cũng như các tín hữu trong Giáo Hội một niềm hy vọng lớn lao ! Ta mong muốn giúp đỡ các con tiến bước trên con đường theo Đức Ki-tô trong sự trung thành với giáo huấn của Công Đồng.

2. Công Đồng

Làm như thế Ta có ý đáp lại một hiện trạng lo lắng, bấp bênh, và không vững của một số người trong chúng con, đồng thời cũng muốn khích lệ những ai đang tìm cách canh tân đời tu một cách đúng đắn. Hiện có một vài sự sửa đổi táo bạo vì thiếu suy tư, một tâm trạng ngờ vực quá đáng đối với quá khứ, cả khi quá khứ đó biểu dương sự khôn ngoan và sinh lực của những truyền thống trong Giáo Hội. Cũng đang có một não trạng quá lo lắng để thích nghi một cách hấp tấp với những biến chuyển ngấm ngầm đang làm lung lay thời đại chúng ta, do đó mà một số người cho rằng có những phương thức cố hữu của đời tu đã lỗi thời rồi. Người ta đã chẳng lạm dụng nại đến Công Đồng, để đặt lại vấn đề tu trì cả trên căn bản đấy ư ? Nhưng chính họ cũng biết Công Đồng đã nhìn nhận đời tu là một hồng ân đặc biệt” của Thiên Chúa và có một chỗ đứng cũng đặc biệt trong đời sống của Giáo Hội. Thực thế, những ai tiếp nhận hồng ân ấy có thể theo sát Chúa Ki-tô trong đời sống trinh khiết và khó nghèo mà chính Chúa Ki-tô đã chọn lấy cho mình cũng như Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Người đã ôm ấp” (2). Chính Công Đồng cũng vạch ra đường lối để hồng ân trên được canh tân theo Phúc Âm (3).

3. Truyền thống của Giáo Hội

Tưởng không cần nói chúng ta cũng biết, ngay từ buổi sơ khai, Giáo Hội đã đặc biệt cho thấy : có những con người kiên tâm tìm kiếm Thiên Chúa và hiến dâng cho Đức Ki-tô một mối tình không chia sẻ và triệt để tận tuỵ với công việc mở Nước Chúa. Không có dấu chỉ cụ thể đó, thì Đức Ái của toàn thể Giáo Hội có nguy cơ nguội đi, nghịch lý cứu độ của Phúc Âm sẽ mai một và muối” đức tin cũng sẽ phai lạt trong một thế giới đang bị tục hoá.

Ngay từ những thế kỷ đầu, Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy những vị tử đạo tuyên xưng đức tin một cách anh hùng, và đã soi sáng thúc đẩy các trinh nữ, các đấng ẩn tu cương quyết một cách lạ lùng. Đời tu đã manh nha và dần dần cảm thấy nhu cầu ngày một gia tăng phải triển nở và phải biến đổi các hình thức sống thành lối sống cộng đoàn hay đơn tu để đáp lại lời mời gọi khẩn thiết của Đức Ki-tô : “Không ai từ bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa mà chẳng được gấp bội ngay ở đời này và mai hậu sẽ được sống đời đời.” (4)

Ai dám cho rằng lời kêu gọi ấy ngày nay không còn giá trị và sức mạnh như xưa nữa và Giáo Hội có thể để mất những chứng từ phi thường ấy của tình yêu siêu việt Đức Ki-tô ? Ai dám cho rằng thế gian có thể làm cho những ánh sáng ấy tắt lịm đi mà không thiệt hại gì, những ánh sáng loan báo Nước Thiên Chúa với một sự tự do không có gì cản trở được, một sự tự do vẫn được hàng vạn các con cái nam nữ mình theo đuổi hằng ngày ?

4. Lòng kính trọng và tình yêu mến

Hỡi các tu sĩ nam nữ thân mến, các con đã muốn thực hành những lời khuyên Phúc Âm để theo Đức Ki-tô một cách tự do hơn và bắt chước Người một cách trung thực hơn, bằng việc hiến dâng cho Thiên Chúa trót cuộc đời của các con, bằng một việc tận hiến đặc biệt ăn sâu vào việc thánh hiến của phép thánh tẩy và diễn tả phép thánh tẩy một cách sung mãn hơn. Chớ chi các con hiểu được tất cả lòng kính trọng và tình yêu mến mà Ta mang đến cho chúng con nhân danh Đức Ki-tô Giê-su ! Ta gửi gắm các con cho các chư huynh rất thân mến của Ta trong hàng Giám mục, các vị này cùng với các linh mục là những cộng tác viên trong hàng tư tế nhận thấy trách nhiệm của chính mình đối với đời tu. Và đối với tất cả các giáo dân, những người đảm nhận cách chuyên biệt nhưng không độc hữu, các nghề nghiệp và sinh hoạt trần thế (5), ta xin họ hãy hiểu rằng chúng con là một sự thúc đẩy quý hoá đối với họ trong công cuộc tìm kiếm sự thánh thiện mà họ đã được mời gọi đến nhờ phép thánh tẩy trong Đức Ki-tô để làm vinh danh Chúa Cha (6).

5. Canh tân

Hẳn có nhiều yếu tố bên ngoài, do các đấng lập dòng chủ trương xưa, ngày nay được xác nhận là không còn hợp thời. Có một ít điều chồng chất lại từ năm này qua năm khác khiến đời tu trở thành nặng nề, cứng ngắc, cần phải được bỏ bớt. Những sự thích nghi cần phải được thực hiện. Những hình thức mới cũng phải được nghiên cứu và thiết lập với sự chuẩn y của Giáo Hội. Đó là việc mà nhiều Dòng đã mau lẹ thực hiện từ mấy năm nay bằng cách đem ra thí nghiệm, đôi khi quá táo bạo, hiến pháp và luật lệ đã được canh tân : Ta biết điều đó và Ta cũng lưu tâm đến cố gắng canh tân mà Công Đồng mong muốn (7).

6. Sự phân định cần thiết

Ngay giữa tiến trình năng động này, tinh thần thế tục thường tìm cách chen vào hành động của Chúa Thánh Thần, Ta biết làm cách nào để giúp các con có được phân định cần thiết ? Làm cách nào để duy trì và đạt tới điều thiết yếu ? Làm cách nào để lợi dụng kinh nghiệm trong quá khứ và suy nghĩ trong hiện tại để củng cố hình thức sống theo Phúc Âm này ? Phần Ta, theo trách nhiệm đặc biệt mà Thiên Chúa đã trao phó cho Ta trong Giáo Hội là củng cố các anh em Ta” (8), Ta muốn khích lệ các con hãy tiến bước một cách vững chắc hơn và với lòng tín thác vui tươi hơn trên con đường mà các con đã chọn. Trong việc tìm kiếm đức ái hoàn hảo (9), đức ái điều khiển đời sống các con, các con còn phải có thái độ nào, nếu không phải là hoàn toàn sắp đặt để Chúa Thánh Thần, Người hành động trong Giáo Hội, mời gọi các con đến hưởng quyền tự do của con cái Thiên Chúa (10) ?

7. Giáo huấn của Công Đồng về đời tu

Các con thân yêu, chính vì các con đã tự ý đáp lại lời mời gọi của Chúa Thánh Thần mà quyết định theo Đức Ki-tô bằng cách dâng hiến trọn vẹn chúng con cho Người. Từ nay, những lời khuyên Phúc Âm về khiết tịnh tận hiến cho Thiên Chúa, về khó nghèo và vâng lời trở thành luật lệ của đời sống các con. Công Đồng nhắc lại cho chúng ta rằng quyền bính của Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, đã ân cần giải thích và quy định cách thực hành ba lời khuyên Phúc Âm, nhờ đó thiết lập nên những hình thức sống vững vàng” (11). Vì thế, Giáo Hội công nhận và chứng thực đời sống được cấu tạo bởi việc tuyên khấn ba lời khuyên Phúc Âm : Nhờ lời khấn hoặc nhờ những mối dây thánh khác tương tự như lời khấn, người Ki-tô hữu tự buộc mình thi hành ba lời khuyên, họ hiến toàn thân cho Thiên Chúa mà họ yêu mến trên hết mọi sự… Nhờ bí tích thánh tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và tận hiến cho Thiên Chúa ; nhưng để có thể lĩnh nhận dồi dào hơn ơn thánh của bí tích thánh tẩy, họ chủ tâm nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên Phúc Âm trong Giáo Hội, để được giải thoát khỏi những ngăn trở có thể làm họ trì trệ trong nhiệt tình đức ái, và trong sự thờ phượng Thiên Chúa cách hoàn hảo. Nhờ những lời khấn ấy, họ được hiến dâng một cách tận tình hơn để phụng sự Thiên Chúa, sự tận hiến đó càng hoàn hảo hơn nhờ những mối dây bền chặt hơn, càng biểu dương Đức Ki-tô hợp nhất với Giáo Hội, hiền thê của Người, do một mối dây bất khả phân ly” (12).

Giáo huấn trên đây của Công Đồng làm sáng tỏ sự cao cả của việc các con tự do hiến thân theo gương hiến thân của Đức Ki-tô cho Giáo Hội, do đó các con đã hiến thân hoàn toàn và không đòi lại. Chính vì Nước Trời mà các con đã quảng đại hiến dâng cho Đức Ki-tô trọn tình yêu mãnh liệt và nhu cầu sở hữu cũng như quyền tự do quy định đời sống, là những thứ rất quý hoá đối với con người. Đấy là việc tận hiến của các con, việc tận hiến được thực hiện trong Giáo Hội và nhờ thừa tác vụ của Giáo Hội, hoặc do các vị đại diện Giáo Hội nhận lời khấn dòng, hay do cộng đoàn Ki-tô hữu, mà tình yêu công nhận, đón tiếp, nâng đỡ và bao bọc những người hiến thân trong cộng đoàn như một dấu chỉ sống động có thể và phải thúc đẩy một cách có hiệu quả tất cả các phần tử trong cộng đoàn chu toàn một cách can đảm những nhiệm vụ của ơn gọi Ki-tô hữu… làm cho tất cả các phần tử ấy thấy được ngay ở đời này những của cải trên trời” (13).

I. NHỮNG HÌNH THỨC CỦA ĐỜI TU

8. Đời sống chiêm niệm

Một số người trong các con được mời gọi sống cuộc đời chiêm niệm”. Một sức quyến rũ bất khả kháng đã lôi kéo chúng con lại với Chúa. Được Thiên Chúa chiếm cứ, các con đã hiến thân cho hành động tối cao của Người, hành động nâng chúng con lên với Người, biến hoá chúng con trong Người và chuẩn bị chúng con để sống cuộc chiêm niệm muôn thuở, là ơn kêu gọi chung của tất cả chúng ta. Làm sao các con có thể tiến tới được trên con đường ấy và trung thành với ơn thánh đang thúc đẩy các con, nếu các con không đem trọn tâm hồn và đời sống để đáp lại lời kêu gọi hướng các con về với Thiên Chúa một cách vững bền, nhờ một động lực là tình yêu ? Các con hãy coi mọi hoạt động trực tiếp khác mà các con phải đương đầu –những mối liên hệ huynh đệ, công việc không vụ lợi hay có lợi lộc, việc giải trí cần thiết, cùng những hoạt động giống như vậy– như một bằng chứng tỏ cho Chúa biết rằng chúng con sống kết hợp thân mật với Người, để Người ban cho chúng con cái ý hướng hợp nhất tinh tuyền, là điều rất cần để các con gặp được Người trong chính lúc cầu nguyện. Như thế các con sẽ cộng tác vào việc mở rộng Nước Thiên Chúa nhờ chứng tá của đời sống chúng con và nhờ việc tông đồ tuy âm thầm nhưng phong phú” (14).

9. Đời sống tông đồ

Một số người khác hiến thân làm việc tông đồ trong sứ mệnh chính yếu nhất, tức là rao giảng Lời Thiên Chúa cho những ai mà Thiên Chúa uỷ cho những người ấy phải tiếp đón để dẫn đưa họ về với đức tin. Một ơn vĩ đại như thế đòi hỏi phải sống kết hợp mật thiết với Chúa, để có thể truyền thông sứ điệp của Ngôi Lời nhập thể, tuy sử dụng ngôn ngữ mà thế gian có thể hiểu được. Tất cả đời sống chúng con rất cần được tham dự vào cuộc thương khó, sự chết và sự vinh quang của Chúa ! (15)

10. Chiêm niệm và hoạt động tông đồ

Và khi chúng con được mời gọi đảm nhiệm những trách vụ khác để phục vụ nhân loại – đại khái như hoạt động mục vụ, truyền giáo, dạy học, từ thiện và các việc tương tự, – chẳng phải lòng nhiệt thành gắn bó với Chúa trước tiên sẽ làm cho các việc ấy trở nên phong phú, tuỳ theo mức độ kết hiệp với Chúa trong thầm kín” (16) đó sao ? Nếu chúng ta muốn trung thành cẩn thủ giáo huấn của Công Đồng, chẳng phải các phần tử thuộc bất cứ Dòng tu nào, khi tìm kiếm một mình Chúa trên hết mọi sự cũng cần phải đem việc suy niệm khiến tâm hồn hợp nhất với Chúa kết hợp với lòng nhiệt thành tông đồ, gắng tham gia công cuộc cứu chuộc và cổ võ việc mở rộng nước Thiên Chúa” (17) đó sao ?

11. Đoàn sủng của các đấng lập Dòng

Chỉ có như thế, các con mới có thể hướng tâm hồn lên đón nhận chân lý và tình yêu Thiên Chúa theo đoàn sủng của các đấng sáng lập Dòng chúng con, mà Thiên Chúa đã làm cho xuất hiện trong Giáo Hội. Công Đồng có lý khi nhấn mạnh về nghĩa vụ các tu sĩ nam nữ phải trung thành với tinh thần của đấng sáng lập, trung thành với những ý hướng Phúc Âm và gương thánh thiện của các ngài. Họ cũng phải nhìn thấy một trong những nguyên tắc canh tân hiện hành và một trong những tiêu chuẩn hoạt động chắc chắn nhất khi mỗi hội Dòng phải tra tay làm (18). Đoàn sủng đời tu thật ra không phải là một sự thúc đẩy sinh ra bởi huyết nhục” (19) hoặc phát xuất do một tâm trạng hoà theo thế giới hiện tại” (20), nhưng chính là hoa quả của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn luôn hoạt động trong Giáo Hội.

12. Hình thức bên ngoài và lòng phấn khởi bên trong

Đoàn sủng của các đấng lập dòng là nguồn năng động riêng của mỗi Hội Dòng. Tuy rằng lời Thiên Chúa mời gọi được canh tân và thay đổi hình thức tuỳ theo những điều kiện biến chuyển về không gian và thời gian, nhưng luôn đòi phải có hướng tiến vững bền. Lòng sốt sắng đáp lại ơn thiên triệu trong chính đời sống con người đã vạch ra những bước đường căn bản và đặc biệt phải lựa chọn. Sự trung thành với những đòi hỏi gặp trên bước đường ấy là đá thử vàng để xem đời tu có xác thực hay không. Chúng ta đừng nên quên điều này là mọi tổ chức của nhân loại đều có thể bị mòn mỏi, khiến quy luật trở nên khô khẳng và có nguy cơ chỉ còn lại hình thức. Sự chăm chú giữ luật bề ngoài tự nó không đủ để bảo đảm giá trị của cuộc sống ấy. Vì thế luôn luôn phải hồi sinh những hình thức bên ngoài bằng những cố gắng bên trong, nếu không có sự cố gắng này, những hình thức bên ngoài không bao lâu sẽ trở nên một gánh nặng.

Qua những cách sống khác nhau, nhờ đó mà mỗi Dòng mang một sắc thái riêng biệt và bắt nguồn trong ơn thánh sung mãn của Đức Ki-tô (21) chúng ta thấy luật tối thượng, hay quy tắc tối hậu của đời tu, là theo Chúa Ki-tô theo giáo huấn Phúc Âm. Chẳng phải nỗi lo âu này đã khơi lên trong Giáo Hội, qua các thế kỷ, đòi hỏi của một đời sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời đó sao ?

II. NHỮNG CAM KẾT CHÍNH YẾU

13. Khiết tịnh tận hiến

Cần phải nhắc lại rằng chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới kêu mời người ta dứt khoát giữ đức khiết tịnh tu trì. Vả lại, tình yêu ấy đòi hỏi một cách khẩn thiết tình bác ái huynh đệ đến nỗi tu sĩ phải sống một cách rất sâu đậm với những người đồng loại trong trái tim của Đức Ki-tô. Giữ được điểm này, đời tận hiến cho Thiên Chúa và cho tha nhân sẽ là nguồn phát sinh một sự bình an sâu thẳm. Chúng ta không nên miệt thị tình yêu nhân loại và hôn nhân, – theo đức tin, tình yêu này chẳng phải là hình ảnh và là sự tham dự của mối tình phu phụ giữa Chúa Ki-tô và Giáo Hội đó sao (22) ? Đức khiết tịnh tận hiến nhắc lại cuộc duyên tình ấy một cách trực tiếp hơn và làm cho mối tình ấy vươn đến một cao độ mà lẽ ra mọi tình yêu nhân loại phải gắng đạt tới. Lúc này, hơn bao giờ hết tình yêu nhân loại bị đe doạ bởi một thứ: Ái tình cuồng loạn” (23) chúng ta phải hiểu và phải sống đức khiết tịnh với một lòng thẳng thắn và quảng đại hơn bất cứ lúc nào. Khiết tịnh là một nhân đức tích cực chứng tỏ tình yêu Chúa được đề cao hơn hết, và biểu dương một cách chói lọi và tuyệt đối mầu nhiệm kết hợp giữa Nhiệm Thể với vị Thủ Lãnh, giữa Hiền Thê với Bạn Trăm Năm muôn thuở. Sau cùng, nhờ trở nên giống Chúa Ki-tô một cách huyền diệu, đức khiết tịnh chi phối, biến đổi và thấm nhập vào tận ngóc ngách sâu thẳm nhất của trái tim con người.

14. Nguồn phong phú thiêng liêng

Các tu sĩ nam nữ thân yêu, các con cần phải phục hồi hiệu lực hoàn hảo của linh đạo Ki-tô giáo về đức khiết tịnh tận hiến cho Thiên Chúa. Khi đức khiết tịnh được tuân giữ một cách thiết thực vì Nước Trời, thì nó sẽ giải thoát lòng người, và như thế sẽ trở nên một dấu chỉ, một khích lệ cho đức ái và một suối nguồn đặc biệt phát sinh sự phong phú thiêng liêng trong thế giới” (24). Mặc dầu trần gian không luôn luôn nhìn nhận đức khiết tịnh nhưng đức ấy vẫn luôn gây được hiệu lực huyền bí giữa lòng trần gian.

15. Hồng ân Thiên Chúa

Về phần Ta, Ta xác tín rằng : giá trị và sự phong phú của đức khiết tịnh, được tuân giữ vì lòng yêu mến Thiên Chúa trong đời sống độc thân của tu sĩ, có nền tảng tối hậu trong lời Thiên Chúa, trong những giáo huấn của Đức Ki-tô, nơi Đức Trinh Mẫu của Người và trong tông truyền đã được Giáo Hội hằng xác nhận. Bởi chưng, đây là một hồng ân quý giá mà Chúa Cha ban cho một ít người. Hồng ân này mỏng dòn và dễ bị tổn thương vì sự yếu đuối của con người, lại bị trí óc tự nhiên cho là mâu thuẫn, và đối với những ai mà ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể không mặc khải cho biết tại sao ai mất mạng sống mình” vì Chúa sẽ tìm lại được mạng sống mình” (25) thì không thể hiểu được.

16. Khó nghèo tận hiến

Sống khiết tịnh để theo Đức Ki-tô, các con cũng cần biết rằng phải sống khó nghèo theo gương Người trong việc sử dụng những của cải đời này vốn cần thiết cho nếp sống hằng ngày. Vả lại, những người đồng thời luôn cật vấn các con về điểm này. Đã hẳn, các Hội Dòng có một sứ mạng quan trọng phải chu toàn trong những công cuộc từ thiện, cứu tế và công bằng xã hội : tất nhiên khi thi hành công việc phục vụ này, các Hội Dòng phải luôn luôn lưu tâm đến những đòi hỏi của Phúc Âm.

17. Tiếng kêu la của người nghèo

Các con đã nghe thấy tiếng kêu la của người nghèo” (26) vọng lên một cách khẩn thiết hơn bao giờ hết từ nỗi khốn khổ của cá nhân đến nỗi khốn khổ của tập thể. Chẳng phải để đáp lại tiếng kêu la của những người con được Thiên Chúa ưu ái, mà Đức Ki-tô đã đến (27), đã đi đến chỗ đồng hoá với họ đó sao (28) ? Trong một thế giới đang trên đà phát triển, tiếng kêu la dai dẳng của tập thể và của cá nhân lâm cảnh khốn cùng là một tiếng kêu nài khẩn cấp van xin người ta hãy thay đổi tâm trạng và thái độ” (29), đặc biệt đối với các con là những người theo sát Chúa Ki-tô trong thân phận Người huỷ mình ra không trên mặt đất này” (30). Ta biết rằng tiếng kêu nài ấy vang lên trong các con một cách thống thiết đến nỗi một số người trong các con đôi khi bị cám dỗ dùng đến bạo lực. Các con là môn đệ Đức Ki-tô, làm sao các con có thể theo một đường lối khác với đường lối của Người được ? Các con biết rằng đường lối của Đức Ki-tô không phải là một phong trào thuộc phạm vi chính trị hay trần thế, nhưng là một lời kêu gọi người ta hoán cải tâm hồn, để giải phóng lòng người khỏi mọi trở lực trần gian, để quay về với tình yêu.

18. Năm phương thức đáp lại tiếng kêu của người nghèo

Tiếng kêu la của người nghèo sẽ có dư âm nào trong đời sống các con ? Trước tiên, tiếng kêu la ấy phải cấm đoán các con không được cấu kết với bất cứ hình thức bất công xã hội nào. Tiếng kêu la ấy cũng bắt buộc các con phải thức tỉnh lương tâm trước hoàn cảnh bi đát của những người khốn khổ và trước những đòi hỏi của công bằng xã hội theo Phúc Âm và của Giáo Hội. Tiếng kêu la ấy đang dẫn đưa một số trong các con đến sống với người nghèo trong những điều kiện của họ và chia sẻ những nỗi âu lo ray rứt của họ. Đàng khác, tiếng kêu la ấy còn thỉnh mời một số đông Hội Dòng chúng con biến đổi một ít sinh hoạt để phục vụ người nghèo, điều mà thực ra nhiều Hội Dòng đã chu toàn một cách đại lượng. Sau cùng, tiếng kêu la ấy đòi buộc các con phải sử dụng một cách giới hạn của cải trong khi hoàn thành những công tác được trao phó cho các con. Trong đời sống hằng ngày, cả đời sống bên ngoài nữa, các con phải nêu lên những chứng tá của sự khó nghèo đích thực.

19. Sử dụng của cải trần gian

Trong một nền văn minh và trong một thế giới mà vật chất tiến triển mau lẹ và hình như vô tận, tu sĩ sẽ chứng minh thế nào được về đức khó nghèo, nếu lăn xả vào sự tìm kiếm không hạn chế những tiện nghi, nếu cho là hợp lý khi tự cho phép mình được hưởng tất cả những gì người ta cung cấp mà không cần phân định cũng không cần điều độ ? Trong khi nhiều người liều mắc phải hiểm nguy bị lừa bởi sức quyến rũ và sự an toàn vì tin rằng mình có của, có học và có quyền, thì tiếng mời gọi của Thiên Chúa đã đặt chúng con vào cao điểm của một lương tâm Ki-tô hữu : Nhắc lại cho loài người biết rằng sự phát triển đích thực và hoàn hảo của họ là đáp lại ơn được mời gọi tham gia với tư cách con cái vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống, là Cha của mọi người” (31).

20. Lao động

Các con cũng gắng biết nghe thấy lời than vãn của biết bao con người bị cuốn theo cơn lốc của lao động để kiếm lời, để hưởng khoái tiêu thụ, do đó bắt buộc con người đôi khi phải làm công việc trái nhân đạo. Một khía cạnh thiết yếu của đức khó nghèo nơi các con là chứng minh ý nghĩa nhân bản của việc lao động, phải được thực hiện trong sự tự do của lý trí và đem lại cho bản tính của lao động tính cách mưu sinh và phục vụ. Công Đồng đã chẳng nhấn mạnh rất đúng lúc, là các con cần phải tuân theo luật chung phải làm việc” (32) đó sao ? Làm việc để mưu sinh cho các con, mưu sinh cho anh chị em các con, để giúp đỡ những người nghèo, đó là bổn phận của các con. Nhưng những hoạt động của các con không được trái với ơn kêu gọi của Dòng các con, cũng không thể cho phép các con thường xuyên làm những việc thay thế nhiệm vụ riêng biệt của Dòng các con. Những hoạt động ấy cũng không được lôi cuốn các con, bất cứ cách nào, đến tình trạng tục hoá, gây thiệt hại cho đời sống tu trì của các con. Vậy các con hãy lưu ý đến tinh thần thúc đẩy các con làm việc : thật là một thất bại ghê gớm, nếu các con tưởng mình có giá trị” chỉ vì được thưởng công do những công việc trần tục đem lại.

21. Chia sẻ huynh đệ

Nhu cầu rất cấp bách ngày nay của việc chia sẻ huynh đệ phải bảo tồn được giá trị Phúc Âm của nó. Theo sách “Giáo Huấn của Mười Hai Tông Đồ” (Didakhê) : “Nếu anh em chia sẻ với nhau của cải đời đời, anh em lại càng phải chia sẻ với nhau của cải sẽ hư nát” (33). Sống đức khó nghèo thiết thực bằng cách để của cải làm của chung kể cả tiền lương nữa, sẽ làm chứng sự thông hiệp thiêng liêng khiến chúng con sống hợp nhất với nhau ; sống khó nghèo như thế là một lời kêu gọi sống động cho tất cả những người giàu có và cũng là một cách nâng đỡ những anh chị em đang túng bấn. Lòng mong ước chính đáng tự đảm nhận một trách nhiệm nào, không thể chứng minh bởi sự bo bo hưởng lợi tức riêng tư, nhưng với tâm tình huynh đệ tham dự vào lợi ích chung. Những thể thức sống khó nghèo của mỗi người và mỗi cộng đoàn đều lệ thuộc vào bản chất của từng Hội Dòng, lệ thuộc vào phương thức tuân phục được thực thi trong mỗi Hội Dòng : như thế, tuỳ theo ơn thiên triệu riêng biệt của mỗi tổ chức, mà thực hiện đặc tính “lệ thuộc” gắn liền với mọi hình thức khó nghèo.

22. Đòi hỏi của Phúc Âm

Các tu sĩ nam nữ thân mến, các con thấy những nhu cầu của nhân loại ngày nay, nếu các con cùng với Đức Ki-tô cảm thấy, thì những nhu cầu ấy sẽ làm cho đức khó nghèo của chúng con trở nên cấp bách hơn và hoàn hảo hơn. Tất nhiên các con cũng phải lưu ý tới hoàn cảnh người đời mà các con đang chung sống để thích nghi lối sống của chúng con với họ, nhưng đức khó nghèo của chúng con sẽ không thể chỉ đơn giản là phù hợp với những môi trường của họ. Giá trị chứng tá của đức khó nghèo bắt nguồn từ việc đáp lại một cách quảng đại đòi hỏi của Phúc Âm trong thái độ hoàn toàn trung thành với ơn thiên triệu của chúng con, chứ không phải bắt nguồn từ nỗi lo lắng tỏ ra mình nghèo khó, nỗi lo lắng này có thể chỉ có bề ngoài ; tuy nhiên cũng cần phải tránh những cách sống biểu lộ một thái độ cầu kỳ và khoe khoang. Ta nhận rằng trong một ít trường hợp các con có thể bỏ được áo dòng, nhưng Ta cũng không thể không nói đến sự thích hợp của áo dòng mà các tu sĩ nam nữ mặc. Như Công Đồng muốn, thì áo dòng là dấu chỉ của việc tận hiến (34) và phân biệt với lối phục sức theo thói đời.

23. Vâng lời tận hiến

Chẳng phải cũng chính vì muốn trung thành với ơn kêu gọi mà các con tuyên khấn vâng lời trong ánh sáng đức tin và trong chính sức mạnh của lòng mến Chúa Ki-tô đó sao ? Tuyên khấn như vậy, các con đã hiến dâng tất cả ý chí và bước vào kế hoạch cứu độ của Đức Ki-tô một cách vững mạnh hơn, quyết liệt hơn. Noi gương Đức Ki-tô, Đấng đã đến để hoàn thành thánh ý Chúa Cha, và hiệp thông với Đấng đã học vâng lời bằng đau khổ” và đã trở nên tôi tớ của anh em mình”, các con đã tự buộc mình chặt chẽ hơn để phụng sự Giáo Hội” và anh em mình. (35)

24. Tình huynh đệ theo Phúc Âm và hy sinh

Hoài bão Phúc Âm về tình huynh đệ đã được Công Đồng đề cập đến mạnh mẽ : Giáo Hội được định nghĩa là “Dân Thiên Chúa”, trong đó có phẩm trật để phục vụ các chi thể của Đức Ki-tô liên kết với nhau nhờ cùng một đức ái (36). Trong bậc tu dòng cũng như trong toàn thể Giáo Hội vẫn tồn tại mầu nhiệm phục sinh của Đức Ki-tô. Ý nghĩa sâu xa của đức tuân phục được thể hiện đầy đủ trong mầu nhiệm thương khó và phục sinh của Đức Ki-tô, trong mầu nhiệm ấy, định mệnh siêu nhiên của con người được thực hiện một cách hoàn hảo : thật thế, qua hy sinh, đau khổ và sự chết mà con người đạt tới sự sống thật.

Thi hành quyền bính giữa anh em các con tức là phục vụ họ (37) theo gương Đấng đã thí mạng sống mình để cứu nhiều người” (38).

25. Quyền bính và tuân phục

Bởi vậy, để phục vụ lợi ích chung thì quyền bính và đức tuân phục là hai phương diện bổ túc cho sự tham gia vào hiến lễ của Đức Ki-tô : người có quyền bính thì phải phục vụ, trong anh chị em mình, kế hoạch yêu thương của Đức Chúa Cha ; còn các tu sĩ chấp nhận những lời chỉ giáo của bề trên thể theo gương Thầy Chí Thánh chúng ta (39) và hợp tác vào công cuộc cứu độ. Như thế quyền bính và tự do cá nhân, thay vì chống đối nhau, lại cùng nhau thi hành thánh ý Thiên Chúa đã được nhận ra trong tình huynh đệ nhờ một cuộc đối thoại đầy tin tưởng giữa bề trên và tu sĩ khi liên quan đến một trường hợp cá nhân, hoặc nhờ một cuộc bàn luận chung về những gì có liên hệ đến cả cộng đoàn. Trong cuộc tìm kiếm ấy, các tu sĩ phải tránh đừng để tâm trí giao động quá mạnh, cũng phải tránh đừng làm cho những quan niệm của thời đại lấn át ý nghĩa sâu xa của đời sống tu trì. Mỗi người đều có nhiệm vụ, nhưng đặc biệt là các bề trên và những người thi hành một trách nhiệm giữa anh chị em có nhiệm vụ phải làm thức tỉnh lại trong các cộng đoàn những xác tín về đức tin, để những xác tín này hướng dẫn các tu sĩ. Cuộc tìm kiếm có mục đích là đào sâu những xác tín và đưa những xác tín ấy ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày, tuỳ theo những nhu cầu của thời đại chứ không hề nhắm mục đích đem những xác tín ấy ra xét lại. Nếu những cuộc tìm kiếm chung ấy cần chấm dứt, thì phải được kết thúc với một quyết định của bề trên : sự hiện diện và chấp nhận của các ngài không thể nào thiếu cho mỗi cộng đoàn.

26. Những hoàn cảnh mới của sự vâng lời

Hoàn cảnh sống hiện đại dĩ nhiên có ảnh hưởng lớn đến đời sống tuân phục của các con. Thật thế, một số người trong các con thực hiện một phần những hoạt động ngoài tu viện, hoặc thi hành một chức vụ có khả năng chuyên môn. Một số khác lại cộng tác với những nhóm lao động có một nếp sống riêng biệt. Những nguy hiểm của những hoàn cảnh tương tự như thế lại không phải là một lời kêu gọi các con hãy củng cố lại và hãy nghiên cứu kỹ ý nghĩa của đức tuân phục đó sao ? Để công việc các con làm được tốt lành, các con cũng phải có một ít điều kiện cần thiết. Trước hết, các con phải kiểm chứng lại xem công việc mà các con đang đảm đương có hợp với ơn kêu gọi của Dòng các con không. Các con cũng phải xác định rõ ràng hai lãnh vực. Nhất là phải biết gạt bỏ những hoạt động bên ngoài để trở về với những đòi hỏi của nếp sống chung bởi vì quan tâm muốn cho những yếu tố cấu thành đời sống tu trì có được tất cả hiệu năng. Một trong những nhiệm vụ chính của các bề trên là bảo đảm cho anh chị em tu sĩ những điều kiện tối cần cho đời sống thiêng liêng của họ. Nhưng làm sao các ngài có thể chu toàn được nhiệm vụ này nếu không có sự cộng tác tín nhiệm của toàn thể tu viện ?

27. Tự do và tuân phục

Ta phải nói thêm điều này nữa là các con càng thi hành phần trách nhiệm của các con, thì các con càng phải đổi mới lại đời tận hiến của các con cho hoàn hảo. Đức Ki-tô buộc mỗi người phải đánh mất mạng sống của mình” nếu họ muốn theo Người (40). Các con tuân giữ giáo huấn ấy bằng cách chấp nhận những lời chỉ giáo của các bề trên các con như là một bảo chứng cho lời khấn dòng của các con, lời khấn dòng là lễ hiến tế toàn diện ý riêng của các con như một lễ hy sinh chính mình cho Thiên Chúa” (41). Đức tuân phục Ki-tô giáo là một sự tùng phục thánh ý Thiên Chúa vô điều kiện. Nhưng đức tuân phục của các con còn chặt chẽ hơn nữa vì đã khấn giữ nó một cách đặc biệt, và việc lựa chọn bị giới hạn bởi những gì các con đã tuyên khấn. Đó chính là một tác động hoàn toàn của quyền tự do đã làm cho các con trở nên tu sĩ hiện nay : nhiệm vụ các con là làm cho tác động ấy luôn luôn trở nên sống động hơn hoặc bằng những sáng kiến riêng, hoặc bằng cách các con sẵn lòng hưởng ứng những mệnh lệnh của các bề trên chúng con. Vì thế mà Công Đồng nhìn nhận sự tự do được đức tuân phục tăng cường” (42) là một trong những ân huệ của bậc tu dòng, và nhấn mạnh rằng đức tuân phục ấy thay vì giảm bớt nhân phẩm của con người, lại làm cho con người trở nên trưởng thành bằng cách làm lớn mạnh quyền tự do làm con Thiên Chúa” (43).

28. Lương tâm và tuân phục

Tuy nhiên, giữa quyền bính của bề trên và lương tâm của tu sĩ, một thứ cung thánh trong đó chỉ mình con người đối diện với Thiên Chúa và nghe tiếng nói của Thiên Chúa” (44) lại không thể có những xung đột hay sao ? Nhưng cũng cần nói lại rằng một mình lương tâm mà thôi không thể phán đoán được giá trị luân lý của những hành động mà nó gợi ra, lương tâm phải chiếu theo, nếu cần phải sửa lại, phải được chỉ dẫn đúng với những quy luật khách quan.

Trừ ra khi nào một mệnh lệnh rõ ràng trái với luật Thiên Chúa hay là trái với hiến pháp của Dòng, hoặc chắc chắn mệnh lệnh ấy sẽ mang đến một điều xấu lớn lao – trong những trường hợp ấy nhiệm vụ tuân phục không còn buộc nữa -, những quyết định của bề trên liên quan đến một lãnh vực mà việc thẩm định một điều thiện tốt đẹp hơn có thể thay đổi tuỳ theo quan điểm riêng của mỗi người. Khi gặp một mệnh lệnh xét theo khách quan xem ra kém, và kết luận rằng mệnh lệnh ấy bất hợp lý và trái ngược với lương tâm, thì kết luận như thế là thiếu thực tế vì không nhận rằng có vô số những thực tại nhân loại lờ mờ khó hiểu và có giá trị lưỡng diện. Đàng khác, từ chối tuân phục thường gây thiệt hại nặng cho ích chung. Một tu sĩ không thể dễ dàng cho rằng có mâu thuẫn giữa phán đoán của lương tâm mình với phán đoán của bề trên. Và hoàn cảnh bất thường này đôi khi tạo nên một sự đau khổ thực sự bề trong, theo gương chính Đức Ki-tô, Đấng đã nhờ đau khổ để học cho biết tuân phục là gì” (45).

29. Thánh giá là bằng chứng của tình yêu lớn nhất

Nói thế có nghĩa là việc thực hiện đời tu trì đòi hỏi mức độ từ bỏ lớn lao. Vậy các con cần phải am hiểu ít nhiều về sức mạnh đã thúc đẩy Đức Ki-tô đến với Thánh giá của Người, đến Phép Rửa mà Người lãnh nhận”, nơi đó bốc cháy ngọn lửa sẽ thiêu đốt cả các con (46) ; các con phải hiểu ít nhiều về sự điên dại” mà thánh Phao-lô cầu chúc cho tất cả chúng ta, vì chỉ có sự điên dại ấy mới làm cho chúng ta nên khôn ngoan (47). Chớ gì đối với các con, cũng như xưa đối với Đức Ki-tô, Thánh giá trở nên bằng chứng của tình yêu lớn nhất. Phải chăng đã chẳng có một mối tương quan giữa thái độ từ bỏ và niềm vui, giữa hy sinh và tâm hồn được mở rộng, giữa kỷ luật và sự tự do thiêng liêng đó sao ?

III. LỐI SỐNG

30. Lối sống phù hợp với ơn gọi

Các tu sĩ nam nữ trong Đức Giê-su Ki-tô, phải nhận rằng thời nay khó tìm được một lối sống phù hợp với đòi hỏi ấy. Có biết bao điều trái ngược nhau thúc đẩy các con trước tiên tìm kiếm một hoạt động có hiệu quả xét về phương diện nhân loại. Nhưng các con không có nhiệm vụ phải nêu gương một đời khắc khổ trong vui tươi và quân bình, bằng cách đón nhận những khó khăn liên quan mật thiết với lao động và với những thử thách của đời sống với sự lo lắng vì thiếu an toàn, cũng như những sự từ bỏ cần thiết để đạt tới tình trạng sung mãn của đời sống Ki-tô hữu hay sao ? Thật vậy, tu sĩ hướng tới sự thánh thiện qua một con đường chật hẹp hơn” (48). Trong những vất vả khổ sở ấy, nhỏ hay lớn, lòng sốt sắng nội tâm làm cho các con nhận ra Thánh giá của Đức Ki-tô, và giúp các con đón nhận với đức tin và lòng yêu mến.

31. Chứng tá của nhân đức

Với điều kiện đó, các con sẽ nêu lên bằng chứng mà Dân Thiên Chúa đang chờ mong : bằng chứng của những người nam nữ có khả năng đón nhận tình trạng bấp bênh của đời khó nghèo, say mê nếp sống đơn sơ và khiêm nhu, yêu quý hoà bình, tránh mọi thoả hiệp hàm hồ, cương quyết từ bỏ mình hoàn toàn, đồng thời tự do và vâng phục, hồn nhiên và bền bỉ, hiền lành và cương nghị trong niềm xác tín của đức tin : hồng ân này sẽ được Đức Giê-su Ki-tô ban cho các con tương ứng với việc các con hiến mình cho Người không bao giờ rút lại. Lịch sử gần đây của biết bao tu sĩ nam nữ đã can đảm chịu đau khổ vì Đức Ki-tô tại nhiều quốc gia là một bằng chứng hùng hồn về điều đó. Trong khi Ta bày tỏ lòng ngưỡng mộ của Ta đối với họ, Ta muốn tất cả chúng con hãy lấy họ làm gương.

32. Cũng cố con người nội tâm

Trên bước đường ấy, các con nhận được một trợ lực quý giá nhờ ở nếp sống mà kinh nghiệm luôn trung thành với đoàn sủng của mỗi Tu hội mang lại ; kinh nghiệm này đã tổng hợp nhiều thể cách khác nhau và không ngừng khuyến khích đề ra những hướng mới. Nhưng các hình thái có thay đổi thế nào đi nữa, luôn luôn vẫn là những phương tiện xây dựng con người nội tâm. Chính mối lo lắng để củng cố sự xây dựng đó sẽ giúp các con nhận ra những hình thức của một nếp sống thích hợp hơn cả, giữa biết bao lo lắng khác. Quả thực, sự ước muốn quá đáng có một thái độ mềm dẻo và một khả năng tự do sáng tạo có thể đi đến chỗ lên án là khắt khe hẹp hòi những người muốn duy trì phần tối thiểu trong các thói quen phải giữ theo nếp sống các cộng đoàn cũng như sự trọn lành của các tu sĩ đòi hỏi. Quá bồng bột, vịn vào tình yêu huynh đệ hoặc dựa trên điều mà người ta tưởng là được Thánh Thần thúc đẩy, cũng có thể đưa tới chỗ phá đổ các định chế tu trì.

33. Tầm quan trọng của khung cảnh sống

Vì thế, nhờ kinh nghiệm, các con dễ hiểu rằng người ta không được coi thường tầm quan trọng của khung cảnh sống, vừa để hướng dẫn thường xuyên toàn diện con người phức tạp và phân hoá biết theo chiều hướng tiếng Thiên Chúa kêu gọi, vừa để hài hoà những xu hướng của con người theo đường thiêng liêng. Lòng người lại chẳng bị lôi cuốn bởi những sự mau qua đó sao ? Nhiều người trong chúng con bắt buộc phải sống, ít là một thời gian, trong một thế giới đang cố gắng tách biệt con người ra khỏi chính mình họ và làm phương hại đến việc kết hiệp với Thiên Chúa cùng với sự thống nhất thiêng liêng của cuộc sống. Bởi vậy các con cần phải học cho biết tìm thấy Thiên Chúa ngay cả trong hoàn cảnh sống hối hả, giữa những xao động và những quyến rũ phù vân.

34. Kỷ luật sống để kết hiệp với Thiên Chúa

Ai chẳng nhận thấy rằng khung cảnh huynh đệ của một lối sống kỷ luật, kèm theo những luật sống tự ý chấp nhận, sẽ giúp các con rất nhiều để đạt tới sự kết hiệp với Chúa ? Những quy tắc kỷ luật luôn luôn cần thiết cho bất cứ ai trở về với con tim” (49) theo đúng ý nghĩa của Kinh Thánh ; con tim nói lên cái gì sâu sắc nhất của tâm tình, tư tưởng và ước vọng của chúng ta, con tim bị chiếm cứ bởi ý tưởng về sự vô tận, sự tuyệt đối và chính định mệnh đời đời của chúng ta. Trong tình trạng hỗn loạn hiện nay, các tu sĩ phải làm chứng rằng con người, khi biết gắn bó với cứu cánh đời mình là Thiên Chúa hằng sống, thì sẽ biết, nhờ sự thống nhất các khả năng, thanh lọc tư tưởng và linh thiêng hoá giác quan, làm cho đời sống được quy hợp sâu xa và vững bền trong Thiên Chúa.

35. Tầm quan trọng của việc tĩnh tâm

Theo mức độ chu toàn những nghĩa vụ bên ngoài, các con cần phải biết cách rời bỏ những hoạt động ấy để trở về với đời sống trầm mặc, yêu mến những sự thuộc về Chúa, nhờ đó linh hồn các con được bổ sức lại. Nếu thực sự các con thi hành công việc của Thiên Chúa, thì chính các con sẽ cảm thấy cần phải có thời giờ hồi tâm, cùng với anh chị em tu sĩ, các con sẽ biến thời gian hồi tâm này thành thời gian sung mãn. Vì công việc chồng chất và tình trạng căng thẳng do đời sống tận hiến, ngoài những kinh nguyện đọc hằng ngày, chúng con nên quan tâm đặc biệt thêm việc cầu nguyện lâu giờ hơn, những giờ cầu nguyện phải được phân chia trong ngày tuỳ theo khả năng và bản chất của ơn kêu gọi các con. Trong những tu viện mà hiến pháp cho phép các con được tiếp rước khách một cách rộng rãi, các con nên ấn định việc lui tới và cách giao tiếp, cố sao tránh mọi giao động vô ích và giúp cho các khách của các con dễ dàng kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.

36. Tầm quan trọng của quy luật

Nói như trên là nói đến ý nghĩa của những quy luật điều hành đời sống hằng ngày của chúng con. Thay vì chỉ nhìn những quy luật dưới khía cạnh bắt buộc, thì một lương tâm sáng suốt sẽ nhận định ra theo những lợi ích mà những quy luật mang lại và bảo đảm cho đời sống thiêng liêng sung mãn hơn. Phải nói lên điều này là sự giữ luật Dòng đòi một truyền thụ đích thực hơn là giáo huấn lý trí và rèn luyện ý chí, truyền thụ ấy nhằm Ki-tô hoá toàn diện con người từ tận thâm tâm theo tám mối phúc thật của Phúc Âm.

37. Đạo lý của đời sống

Công Đồng nhìn nhận một nền đạo lý đã được chấp nhận để đạt tới mức trọn lành” (50) là một trong những di sản của các Dòng, là một trong những ơn huệ lớn nhất mà các Dòng bảo đảm cho các con. Vì bậc trọn lành ấy hệ tại việc luôn luôn tiến xa trong tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh em, nên phải nhận thức đạo lý ấy một cách rất chắc chắn cụ thể như là một đạo lý của đời sống phải được thực hiện một cách thiết thực. Nói như thế là có ý minh định rằng những cố gắng tìm tòi của các Dòng không phải chỉ nhằm mục tiêu thực hiện những điều thích nghi tuỳ theo những đổi thay của thế gian, trái lại những cố gắng ấy phải giúp tìm lại những phương tiện phong phú cần thiết cho cuộc sống được tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại hoàn toàn chiếm đoạt.

38. Kiến tạo con người mới

Bởi vậy, các cộng đoàn cũng như các tu sĩ làm nên tu viện cần phải vượt từ giai đoạn sinh khí tự nhiên” đến giai đoạn thuộc Thần Khí” (51).

“Con người mới” theo thánh Phao-lô, lại chẳng phải là Đức Ki-tô viên mãn trong Giáo Hội đồng thời là sự thông dự của mỗi Ki-tô hữu vào sự viên mãn đó sao ? Định hướng đó làm cho gia đình tu trì các con trở thành khung cảnh sống động làm tăng triển mầm sống thần linh, được gieo trồng vào mỗi người các con do phép Rửa tội, và sự tận hiến của các con, nếu được sống cho toàn vẹn, sẽ làm trổ sinh rất nhiều hoa trái phong nhiêu.

39. Thái độ đơn sơ niềm nở của đời sống cộng đoàn

Phải, cũng như mọi Ki-tô hữu, các con còn khuyết điểm, nhưng các con muốn tạo nên một môi trường giúp cho mỗi người anh em tấn tới trên đường thiêng liêng. Kết quả đó làm sao đạt được nếu những mối tương giao huynh đệ trong các con, kể cả sự giao tiếp thường nhật, không được ăn sâu trong Chúa ? Các con cũng đừng quên rằng, đức bác ái phải là một niềm hy vọng linh hoạt làm cho người khác có thể đạt được mục đích họ muốn nhờ sự giúp đỡ huynh đệ của các con. Dấu chỉ của đức bác ái chân thật gặp thấy trong sự đơn sơ vui tươi, nhờ đó mọi người đều cố gắng tìm hiểu xem mỗi người ao ước điều gì hơn cả (52). Nếu có ít nhiều tu sĩ tỏ ra chán ngán đời sống cộng đoàn thì ai sẽ đem lại cho họ sự phát triển ? Phải chăng trong đời sống cộng đoàn họ đã không tìm được mối thông cảm nuôi sống niềm hy vọng ? Không còn ai nghi ngờ được rằng tinh thần nhóm, những mối liên lạc huynh đệ, sự tương trợ trong cũng một hoạt động tông đồ, cũng như sự nâng đỡ lẫn nhau trong đời sống chung đã lựa chọn để phụng sự Đức Ki-tô một cách hoàn hảo hơn, là nguồn trợ lực quý giá trong đời sống hằng ngày.

40. Những cộng đoàn nhỏ

Theo chiều hướng đó, ta thấy xuất hiện khuynh hướng muốn lập những cộng đồng thu hẹp hơn. Một phản ứng tự phát chống lại những cách tập trung vô danh ở thành thị, nhu cầu thích nghi cơ sở một cộng đoàn với chỗ cư trú chật hẹp tại các thành phố tân tiến, nhu cầu muốn ở gần gũi nhau vì các điều kiện sinh hoạt của một nhóm cư dân cần được truyền bá Tin Mừng, đó là những lý do thường làm cho một số tu hội có ý thiết lập nhiều cộng đoàn ít nhân số. Những cộng đoàn thu hẹp này cũng có thể giúp cho việc phát triển mối tương quan mật thiết hơn giữa các tu sĩ và thân ái gánh đỡ nhau những trách vụ nặng nề. Tuy nhiên, nếu quả thực có một khung cảnh nào đó có thể làm phát sinh được một bầu khí thiêng liêng, thì thật là ảo tưởng nếu tin rằng chỉ cần phát triển khung cảnh ấy là đủ. Những cộng đoàn nhỏ, thay vì đem lại một lối sống dễ dãi hơn, thì ngược lại có nhiều đòi hỏi hơn đối với những phần tử sống trong đó.

41. Những cộng đoàn lớn

Mặt khác, quả thật những cộng đoàn đông đảo lại đặc biệt thích hợp với nhiều tu sĩ. Các cộng đoàn này có thể cũng cần phải được thiết lập do bản tính của việc phục vụ theo đức ái, do một số hoạt động trí thức hay do việc thực hiện đời chiêm niệm hoặc đan tu. Ước chi trong các cộng đoàn đó, người ta luôn luôn ý hợp tâm đầu, tuỳ theo mục đích tinh thần và siêu nhiên mà họ theo đuổi. Vả lại, dầu có hình thái nào đi nữa, thì các cộng đoàn, lớn hoặc nhỏ, cũng chỉ có thể giúp đỡ được các phần tử của mình nếu các cộng đoàn đó được sống linh động vững bền theo tinh thần Phúc Âm, được nuôi dưỡng bởi việc cầu nguyện, và được đề cao do quảng đại khổ chế con người cũ, do giữ quy luật cần thiết để đào tạo người mới và do sự phong phú của lễ hy sinh Thánh giá.

IV. VIỆC CANH TÂN

VÀ TĂNG TRƯỞNG THIÊNG LIÊNG

42. Cầu nguyện để tìm lại khát vọng Thiên Chúa

Hỡi các tu sĩ nam nữ thân yêu, lẽ nào các con lại không có khát vọng hiểu biết rõ hơn Đấng mà các con yêu mến và muốn bày tỏ ra cho nhân loại ? Kinh nguyện phải hợp nhất các con lại với Người. Nếu các con đã mất hứng thú đó thì các con phải cố gắng tìm lại cho được bằng cách cứ khiêm nhường cầu nguyện. Các con chớ quên bằng chứng của lịch sử là : trung thành cầu nguyện hay phế bỏ cầu nguyện là bản trắc nghiệm cho thấy đời sống tu trì còn sống động hay đã suy thoái.

43. Cầu nguyện để sống mật thiết với Thiên Chúa

Kinh nguyện là khám phá ra tình thân mật với Thiên Chúa, là yêu sách đòi phải tôn thờ Thiên Chúa, là nhu cầu cần được chuyển cầu : kinh nghiệm về sự thánh thiện Ki-tô giáo cho ta thấy kinh nguyện rất phong phú, nhờ đó Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra trong trí tuệ và tâm hồn của tôi tớ Người. Thiên Chúa tỏ cho chúng ta được biết chính mình Người trong những ngọn lửa của tình yêu. Những ân huệ của Thánh Thần thật là thiên hình vạn trạng, nhưng những hồng ân ấy bao giờ cũng làm cho chúng ta nếm hưởng sự nhận biết Chúa một cách thân mật và chân xác ; nếu không có sự nhận biết này, chúng ta không thể nào hiểu được giá trị đời sống Ki-tô hữu cũng như đời sống tu trì, không thể nào có sức mạnh tiến lên trong niềm vui của một hy vọng không bao giờ lừa dối.

44. Cầu nguyện để khám phá Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử

Thật vậy, Thánh Thần cũng ban cho các con ơn được gặp thấy dung nhan của Chúa trong tâm hồn những người mà Người dạy các con phải yêu thương như anh em mình. Người cũng giúp các con khám phá cách Người tỏ tình thương yêu qua các biến cố. Trong sự khiêm nhượng chú tâm đến mọi người mọi vật, Thánh Thần của Đức Giê-su soi sáng ta và ban cho chúng ta được đầy ơn khôn ngoan, miễn là chúng ta được thấm nhuần sâu xa tinh thần cầu nguyện.

45. Cầu nguyện và đời sống nội tâm

Một trong những nỗi khốn khổ của thời đại chúng ta, lại chẳng phải là sự bất quân bình giữa các điều kiện sống tập thể và những đòi hỏi của suy tư cá nhân cũng như sự chiêm niệm” (53) đó ư ? Có biết bao nhiêu người, và trong đó có biết bao thanh thiếu niên đã đánh mất ý nghĩa của đời mình, và khắc khoải tìm kiếm chiều kích nội tâm của mình, mà không nghĩ rằng, trong Giáo Hội, Đức Ki-tô có thể đáp ứng sự mong chờ của họ ! Những sự kiện đó phải làm cho các con nghiêm chỉnh suy nghĩ về điều mà loài người có quyền chờ đợi ở các con, những người đã tuyên thệ sống để phục vụ Ngôi Lời, là Ánh sáng chân thật sáng soi hết mọi người” (54). Thế nên, các con hãy ý thức tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong cuộc đời các con, và hãy học cho biết chăm chỉ cầu nguyện một cách quảng đại : đối với mỗi người các con, nam hay nữ, sự trung thành với việc cầu nguyện hằng ngày phải là một nhu cầu căn bản, và phải chiếm chỗ ưu tiên trong hiến pháp cũng như trong đời sống các con.

46. Thinh lặng

Con người nội tâm cảm thấy những thời giờ thinh lặng là một yêu sách của tình yêu Thiên Chúa, và theo thông thường họ cần phải có một sự cô tịch để lắng nghe Thiên Chúa nói trong tâm hồn họ” (55). Ta cần nhấn mạnh rằng : một sự thinh lặng mà chỉ là vắng tiếng động và lời nói nhưng trong đó linh hồn không được rèn luyện lại, thì rõ ràng là một thứ thinh lặng thiếu giá trị thiêng liêng, và có thể làm tổn thương đến đức ái huynh đệ, nếu lúc đó cần phải có những lời trao đổi với nhau. Nhưng sự tìm kiếm tình thân mật với Thiên Chúa đòi toàn thể con người cần phải thinh lặng cho thật sống động, đối với những người phải tìm Thiên Chúa trong ồn ào náo nhiệt, cũng như đối với những người chuyên chiêm niệm (56). Đức tin, đức cậy, lòng mến yêu Thiên Chúa, sự sẵn sàng đón nhận hồng ân Chúa Thánh Thần cũng như một tình yêu huynh đệ biết mở rộng đón nhận mầu nhiệm tha nhân và nhu cầu của họ, tất cả đều đòi phải có một sự thinh lặng.

47. Đời sống phụng vụ. Thánh Thể và sự dâng hiến bản thân.

Có cần phải nhắc lại địa vị vô song của phụng vụ Giáo Hội trong đời sống cộng đoàn các con, mà trung tâm là lễ tế Thánh Thể, nơi đây lời cầu nguyện bên trong đi đôi với phụng tự bên ngoài không (57) ? Khi tuyên lời khấn dòng, các con đã được Giáo Hội kết hợp mật thiết với hy lễ Thánh Thể mà hiến dâng cho Thiên Chúa (58). Ngày này qua ngày khác, sự hiến dâng chính mình các con đó phải trở nên một thực tại được đổi mới một cách cụ thể và tiếp nối mãi. Sự hiệp thông với Mình và Máu Đức Ki-tô là nguồn mạch trước tiên của việc đổi mới này (59). Nhờ sự hiệp thông ấy ý chí mến yêu chân thực đến mức hy sinh đời sống của các con không ngừng được củng cố.

48. Thánh Thể, trung tâm cộng đoàn và nguồn mạch sức sống

Cộng đoàn của các con đã được tập hợp nhân danh Thánh Thể, thì tự nhiên là có Thánh Thể làm trung tâm, vì Thánh Thể là bí tích của tình yêu, là dấu chỉ hợp nhất, là mối dây đức ái” (60). Cho nên thật là xứng hợp khi chúng con công khai tập họp tại một nguyện đường, nơi đó sự hiện diện của Thánh Thể biểu lộ và thực hiện sứ mạng chính yếu phải có của toàn thể gia đình tu trì, cũng như của tất cả cộng đoàn Ki-tô giáo. Thánh Thể đã làm cho chúng ta không ngừng loan truyền cái chết và cuộc phục sinh của Chúa, và chuẩn bị cho chúng ta đón Người trở lại vinh quang, thì Thánh Thể cũng làm cho các con luôn luôn tưởng nhớ những đau khổ thân xác và tinh thần Đức Ki-tô đã chịu, và tự ý chấp nhận cho đến hấp hối và chết trên Thánh giá. Ước chi những thử thách các con gặp trở nên cơ hội để các con chịu đựng với Chúa, và dâng lên Chúa Cha biết bao tai hoạ và đau khổ bất công đang xâu xé anh em chúng ta, và chỉ nhờ đức tin soi dẫn, chỉ có hy sinh của Đức Ki-tô mới có thể làm cho những đau khổ và tai hoạ ấy có một ý nghĩa.

49. Cộng tác thiêng liêng với nhân loại

Như vậy, chính cả thế giới cũng hiện diện ở trung tâm đời sống cầu nguyện và hiến dâng của các con, như Công Đồng đã hùng hồn nói lên : Đừng có ai nghĩ rằng các tu sĩ vì đã tận hiến mà họ trở nên xa lạ với nhân loại và trở thành vô ích cho xã hội trần gian. Vì mặc dầu đôi khi không trực tiếp giúp đỡ người đồng thời với họ, nhưng các tu sĩ vẫn hiện diện với họ một cách thâm sâu hơn trong tình yêu Đức Ki-tô, và cộng tác với nhân loại một cách thiêng liêng, để công cuộc kiến tạo xã hội trần gian luôn luôn có nền tảng trong Thiên Chúa và quy hướng về Người, hầu những người xây dựng xã hội ấy khỏi nhọc công vô ích” (61).

50. Tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội

Công Đồng nhấn mạnh rằng : Sự tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội này không thể tiến nếu thiếu một sự rộng mở và cộng tác vào các sáng kiến và quyết định của Giáo Hội, như trong lãnh vực Kinh Thánh, Phụng vụ, Tín lý, Mục vụ, Đại kết, Truyền giáo và Xã hội” (62). Quan tâm đến hoạt động mục vụ trong toàn thể, nhưng chắc chắn là các con luôn luôn phải thi hành việc đó trong niềm tôn trọng đặc tính riêng của mỗi Dòng”, đồng thời các con phải nhớ rằng ơn miễn trừ đặc biệt liên quan đến cơ cấu nội bộ của tu viện, chứ không miễn cho các con khỏi tuân phục quyền tài phán của các giám mục có trách nhiệm, trong mức độ mà nhiệm vụ chủ chăn của các ngài, và sự tổ chức hoàn hảo trong bổn phận phục vụ các linh hồn, đòi phải như vậy” (63). Mặt khác, hơn hết, các con phải luôn luôn nhớ rằng, hoạt động của Giáo Hội chỉ nối tiếp được công việc của Đấng Cứu Chuộc để mưu ích cho loài người khi hoạt động đó đi vào tác động của chính Đức Ki-tô, Đấng đã quy tụ tất cả về cho Cha của Người : Hết thảy đều thuộc về anh em nhưng anh em thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô thuộc về Thiên Chúa” (64). Thật vậy, tiếng Thiên Chúa mời gọi hướng các con một cách trực tiếp và hiệu nghiệm nhất về Nước Trời vĩnh cửu. Qua những sức ép thiêng liêng không thể tránh được trong suốt cuộc sống tu trì đích thực các con sẽ chứng tỏ một cách rõ ràng và đặc biệt rằng, chỉ có thể biến đổi và hiến dâng thế giới này cho Thiên Chúa nhờ tinh thần tám mối phúc” (65).

LỜI NHẮN NHỦ CUỐI CÙNG

51. Tiến tới một cuộc đổi mới đời tu trì cách đích xác

Các con thân ái trong Đức Ki-tô, muốn được đổi mới, đời sống tu trì phải thích nghi những hình thức tuỳ tòng của nó với những biến đổi có ảnh hưởng một cách mau chóng và rộng rãi đến các điều kiện của toàn thể cuộc sống nhân loại. Làm thế nào để đạt tới chỗ đó, mà vẫn duy trì được các hình thức sống bền vững” (66) đã được Giáo Hội công nhận này, nếu không phải là canh tân lại ơn thiên triệu đích thực và toàn vẹn thuộc riêng các Dòng chúng con ? Đối với một sinh vật, sự thích nghi với lãnh vực không hệ tại chỗ bỏ mất căn tính của mình, mà trái lại, hệ tại biết củng cố sức sống riêng của mình một cách vững chắc. Sự ý thức rõ được những khuynh hướng hiện tại và những đòi hỏi của thế giới tân tiến này phải làm cho các nguồn mạch riêng biệt của các con vọt lên một dòng suối đầy sinh lực trong mát và mới mẻ. Công việc đó đầy hứng khởi đồng thời cũng gặp nhiều khó khăn.

52. Cần phải có chứng tá Phúc Âm trong thế giới ngày nay

Một vấn đề sôi bỏng đang ám ảnh chúng ta ngày nay là : làm thế nào đem được sứ điệp Phúc Âm vào việc văn minh hoá đại chúng ? Phải hoạt động như thế nào ở những cấp độ đang triển khai một nền văn hoá mới, đang phác hoạ một mẫu người mới, nghĩ mình không cần đến ơn cứu chuộc ? Hết thảy các con đều đã được mời gọi để chiêm ngưỡng mầu nhiệm cứu độ, cho nên các con hiểu được rằng những câu hỏi ấy đặt ra cho đời sống của các con bao nhiêu nghĩa vụ quan trọng, và thúc đẩy lòng nhiệt thành với việc tông đồ mãnh liệt biết bao ! Các nam nữ tu sĩ thân mến, tuỳ theo cách thức Thiên Chúa đòi hỏi nơi các gia đình thiêng liêng của các con, các con phải mở rất rộng tầm mắt ra trước những nhu cầu của loài người, trước những vấn đề, những tìm tòi của họ, để nhờ cầu nguyện và hoạt động mà cho họ thấy rằng : Tin Mừng tình thương, công lý và hoà bình, có một mãnh lực cao cả. Việc nhân loại khát vọng một đời sống thân ái hơn giữa người với người và giữa các quốc gia với nhau, trước hết đòi hỏi phải biến cải phong tục, não trạng và lương tâm. Công việc này, chung cho cả Dân Thiên Chúa, là nghĩa vụ của chúng con do một danh nghĩa riêng. Làm thế nào để chu toàn nghĩa vụ đó, nếu không có lòng ham mộ những sự trên trời, là hệ quả của một thứ kinh nghiệm về Thiên Chúa ? Thật quá rõ : cuộc canh tân thực sự đời tu quan trọng biết bao để có thể canh tân Giáo Hội và thế giới !

53. Chứng nhân sống động của tình yêu Thiên Chúa

Hơn bao giờ hết, thế giới ngày nay rất cần đến những người nam nữ biết tin vào Lời Chúa, vào cuộc phục sinh của Người, và vào sự sống đời đời, đến độ hy sinh cuộc sống trần gian để làm chứng cho tình yêu tự hiến cho tất cả loài người. Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội không bao giờ ngừng sống động và hoan hỷ vì biết bao nam nữ tu sĩ, khi theo mẫu trọn lành Phúc Âm dưới nhiều hình thức khác nhau, đã chứng minh tình yêu vô hạn của Đức Giê-su bằng đời sống của mình. Đối với con người ngày nay, đó lại chẳng phải là một luồng gió sống động từ cõi vô biên thổi tới, như một giải thoát cho chính họ, để họ nhìn thấy viễn tượng hoan lạc vĩnh cửu và tuyệt đối đó ư ? Khi các con rộng mở tâm hồn đón nguồn vui thần linh này, khi tuyên xưng lại những chân lý đức tin, khi theo ánh sáng đức tin tìm hiểu những nhu cầu của thế giới này, đúng tinh thần Ki-tô giáo, các con hãy quảng đại sống đúng những yêu sách của ơn Chúa gọi các con. Đây là giờ phút rất nghiêm trọng để các con ân cần chỉnh đốn ý thức, nếu cần, và cũng là để duyệt lại tất cả đời sống của các con, nhằm tiến tới một sự trung thành tối đa.

54. Đơn sơ như trẻ thơ

Nhìn các con với tình ấu yếm của Chúa khi Người gọi các môn đệ Người là đoàn chiên nhỏ”, khi Người cho họ biết ý định của Cha Người là ban cho họ Nước Trời (67), Ta khẩn xin các con hãy sống đơn sơ như những trẻ nhỏ” trong Phúc Âm. Các con hãy gắng tìm lại tính đơn sơ ấy trong tình thân mật tha thiết với Đức Ki-tô, hay trong sự tiếp xúc trực tiếp với các anh chị em các con. Như thế các con sẽ cảm thấy tâm hồn được vui mừng hớn hở trong Chúa Thánh Thần”, nguồn vui của những người được gia nhập vào mầu nhiệm Nước Trời. Các con đừng vào số người khôn ngoan và tài giỏi” mà tất cả thế sự đều giúp họ tăng số, đối với họ các bí mật Nước Trời đều bị giấu kỹ (68). Các con hãy thật lòng trở nên những người nghèo khó, hiền lành, những người đói khát sự thánh thiện, những người có lòng thương xót, có lòng thanh sạch, những người sẽ làm cho thế giới nhận biết sự bình an của Thiên Chúa (69).

55. Ảnh hưởng sung mãn của niềm vui chúng con

Niềm vui được thuộc về Chúa mãi mãi là hoa trái khôn sánh của Chúa Thánh Thần mà các con đã từng được thưởng thức. Được tràn đầy nguồn vui ấy, các con hãy tin tưởng nhìn thẳng về tương lai, vì Đức Ki-tô sẽ gìn giữ cho, dù gặp phải thử thách. Theo mức độ nguồn vui ấy giãi ra từ những cộng đoàn của các con, nó sẽ là dấu chỉ cho mọi người thấy rằng : nếp sống mà các con đã chọn giúp các con phát triển đời sống trong Đức Ki-tô tối đa, nhờ sự từ bỏ trong ba lời khấn dòng. Bấy giờ những người trẻ tuổi, khi thấy cách các con sống, sẽ có thể nhận ra được lời Đức Giê-su mời gọi hằng vang dội lên trong lòng họ (70). Thật vậy, Công Đồng cũng nhắc lại cho các con rằng : Gương sáng của đời sống các tu sĩ là cách thức tốt đẹp nhất và hiệu nghiệm để giới thiệu các Dòng và mời gọi người ta đón nhận đời sống tu trì” (71). Cũng không thể hồ nghi rằng khi tỏ lòng mến phục và yêu mến các con, các giám mục và linh mục, các cha mẹ và các nhà giáo dục công giáo đã gieo vào lòng nhiều người một ước muốn đi theo con đường của các con, để đáp lại tiếng mời gọi của Đức Ki-tô hằng vang lên trong lòng các môn đệ Người.

56. Cầu nguyện cùng Mẹ Ma-ri-a

Xin Mẹ chí ái của Chúa mà các con đã noi gương để tận hiến cuộc đời các con cho Thiên Chúa khẩn nài cho các con, trên bước đường hằng ngày, được nguồn vui bất diệt mà chỉ có Đức Giê-su mới có thể ban cho các con. Và ước gì theo gương Mẹ, đời sống của các con biểu lộ được mối tình mẫu tử mà tất cả những ai hợp tác trong sứ mạng tông đồ của Giáo Hội đều phải có, vì tất cả đều hoạt động để tái sinh nhân loại” (72). Các nam nữ tu sĩ rất thân mến, ước gì niềm vui của Chúa biến hình đổi dạng đời sống tận hiến của các con, và ước gì tình yêu của Người làm cho cuộc đời các con trở nên phong phú. Nhân danh Chúa và với tất cả tấm lòng, Ta ban phép lành cho các con.

Va-ti-ca-nô, lễ các thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô

ngày 29 tháng 6 năm 1971,

năm thứ chín tôi làm giáo hoàng.

Phao-lô VI

————————-

(1) Tông thư Il tempo massimo, 02-07-1962.

(2) GH, số 46.

(3) DT.

(4) Lc 18,29-30.

(5) MV, số 43.

(6) X. GH, ch.V.

(7) X. ES và RC.

(8) Lc 22,32.

(9) X. DT, số 1.

(10) X. Gl 5,13 ; 2 Cr 3,17.

(11) GH, số 43.

(12) GH, số 44.

(13) GH, số 44.

(14) DT, số 7.

(15) X. Pl 3,10-11.

(16) Mt 6,6.

(17) DT, số 5.

(18) X. GH, số 45 ; DT, số 2b.

(19) Ga 1,13.

(20) Rm 12,2.

(21) X. 1 Cr 12,12-30.

(22) X. MV, số 48 ; Ep 5,25.32.

(23) Xem diễn văn cho Nhóm “Notre Dame”, 4-5-1970, số 4, trang AAS 2 (1970), 429.

(24) GH, số 42.

(25) X. Mt 10,39 ; Mc 8,25 ; Lc 9,24 ; Ga 12,25.

(26) X. Tv 9,13 ; G 34,28 ; Cn 21,13.

(27) X. Lc 4,18 ; 6,20.

(28) X. Mt 25,35-40.

(29) MV, số 63.

(30) X. Mt 19,21 ; 2 Cr 8,9.

(31) Thông điệp “Phát triển các dân tộc”, số 21.

(32) DT, số 13.

(33) IV, 8 ; x. Cv 4,32.

(34) X. DT, số 17.

(35) X. DT, số 14 ; Ga 4,34 ; 5,30 ; 10,15-18 ; Dt 5,8.10 ; Tv 40,8-9.

(36) X. GH, I-III.

(37) X. Lc 22,26 ; Ga 13,14.

(38) Mt 20,28 ; x. Pl 2,8.

(39) X. Lc 2,51.

(40) X. Lc 9,23-24.

(41) DT, số 14.

(42) GH, số 43.

(43) DT, số 14.

(44) MV, số 16.

(45) Dt 5,8.

(46) X. Lc 12,49-50.

(47) X. 1 Cr 3,18-19.

(48) GH, số 13.

(49) X. Is 46,8.

(50) GH, số 43.

(51) 1 Cr 2,14-15.

(52) X. Gl 6,2.

(53) MV, số 18.

(54) Ga 1,9.

(55) X. Hs 2,14.

(56) Xem Huấn thị về đời sống chiêm niệm Venite seorsum, 15-8-1969, trong AAS 61 (1969), 674-690 ; Thông điệp của các tu sĩ chiêm niệm gửi Thượng Hội Đồng Giám Mục, 10-10-1967, trong DC 64, cột 1907,1910.

(57) X. PV.

(58) Xem Nghi thức khấn dòng.

(59) X. PV, số 15.

(60) PV, số 47.

(61) GH, số 46.

(62) DT, số 2c.

(63) GM, số 35,3.

(64) 1 Cr 3,22-23 ; x. MV, số 37.

(65) GH, số 31.

(66) GH, số 43.

(67) X. Lc 12,32.

(68) X. Lc 10,21.

(69) X. Mt 5,3-11.

(70) X. Mt 19,11-12 ; 1 Cr 7,34.

(71) DT, số 24.

(72) GH, số 65.

Những Văn Kiện Đời Tu (Tập 1) – Tông thư Hồng Ân Cứu Chuộc

(catechesis.net)

HỒNG ÂN CỨU CHUỘC

(Redemptionis donum, 25-03-1984)

Dẫn nhập

Nhân dịp Năm Thánh mừng ơn cứu chuộc (1983-1984, kỷ niệm 1500 năm biến cố Thập giá và Phục sinh), Đức Gio-an Phao-lô II viết một tông thư cho các tu sĩ, trình bày mối liên hệ giữa sự tận hiến tu trì và mầu nhiệm cứu chuộc. Với giọng văn suy niệm, người mời gọi các tu sĩ khám phá những chiều kích thần bí sâu xa của việc tận hiến : đó là một giao ước tình yêu” với Chúa Cha, trong Đức Ki-tô, nhờ quyền năng của Thánh Thần (số 8). Qua giao ước đó, người tu sĩ chia sẻ với Chúa Cha và Đức Ki-tô mối ưu tư về việc cứu độ nhân loại, và tham gia vào sứ mạng tông đồ của Giáo Hội. Việc tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm biểu lộ việc thông dự vào mầu nhiệm thập giá của Đức Ki-tô (số 10).

Bố cục của văn kiện khá đơn giản. Trong bảy chương (gồm cả nhập đề và kết luận) gồm 17 số, Đức thánh cha cho thấy ý nghĩa sâu xa của những yếu tố làm nên đời tận hiến : Ơn gọi (3-6) ; Sự tận hiến (7-8) ; Các lời khuyên Phúc Âm (9-13) ; Lòng yêu mến Giáo Hội qua việc làm chứng và hoạt đồng tông đồ (14-15).

——————————————–

Anh chị em thân mến trong Đức Ki-tô Giê-su !

I. LỜI CHÀO THĂM

1Hồng ân cứu chuộc, mà Năm Thánh ngoại lệ này làm sáng tỏ một cách đặc biệt, bao gồm một lời mời gọi hoán cải và hoà giải với Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su. Nguyên do bên ngoài của Năm Thánh này mang tính chất lịch sử – thực thế, chúng ta mừng năm thứ 1950 biến cố Thập giá và Phục sinh -, nhưng đồng thời nguyên do bên trong chiếm một tầm quan trọng to lớn hơn, bởi vì năm thánh gắn liền với chính chiều sâu của mầu nhiệm cứu chuộc. Hội Thánh sinh ra từ mầu nhiệm này, và sống bằng mầu nhiệm này suốt dòng lịch sử. Năm thánh ngoại lệ nằm vào một thời điểm mang tính chất ngoại thường. Chúng ta được kêu mời hoán cải và hoà giải với Thiên Chúa, điều đó có nghĩa là chúng ta phải suy niệm một cách sâu xa hơn về đời sống của chúng ta, về ơn gọi Ki-tô hữu của chúng ta dưới ánh sáng mầu nhiệm cứu chuộc, để rồi làm cho đời sống và ơn gọi ấy luôn luôn đâm rễ sâu hơn trong mầu nhiệm ấy.

Lời mời gọi ấy nhắm đến tất cả mọi thành phần trong Hội Thánh, nhưng đối với các con là những tu sĩ nam nữ, lời mời gọi ấy được gửi đến một cách đặc biệt bởi vì do việc tận hiến cho Thiên Chúa qua việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, các con hướng đến một sự viên mãn đặc biệt của đời sống Ki-tô hữu. Ơn gọi riêng của các con cũng như toàn bộ đời sống của các con trong Hội Thánh và trong thế giới, sở dĩ có được tính chất và sức mạnh thiêng liêng là nhờ chính chiều sâu của mầu nhiệm cứu chuộc. Khi bước theo Đức Ki-tô trên đường chật… và hẹp” (Mt 7,14), các con cảm nghiệm được một cách phi thường rằng ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa” : copiosa apud eum redemptio (Tv 129,7).

2. Chính vì thế, trong khi Năm Thánh này đang tiến đến giai đoạn cuối, cha muốn ngỏ lời cách riêng với tất cả các con, nam nữ tu sĩ, những người hoàn toàn tận hiến trong bậc chiêm niệm hoặc những người dấn thân vào các lãnh vực hoạt động tông đồ. Ở nhiều nơi và trong nhiều cơ hội, cha đã ngỏ lời với các con hầu củng cố và nối dài giáo huấn Phúc Âm được diễn tả trong toàn thể truyền thống của Hội Thánh một cách đặc biệt trong huấn quyền của Công Đồng vừa qua, từ Hiến chế tín lý Lumen gentium đến Sắc lệnh Perfectae caritatis, theo tinh thần của những chỉ dẫn mà vị tiền nhiệm của cha là Đức Phao-lô VI đã nêu lên trong Tông huấn Evangelica testificatioBộ Giáo luật vừa mới có hiệu lực có thể được coi như là một văn kiện cuối cùng của Công Đồng ; nó sẽ là một sự trợ giúp quý giá và là một hướng đạo viên chắc chắn cho tất cả các con, để xác định một cách cụ thể đâu là những phương tiện giúp các con sống trung thành và quảng đại ơn gọi cao cả của các con trong chiều kích Giáo Hội.

Cha chào thăm các con với tâm tình quý mến của vị Giám mục Rô-ma và là người kế nhiệm thánh Phê-rô, mà các cộng đoàn của các con vốn hiệp nhất với, một cách đặc biệt. Từ toà của thánh Phê-rô này, những lời của thánh Phao-lô cũng vang lên như một tiếng vọng liên lỉ : “Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất, để tiến dâng anh em cho Đức Ki-tô như một nữ trinh thanh khiết” (x. 2 Cr 11,2). Sau thời các Tông Đồ, Hội Thánh lãnh nhận kho tàng lễ cưới với Đấng Phu Quân thiên linh, do đó, với một tình yêu tột bậc, Hội Thánh ngắm nhìn tất cả mọi con trai và con gái của mình là những người, do việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, đã thiết lập, nhờ vào sự trung gian của Hội Thánh, một giao ước tuyệt vời với Đấng Cứu Chuộc thế gian.

Các con hãy đón nhận lời này của Năm Thánh cứu chuộc như một lời yêu thương mà Hội Thánh gửi đến các con. Hãy đón nhận lời ấy, bất cứ các con ở đâu : hoặc ở trong nội vi những cộng đoàn chiêm niệm hoặc ở giữa những cách thức hoạt động tông đồ đa dạng như : truyền giáo, sinh hoạt mục vụ, các bệnh viện hay các nơi khác để phục vụ con người đau khổ, các viện giáo dục, các nhà trường hoặc viện đại học, và sau cùng ngay tại mỗi một ngôi nhà của các con, nơi mà các con tề tựu lại nhân danh Đức Ki-tô” với ý thức là có Chúa ở giữa các con” (x. Mt 18,30).

Ước chi lời nói yêu thương mà Hội Thánh ngỏ với các con trong năm thánh cứu chuộc này phản ánh được lời yêu thương mà chính Đức Ki-tô đã ngỏ với mỗi một người trong các con, khi một ngày kia Người thốt ra lời huyền nhiệm Hãy theo Ta” (x. Mt 19,21 ; Mc 10,21 ; Lc 18,22), để từ đó làm phát sinh ơn gọi của các con trong Hội Thánh.

II. ƠN GỌI

Đức Giê-su nhìn người ấy và đem lòng trìu mến”

3Đức Giê-su nhìn người ấy và đem lòng trìu mến” (Mc 10,21), rồi Người nói với anh : Nếu anh muốn nên trọn lành, thì hãy đi và bán đứt của cải anh có mà cho người nghèo, và anh sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Chúng ta biết rằng những lời ấy đã được ngỏ với người thanh niên giàu có và người được mời gọi đã không đón nhận. Nhưng, dẫu vậy, nội dung của những lời ấy rất đáng cho chúng ta để tâm suy nghĩ, bởi vì những lời ấy cho chúng ta thấy cơ cấu thâm sâu của ơn gọi.

Đức Giê-su nhìn người ấy và đem lòng trìu mến”. Tình yêu của Đấng Cứu Chuộc là thế đấy : một tình yêu bừng lên từ cõi thâm sâu thiên linh và nhân loại của sự cứu chuộc. Tình yêu này phản ánh tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa Cha, Đấng đã yêu mến thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người, ngõ hầu mọi kẻ tin vào Người Con ấy thì không phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3,16). Được chiếm đoạt bởi tình yêu ấy, Chúa Con đã lãnh nhận sứ mệnh từ nơi Cha Người trong Chúa Thánh Thần và đã trở thành Đấng Cứu Chuộc thế gian. Tình yêu của Cha đã được biểu lộ nơi Con của Người như một tình yêu cứu chuộc. Chính tình yêu ấy làm thành giá cứu chuộc nhân loại và thế giới. Các thánh tông đồ đã nói tới giá cứu chuộc với một niềm cảm kích sâu xa, như thánh Phê-rô đã viết : Anh em biết : không phải bằng những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát… nhưng là bằng máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích, là Đức Ki-tô” (1 Pr 1,18-19). Thánh Phao-lô thì quả quyết : Anh em đã được chuộc lại với giá rất đắt” (1 Cr 6,20).

Lời mời gọi đi vào con đường các lời khuyên Phúc Âm phát sinh từ sự gặp gỡ bên trong với tình yêu của Đức Ki-tô, tình yêu cứu chuộc. Chính đó là tình yêu mà Đức Ki-tô dùng để mời gọi. Trong cơ cấu của ơn gọi, sự gặp gỡ với tình yêu ấy trở thành một cái gì thật là cá biệt. Các nam nữ tu sĩ thân mến, Đức Ki-tô sau khi đã nhìn các con và đem lòng trìu mến các con”, thì Người mời gọi mỗi một người trong các con, và lúc đó tình yêu cứu chuộc của Người được dành riêng cho một cá nhân nhất định và đồng thời mặc lấy tính chất hôn ước : tình yêu ấy trở thành một thứ tình yêu tuyển chọn. Một tình yêu như thế vây bọc con người toàn diện, cả hồn lẫn xác, dầu là nam hay nữ, trong chính cái bản ngã” cá biệt và duy nhất. Đấng đã phó mình muôn thuở cho Cha Người, Đấng ấy tự trao hiến” chính mình trong mầu nhiệm cứu chuộc, thì này đây Người đã mời gọi con người, để đến lượt mình họ cũng tự hiến hoàn toàn cho một công việc phục vụ đặc biệt của công trình cứu chuộc, bằng cách gia nhập một cộng đoàn huynh đệ được Hội Thánh công nhận và phê chuẩn. Lời mời gọi này chẳng được vọng lại cách đích đáng qua những câu nói của thánh Phao-lô dưới này sao : Hay là anh em lại không biết rằng thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần … và anh em không còn thuộc về mình nữa sao ? Anh em đã được chuộc lại với giá rất đắt” (1 Cr 6,19-20) ?

Đúng thế, tình yêu của Đức Ki-tô đã bắt được từng người trong các con, hỡi anh chị em thân mến, bằng chính giá” cứu chuộc. Do đó, các con nhận ra rằng các con không còn thuộc về mình nữa, nhưng là thuộc về Người. Sự nhận thức ấy là hoa trái do cái nhìn” của Đức Ki-tô trong cõi lòng kín nhiệm của các con. Các con đã đáp lại cái nhìn ấy bằng cách chọn lấy Đấng đã chọn từng người trong các con, bằng cách mời gọi các con với tình yêu vô biên cứu chuộc của Người. Khi gọi mỗi người bằng tên riêng của họ”, Người luôn luôn nại tới sự tự do của con người. Đức Ki-tô nói : Nếu anh muốn …”. Sự đáp trả lời mời gọi ấy là một lựa chọn tự do. Các con đã chọn Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng Cứu Chuộc thế gian, khi các con chọn con đường mà Người đã vạch ra cho các con.

Nếu anh muốn nên trọn lành”…

4. Con đường này còn gọi là con đường trọn lành. Ngỏ lời với người thanh niên, Đức Ki-tô nói : Nếu anh muốn nên trọn lành…” Do đó mà khái niệm con đường trọn lành” có được nền tảng ngay trong chính nguồn Phúc Âm. Ngoài ra, chúng ta lại không nghe trong bài giảng trên núi rằng : Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành” sao ? Lời mời gọi con người trở nên trọn lành vốn đã được cảm nhận bằng cách này hay cách khác do những nhà tư tưởng hoặc những nhà luân lý thuộc thời đại xa xưa và, sau đó, qua nhiều thời đại của lịch sử. Tuy nhiên lời mời gọi trong Kinh Thánh mang một sắc thái hoàn toàn độc đáo : lời mời gọi ấy đòi hỏi một cách khác thường khi vạch ra cho con người sự trọn lành giống như chính Thiên Chúa vậy (x. Lv 19,2 ; 11,44). Chính ngay dưới hình thức ấy mà lời gọi nói trên phù hợp với toàn thể luận chứng nội tại của mạc khải, theo đó con người đã được sáng tạo theo hình ảnh và giống như chính Thiên Chúa (St 1,26). Do đó con người phải theo đuổi sự trọn lành loại biệt của mình trong đường hướng của hình ảnh và sự giống ấy. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đã viết : Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như những người con yêu quý, và hãy sống theo lòng mến, cũng như Đức Ki-tô đã yêu mến ta và đã phó nộp mình vì ta, dâng lên Thiên Chúa hy lễ thơm tho” (Ep 5,1-2).

Bởi vậy, lời mời gọi trở nên trọn lành nằm ngay trong chính yếu tính của ơn gọi Ki-tô hữu. Cũng phải quy chiếu vào lời mời gọi ấy để hiểu những lời Đức Giê-su ngỏ với chàng thanh niên trong Phúc Âm. Những lời ấy được liên kết một cách đặc biệt với mầu nhiệm cứu chuộc con người trong thế gian. Quả thực, sự cứu chuộc trả lại cho Thiên Chúa cái công trình sáng tạo đã bị tội lỗi làm ô nhiễm, bằng cách làm cho sự trọn lành được biểu lộ, sự trọn lành mà toàn thể tạo thành – cách riêng con người – có được trong tư tưởng và trong ý định của chính Thiên Chúa. Đặc biệt là con ngườicần phải được hiến dâng và trao trả cho Thiên Chúa, nếu như con người cũng cần phải được trao trả cách trọn vẹn cho chính mình. Do đó mới có lời mời gọi muôn thuở : Hãy trở lại với Ta, vì Ta đã cứu chuộc ngươi rồi” (Is 44,22). Những lời của Đức Ki-tô Nếu anh muốn nên trọn lành, thì hãy đi và bán đứt của cải anh có mà cho người nghèo…” chắc hẳn đưa chúng ta vào trong khuôn khổ của lời khuyên nghèo khó trong Phúc Âm, là lời khuyên nằm trong chính yếu tính của ơn gọi và của sự tuyên khấn dòng.

Đồng thời có thể hiểu những lời nói ấy theo nghĩa rộng hơn, và nói được là rộng rãi hơn và chủ yếu. Vị Thầy Na-da-rét mời gọi kẻ đối thoại với Người hãy khước từ một thứ chương trình sống, trong đó phạm trù nổi bật hàng đầu là phạm trù chiếm hữu, phạm trù sở đắc” để, thay vào đó, đón nhận một chương trình sống quy hướng về giá trị của nhân vị, về nhân cách” với tất cả tầm cao quý của con người (*).

Hiểu được những lời nói của Đức Ki-tô như thế là tạo được bối cảnh rộng lớn hơn cho lý tưởng sống khó nghèo theo Phúc Âm, một cách đặc biệt cho sự khó nghèo, với tư cách là lời khuyên Phúc Âm vốn nằm trong lãnh vực cốt yếu của hôn lễ huyền nhiệm của các con với Đấng Phu Quân thiên linh trong Hội Thánh. Dựa vào ánh sáng của nguyên lý nhân cách thì lớn hơn là sở đắc” (nhất là khi sở đắc” được hiểu theo vật chất và lợi ích), để đọc những lời nói của Đức Ki-tô, thì hầu như chúng ta đạt tới những nền tảng nhân học của ơn gọi trong Phúc Âm. Trong bối cảnh của nền văn minh hiện tại, đây quả là một khám phá có tính chất rất thời sự. Và cùng một lúc, ơn gọi sống theo con đường trọn lành”, như Đức Ki-tô đã vạch ra, cũng trở thành một vấn đề thời sự. Trong khung cảnh của nền văn minh hiện đại, nhất là trong bối cảnh của một xã hội tiêu thụ, nếu như con người cảm nghiệm một cách đau xót về sự thiếu thốn chính nhân cách” do bởi tất cả các hình thức sở đắc” quá thừa thãi, thì lúc đó con người sẽ trở nên thuận lợi hơn để đón nhận chân lý về ơn gọi đã được Phúc Âm công bố một lần cho tới mãn đại. Đúng thế, anh chị em thân mến, lời mời gọi mà các con đón nhận khi bước vào con đường tuyên khấn dòng đạt tới ngay chính gốc rễ của nhân tính, gốc rễ của vận mệnh con người trong thế giới hiện tại. Bậc sống trọn lành” theo Phúc Âm không tách biệt các con khỏi những gốc rễ ấy. Ngược lại bậc ấy giúp cho các con bám víu mạnh mẽ hơn vào cái gì làm cho con người thực sự là một con người, bằng cách đem men thần nhân của mầu nhiệm cứu chuộc thâm nhập vào nhân tính ấy, một nhân tính đã bị tội lỗi làm cho ra trì trệ bằng muôn ngàn cách.

Anh sẽ có một kho tàng trên trời”

5. Ơn thiên triệu chứa đựng trong mình lời giải đáp cho câu hỏi : Tại sao làm người – và làm người như thế nào ? Lời giải đáp này đem lại cho tất cả đời sống một chiều kích mới và mặc cho đời sống một ý nghĩa dứt khoát. Ý nghĩa ấy xuất hiện ở nơi chân trời của nghịch lý Phúc Âm về sự sống bị mất đi nếu người ta muốn cứu nó và, ngược lại, về sự sống được cứu vớt nếu người ta chịu mất đi, vì Đức Ki-tô và vì Phúc Âm”, như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô (Mc 8,35 ; x. Mt 10,39 ; Lc 9,24).

Dưới ánh sáng của những lời ấy thì lời mời gọi của Đức Ki-tô trở thành hết sức hiển nhiên : Anh hãy đi và bán đứt những của cải anh có mà cho người nghèo và anh sẽ có một kho tàng trên trời ; đoạn hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Giữa lời nói hãy đi” và những từ tiếp theo hãy đến, theo tôi” có một tương quan chặt chẽ. Có thể nói được là những lời cuối xác định ngay chính yếu tính của ơn gọi ; những lời ấy thực ra nói tới vấn đề đi theo Đức Ki-tô (Sequi – đưa tới thành ngữ Sequela Christi). Các từ ngữ hãy đi – hãy bán, – hãy đem cho” dường như xác định tình trạng trước khi nhận ơn gọi. Dẫu vậy, mặt khác, tình trạng ấy không nằm bên ngoài” ơn gọi ; tình trạng ấy đã được bao hàm ở trong” ơn gọi rồi. Bởi vì con người khám phá ra ý nghĩa mới của nhân tính mình không phải chỉ để “theo” Đức Ki-tô thôi, nhưng còn thực hiện tất cả yêu sách của việc bước theo Người. Khi con người bán cái mình có” và đem cho người nghèo”… thì con người khám phá ra rằng của cải với tiện nghi mà mình chiếm hữu được trước đây không phải là kho tàng để cho mình dừng lại ở đó : kho tàng ở trong con tim của mình, con tim mà Đức Ki-tô đã uốn nắn cho có khả năng trao tặng” cho người khác bằng cách tự trao tặng mình. Người giàu không phải là người chiếm hữu nhưng là người ban phát, người có khả năng để ban phát, trao tặng.

Về điểm này, nghịch lý Phúc Âm quả là có ý vị đặc biệt. Nghịch lý ấy trở thành một chương trình hiện hữu : trở nên người nghèo, theo nghĩa mà Vị Thầy Na-da-rét đã gán cho cách hiện hữu” ấy, có nghĩa là trở nên, ngay trong nhân cách của mình, một người phân phát điều tốt lành. Điều đó cũng có nghĩa là khám phá ra kho tàng”. Kho tàng này không thể bị huỷ diệt. Kho tàng này cùng với con người bước vào chiều kích vĩnh cửu, kho tàng này thuộc về vận mệnh cánh chung thiên linh của con người. Nhờ kho tàng này, con người có được tương lai vĩnh viễn của mình nơi Thiên Chúa. Đức Ki-tô nói : Anh sẽ có kho tàng trên trời”. Kho tàng này không phải là một phần thưởng” sau khi chết dành cho những hoạt động đã được thực thi nhằm noi gương Thầy thiên linh, cho bằng là sự hoàn tất có tính cách cánh chungcủa những gì tiềm ẩn ở đàng sau những hoạt động mà, ngay khi còn ở đời này, đã có ở trong kho tàng” nội tại của con tim. Quả thế, chính Đức Ki-tô, trong bài giảng trên núi, sau khi đã mời gọi thâu góp cho được những kho tàng trên trời, đã nói thêm : Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh cũng ở đấy” (x. Mt 6,21). Lời quả quyết ấy nói lên tính cách cánh chung của ơn gọi được thể hiện qua con đường hôn lễ thiêng liêng với Đức Ki-tô bằng việc thực hành những lời khuyên Phúc Âm.

6Cơ cấu của ơn gọi ấy, như được rút ra từ những lời ngỏ với chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm nhất lãm (x. Mt 19,21 ; Mc 10,21 ; Lc 18,22), được nhận thấy tuỳ mức độ người ta khám phá ra kho tàng nền tảng của nhân cách mình trong viễn tượng về kho tàng” mà con người có được trên trời”. Trong viễn tượng ấy, kho tàng của nhân cách mình được gắn liền việc mình trở nên kẻ trao ban chính mình”. Trong một ơn gọi như thế, điểm quy chiếu trực tiếp chính là bản thân sống động của Đức Ki-tô. Lời mời gọi đi vào con đường trọn lành được thành hình từ nơi Người và quy về Người trong Chúa Thánh Thần là Đấng luôn luôn nhắc nhở” cho những người khác, nam hoặc nữ, trong nhiều giai đoạn khác nhau của cuộc sống, nhưng nhất là trong thời thanh xuân, về tất cả những gì Đức Ki-tô đã nói” (x. Ga 14,26), và cách riêng về những gì Người đã nói” với chàng thanh niên khi chàng đặt câu hỏi : Lạy Thầy, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời ?” (Mt 19,16) Câu trả lời Đức Ki-tô đưa ra bằng cách nhìn” người đối thoại với Người với tâm tình trìu mến” đã làm cho tấm men mãnh liệt của mầu nhiệm cứu chuộc thấm nhập vào lương tâm, con tim và ý chí của con người tìm kiếm với tất cả sự thật và lòng chân thành.

Bởi đó, lời mời gọi đi vào con đường các lời khuyên Phúc Âm luôn phát sinh từ Thiên Chúa : Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, đã cắt đặt các con, ngõ hầu các con đi và sinh hoa quả và để hoa quả của các con được bền mãi” (Ga 15,16). Ơn gọi, nhờ đó con người khám phá ra, từ mãi tận nơi sâu thẳm của nó, cái định luật Phúc Âm về việc trao ban được ghi khắc trong nhân tính của mình, chính ơn gọi ấy là một hồng ân được ban. Đây là một hồng ân phong phú hàm chứa cái gì thâm sâu, trong đó phản ánh khía cạnh thần nhân của mầu nhiệm cứu chuộc thế gian. Tình yêu cốt ở điều này : không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10).

III. SỰ HIẾN THÁNH

Việc khấn dòng biểu thị cách sung mãn hơn” sự tận hiến của phép rửa tội.

7. Anh chị em thân mến, ơn gọi đã đưa các con đến việc khấn dòng ; nhờ tuyên khấn các con đã tận hiến cho Thiên Chúa qua thừa tác vụ của Hội Thánh, và đồng thời các con được gia nhập vào gia đình dòng tu của các con. Do đó Hội Thánh coi các con, trước hết, là những người tận hiến” : tận hiến cho Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô, để được thuộc về Người cách độc chiếm. Sự tận hiến này xác định vị trí của các con trong đại cộng đồng Hội Thánh, Dân Thiên Chúa. Đồng thời, sự tận hiến này cũng đưa vào sứ mệnh hoàn vũ của Dân này những nguồn lợi đặc biệt về nghị lực thiêng liêng và siêu nhiên : một hình thức đặc biệt về lối sống, về chứng tá, về hoạt động tông đồ, trung thành với sứ mệnh, với bản chất và với gia sản thiêng liêng của Tu hội các con. Sứ mệnh phổ quát của Dân Thiên Chúa ăn rễ sâu trong sứ mệnh của chính Đức Ki-tô – là ngôn sứ, là tư tế và là vua – mà hết thảy đều được tham dự với những danh hiệu khác nhau. Cách thức tham dự riêng biệt của các người tận hiến” tương ứng với cách thức các con được bám rễ sâu vào Đức Ki-tô. Sự thâm sâu và sức mạnh của sự gắn bó chặt chẽ đó được xác định chính nhờ việc tuyên khấn.

Việc tuyên khấn này tạo ra, trong Đức Giê-su Ki-tô, một dây liên hệ mới giữa con người với một Thiên Chúa Ba Ngôi. Dây liên hệ này phát triển từ dây liên hệ nguyên thuỷ hình thành nhờ bí tích rửa tội. Sự khấn dòng ăn rễ sâu trong sự tận hiến của phép rửa tội và biểu lộ sự tận hiến này cách sung mãn hơn” (x. DT 3 ; YT 5). Như thế, sự tận hiến này với những yếu tố cấu thành của nó, trở thành một sự tận hiến mới, sự tận hiến và hiến dâng bản thân con người cho Thiên Chúa đáng mến trên hết mọi sự. Với lời khấn, các con đã ràng buộc mình sống cách cụ thể những lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục tuỳ theo những quy định riêng biệt của gia đình dòng tu các con, như đã ấn định trong các Hiến pháp : sự ràng buộc này biểu lộ một sự tận hiến cho Thiên Chúa và đồng thời nói lên phương tiện giúp thực hiện sự tận hiến ấy. Từ đó thành hình chứng tá và hoạt động tông đồ riêng biệt của các người tận hiến. Tuy nhiên, cần phải tìm nguồn gốc của sự tận hiến ý thức và tự do này, và cũng là nguồn gốc của sự hiến thân cho Thiên Chúa để thuộc về Người, ở bí tích rửa tội : bí tích này dẫn đưa chúng ta đến mầu nhiệm vượt qua là chóp đỉnh và trung tâm của ơn cứu chuộc đã được Đức Ki-tô đã hoàn tất.

Cho nên, để làm nổi bật đầy đủ thực tại về việc khấn dòng, cần phải tham khảo những lời rung động của thánh Phao-lô trong thư gửi các tín hữu Rô-ma : Anh em không biết rằng : Hết thảy ta đã được thanh tẩy trong Đức Ki-tô Giê-su, thì chính trong sự chết của Người mà ta đã được thanh tẩy sao ? Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng với Người trong sự chết ngõ hầu như Đức Ki-tô… cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới. Con người cũ của ta đã cùng bị đóng đinh thập giá với Người… ngõ hầu ta khỏi làm nô lệ cho tội nữa… Cả anh em cũng vậy, hãy kể mình là đã chết đối với tội, và đang sống cho Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 6,3-4.11).

Sự khấn dòng – đặt nền tảng trên bí tích rửa tội – là một sự mai táng” mới trong cái chết của Đức Ki-tô : mới, bởi ý thức rõ rệt và lựa chọn ; mới, bởi tình yêu và ơn gọi ; mới, bởi sự hoán cải không ngừng”. Một sự mai táng trong cái chết” như thế làm cho con người, đã được mai táng với Đức Ki-tô”, “bước đi với Đức Ki-tô trong một đời sống mới”. Chính trong Đức Ki-tô chịu đóng đinh mà sự hiến thánh rửa tội cũng như sự tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm tìm được nền tảng tối hậu của mình : sự tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, theo lời lẽ của Công Đồng Va-ti-ca-nô II, cấu thành một sự hiến thánh mới”. Nó vừa là sự chết vừa là sự giải thoát. Thánh Phao-lô viết : Anh em hãy kể mình như đã chết đối với tội” ; thế nhưng, đồng thời, người cũng gọi cái chết đó là sự giải thoát khỏi làm nô lệ cho tội”. Nhưng, tiên vàn, sự tận hiến tu trì, đặt trên nền tảng bí tích rửa tội, tạo nên một đời sống mới cho Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô”.

Vì thế, khi khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm, thì đồng thời người ta cũng cởi bỏ con người cũ” một cách chín chắn và ý thức nhiều hơn và, cũng bằng cách ấy, người ta “mặc lấy con người mới đã được sáng tạo theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện thực sự”, như đã chép trong thư gửi các tín hữu Ê-phê-xô (x. Ep 4,22.24).

Giao ước tình yêu hôn ước

8. Vì thế, anh chị em thân mến, tất cả các con đều là những người, trong toàn thể Hội Thánh, sống giao ước tuyên khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm, trong suốt Năm Thánh cứu độ này, các con hãy ý thức lại một lần nữa về sự tham dự đặc biệt của các con vào cái chết trên thập giá của Đấng Cứu Thế, sự tham dự nhờ đó các con được sống lại với Người và được tái sinh không ngừng vào một đời sống mới. Chúa nói với mỗi người các con, như đã phán xưa qua ngôn sứ I-sai-a : Đừng sợ, vì Ta đã chuộc lấy ngươi, Ta đã gọi chính tên ngươi ; ngươi là của Ta” (Is 43,1).

Lời mời gọi trong Phúc Âm : Nếu anh muốn nên trọn lành…, hãy theo tôi” hướng dẫn chúng ta dưới ánh sáng những lời của vị Thầy thiên linh. Từ đáy sâu thẳm của sự cứu chuộc, phát ra lời mời gọi của Đức Ki-tô và, từ sự sâu thẳm này, lời mời gọi ấy thấu đến linh hồn con người : nhờ hồng ân cứu chuộc, lời mời gọi cứu độ này mang một hình thù cụ thể trong lòng kẻ được mời gọi, đó là sự tuyên khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm. Chính dưới hình thù này mà các con đáp trả lời mời gọi của tình yêu cứu chuộc, và lời đáp trả này cũng lại là một lời đáp trả của tình yêu : tình yêu trao hiến, tình yêu này là linh hồn của sự tận hiến, hiểu theo nghĩa là sự tận hiến bản thân. Những lời của ông I-sai-a “Ta đã chuộc lấy ngươi – ngươi là của Ta” dường như đóng ấn chắc chắn vào tình yêu này, tình yêu của một sự tận hiến toàn diện và độc hữu cho Thiên Chúa.

Như thế, giao ước đặc biệt của tình yêu hôn ước được thiết lập, từ đó dội lên như một tiếng vang liên lỉ những lời nói về Ít-ra-en mà Chúa đã chọn lấy cho mình… để làm sản nghiệp riêng” (x. Tv 134,4). Trong mỗi một người tận hiến, thì quả thực là Ít-ra-en” của giao ước mới và vĩnh viễn đã được lựa chọn. Toàn dân thời cứu thế -toàn thể Hội Thánh– được lựa chọn trong mỗi người nào mà Chúa lựa chọn giữa lòng dân ấy, trong mỗi con người mà, vì hết thảy mọi người, tự hiến mình cho Thiên Chúa để được thuộc về một mình Người mà thôi. Thực ra, không ai, kể cả người thánh thiện nhất, có thể lặp lại những lời của Đức Ki-tô vì họ, Con tự hiến thánh” (Ga 17,19) với tất cả quyền năng cứu chuộc đặc thù của các lời ấy ; nhưng, nhờ sự hiến dâng bản thân vì tình yêu, trong khi dâng mình cho Thiên Chúa để chỉ thuộc về Người mà thôi, thì mỗi người có thể thấy mình, nhờ đức tin, nằm ở trong hướng đi của các lời ấy.

Những lời khác của vị tông đồ, trong thư gửi tín hữu Rô-ma mà chúng ta lặp đi lặp lại và suy niệm nhiều lần, chẳng dẫn chúng ta đến điều ấy sao ? Tôi khuyên anh em : nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, anh em hãy hiến dâng thân mình anh em làm lễ tế sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là sự thờ phượng thiêng liêng của anh em” (Rm 12,1). Trong những lời này vang lên như một tiếng vọng xa xa từ Đấng, khi đi vào thế giới và trở thành người, đã nói : “Ngài đã nặn nên thân xác cho con… Này con đến để thi hành ý muốn Ngài, lạy Thiên Chúa” (Dt 10,5.7).

Vậy, trong khung cảnh đặc biệt của Năm Thánh cứu chuộc này, chúng ta hãy trở về với mầu nhiệm thân xác và linh hồn Đức Ki-tô, như về với chủ thể trọn vẹn của tình yêu hôn ước và cứu chuộc : hôn ước, bởi vì cứu chuộc. Vì yêu, Người đã tự hiến mình, vì yêu Người đã thí thân xác mình để chuộc tội thế gian. Khi dìm mình vào mầu nhiệm vượt qua của Đấng Cứu Thế, bằng sự hiến thánh do các lời khấn dòng, thì chính các con, với tình yêu hiến dâng trọn vẹn, các con ước mong cho linh hồn và thân xác các con được thấm nhuần tinh thần hy sinh, như thánh Phao-lô mời gọi chúng ta làm điều ấy qua những lời trong thư gửi các tín hữu Rô-ma vừa được trích dẫn trên đây, là hiến dâng thân mình anh em làm lễ tế sống động”. Bằng cách ấy, sự khấn dòng của các con được in dấu bằng sự giống như tình yêu ở trong trái tim Đức Ki-tô, nó vừa có tính cách cứu chuộc vừa có tính cách hôn ước. Một tình yêu như thế phải tuôn trào, nơi mỗi người các con, hỡi anh chị em thân mến, tự chính nguồn mạch của sự tận hiến đặc biệt : sự tận hiến này, trên nền tảng thánh bí tích rửa tội, là khởi đầu cho cuộc sống mới của các con trong Đức Ki-tô và trong Hội Thánh, khởi đầu của cuộc tạo thành mới.

Cùng với tình yêu này, ước chi cũng ăn sâu vào mỗi người các con, sự vui mừng được thuộc độc quyền sở hữu của Thiên Chúa, được làm cơ nghiệp riêng của Ba Ngôi rất thánh là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần ! Đồng thời các con hãy lặp lại những lời linh hứng của tác giả Thánh vịnh : Con còn ai chốn trời xanh, bên Ngài thế sự thật tình chẳng ham ! Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn” (Tv 72,25-26).

Hoặc những lời này : Con thưa cùng Chúa : ‘Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc ?’… Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con, số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 15,2.5).

Ước chi sự ý thức được thuộc về chính Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu chuộc thế gian và Đấng Phu Quân của Hội Thánh, nên như một ấn tín in dấu người hiền thê trong Kinh Thánh vào những cõi lòng (x. Dc 8,6), vào hết mọi tư tưởng, vào lời nói và việc làm của các con ! Như các con đã biết, sự hiểu biết nồng nhiệt và sâu sắc này về Đức Ki-tô được thực hiện và ăn rễ mỗi ngày thêm sâu đậm nhờ đời sống cầu nguyện riêng tư, cộng đoàn và phụng vụ riêng của mỗi gia đình dòng tu của các con. Ở đây nữa, và nhất là ở đây, những nam nữ tu sĩ hoàn toàn chuyên về chiêm niệm đem lại cho các anh chị em của mình đang chăm lo làm việc tông đồ một sự giúp đỡ thiết thực và một sự yểm trợ khích lệ. Ước chi sự ý thức được thuộc về Đức Ki-tô này mở lòng, mở tâm tư và hành động của các con, với cái chìa khoá của mầu nhiệm cứu chuộc, trước mọi đau khổ, mọi nhu cầu và mọi hy vọng của nhân loại và của thế giới : giữa lòng họ, sự tận hiến Phúc Âm của các con được đính vào như một dấu hiệu đặc biệt nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa, mọi người đều sống cho Người” (x. Lc 20,38), mọi người đều được Nước Trời ôm ấp cách vô hình.

Anh chị em thân mến, lời hãy theo tôi” mà Đức Ki-tô đã nói khi Người nhìn” mỗi người các con và đem lòng yêu mến”, cũng có ý nghĩa này là : hãy tham dự đầy đủ hết sức và triệt để hết sức vào công việc hình thành của cuộc tạo thành mới”, thành quả của công trình cứu chuộc thế gian với sức mạnh của Thánh Thần Chân Lý tác động, qua mầu nhiệm vượt qua của Đức Ki-tô tràn trề ân sủng.

IV. CÁC LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

Nhiệm cục cứu chuộc

9. Với việc tuyên khấn, con đường những lời khuyên Phúc Âm mở ra trước mỗi người các con. Trong Phúc Âm có nhiều điều nhắn nhủ vượt mức độ truyền khiến, chỉ bảo không những cái gì là cần thiết”, mà lại cả cái gì là tốt hơn” nữa. Chẳng hạn như : khuyên đừng đoán xét (x. Mt 7,1), cho vay mượn không mong được trả lại” (Lc 6,35), thoả mãn tất cả những yêu cầu và ước muốn của tha nhân (x. Mt 5,40-42), mời những người nghèo đến dự tiệc (x. Lc 14,13-14), tha thứ mãi (x. Mt 6,14-15), và nhiều điều khác như thế. Nếu, theo truyền thống, sự tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm tập trung vào ba điểm khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, thì tập tục này dường như muốn đề cao, một cách khá rõ ràng, tầm quan trọng của chúng là những yếu tố chìa khoá, một cách nào đó tóm gọn” tất cả nhiệm cục của ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, tất cả cái gì là lời khuyên đều được gián tiếp xung vào chương trình của con đường Đức Ki-tô mời gọi khi Người nói : Hãy theo tôi”. Nhưng đức khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục thì mặc cho con đường đó một đặc tính hướng về Đức Ki-tô đặc biệt và được in dấu đặc thù của nhiệm cục cứu chuộc.

Yếu tố cốt yếu của nhiệm cục” này là biến đổi tất cả vũ trụ qua trái tim con người, nghĩa là từ bên trong : Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người… với hy vọng là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,19.20-21). Sự biến đổi này đi đôi với tình yêu mà lời mời gọi của Đức Ki-tô gieo vào lòng con người, cái tình yêu tạo nên chính bản chất của sự tận hiến, là hành vi nhờ đó người nam hay người nữ tự hiến mình cho Thiên Chúa, bằng việc khấn dòng, trên nền tảng của sự tận hiến trong bí tích rửa tội. Chúng ta có thể tìm thấy những nền tảng của nhiệm cục cứu chuộc khi đọc những lời trong thư thứ nhất của thánh Gio-an : Anh em đừng yêu mến thế gian và các điều trong thế gian. Nếu ai yêu mến thế gian, thì lòng mến của Chúa Cha không có trong kẻ ấy. Vì mọi sự trong thế gian – đam mê của xác thịt, đam mê của con mắt, và kiêu hãnh về cuộc sống – các điều ấy không do tự Chúa Cha, nhưng là do tự thế gian mà có. Và thế gian đang qua đi và đam mê của nó ; còn kẻ làm theo ý Thiên Chúa thì lưu tồn vạn đại” (1 Ga 2,15-17).

Anh chị em thân mến, việc khấn dòng đặt vào trái tim các con, nam và nữ, tình yêu của Chúa Cha, là chính tình yêu ở trong trái tim Đức Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc thế gian. Đó là một tình yêu ôm ấp tất cả thế gian và các điều tự Chúa Cha mà có trong thế gian, và đồng thời đánh bại tất cả những gì, trong thế gian, không do tự Chúa Cha mà có. Tình yêu này nhằm mục đích đánh bại bộ ba đam mê. Đam mê của xác thịt, đam mê của con mắt và kiêu hãnh về cuộc sống” trú ẩn trong con người như gia tài của tội nguyên tổ : vì nó mà mối quan hệ với thế gian mà Thiên Chúa đã dựng nên và ban tặng cho con người để con người làm chủ (x. St 1,28) đã bị méo mó nhiều cách trong lòng con người. Trong nhiệm cục cứu chuộc, những lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là những phương tiện triệt để để biến đổi trong trái tim con người mối quan hệ ấy với thế gian”, với thế gian bên ngoài và với chính bản ngã”, của con người : bản ngã này, theo một nghĩa nào đó, là phần trung tâm của thế gian” theo viễn tượng của Kinh Thánh, tuỳ theo mức độ nó làm phát sinh ra những gì không do tự Chúa Cha mà có”.

Dựa vào thư thứ nhất của thánh Gio-an đã trích dẫn, ta dễ nhận thấy tầm quan trọng nền tảng của ba lời khuyên Phúc Âm trong tất cả nhiệm cục cứu chuộc. Đức khiết tịnh Phúc Âm giúp chúng ta biến đổi, trong cuộc sống nội tâm của chúng ta, tất cả những gì bắt nguồn từ đam mê của xác thịt ; đức khó nghèo Phúc Âm giúp biến đổi tất cả những gì bắt nguồn từ đam mê của con mắt ; đức vâng phục Phúc Âm giúp biến đổi triệt để những gì, trong lòng con người, phát xuất từ kiêu hãnh về cuộc sống. Ở đây chúng ta cố ý nói đến sự vượt thắng như một sự biến đổi, bởi vì tất cả nhiệm cục cứu chuộc đều được thu gọn trong những lời mà Đức Ki-tô đã dâng lên Chúa Cha trong lời nguyện hiến tế : Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi kẻ dữ” (Ga 17,15). Những lời khuyên Phúc Âm, theo cứu cánh chính của nó, nhằm phục vụ sự canh tân cuộc sáng tạo” là : thế gian”, nhờ những lời khuyên này, phải phục quyền con người, để chính con người được hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa.

Tham dự vào sự tự huỷ của Đức Ki-tô

10. Cứu cánh nội tại của những lời khuyên Phúc Âm cũng còn giúp chúng ta khám phá thêm những khía cạnh khác làm nổi bật mối liên hệ mật thiết của nó với nhiệm cục cứu chuộc. Ta biết rằng : cao điểm của nhiệm cục là mầu nhiệm Vượt qua của Đức Giê-su Ki-tô, nơi kết hiệp sự tự huỷ trong cái chết và sự khai sinh vào một cuộc sống mới trong sự phục sinh. Tự nó, việc giữ các lời khuyên Phúc Âm phản ánh cách sâu xa tính cách lưỡng diện của cuộc Vượt qua (x. DT 5) : sự huỷ diệt triệt để những gì nơi chúng ta thuộc về tội lỗi và những hậu quả của nó, và khả năng được tái sinh mỗi ngày vào một sự thiện sâu xa hơn, ẩn kín trong linh hồn con người. Sự thiện này tỏ hiện ra dưới hành động của ân sủng, mà việc giữ khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục làm cho linh hồn được nhạy cảm đặc biệt để đón nhận. Tất cả nhiệm cục cứu chuộc được thể hiện thực sự trong sự đón nhận hành động nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần, tác giả đích thực của mọi sự thánh thiện. Như thế thì việc giữ các lời khuyên Phúc Âm tạo ra, nơi mỗi người các con, hỡi anh chị em thân mến, một khoảng không gian rộng lớn cho cuộc sáng tạo mới” : cuộc sáng tạo mới này được tỏ hiện trong bản ngã nhân loại” của các con chắc chắn là nhờ nhiệm cục cứu chuộc, và đồng thời, ngang qua cái bản ngã nhân loại” này, cũng tỏ hiện trong những chiều kích liên hệ giữa con người với nhau và với xã hội nữa. Vậy thì, đồng thời nó cũng tỏ hiện trong nhân loại, như một phần tử của thế gian do Thiên Chúa dựng nên : thế gian được Chúa Cha yêu mến với một tình yêu mới” trong Người Con vĩnh cửu, Đấng Cứu Chuộc thế gian.

Thánh Phao-lô nói về Chúa Con rằng : Tuy là Thiên Chúa… song Người đã huỷ mình ra không, là lãnh lấy thân phận tôi đòi, trở thành giống hẳn phàm nhân” (Pl 2,6-7). Vậy thì sự huỷ mình, mà việc giữ các lời khuyên Phúc Âm đòi hỏi, có đặc tính hoàn toàn quy hướng về Đức Ki-tô. Và cũng theo ý nghĩa đó, Vị Thầy Na-da-rét cho thấy rõ thập giá là một điều kiện để đi theo Người. Đấng, một ngày nọ, đã nói với mỗi người các con, hãy theo tôi”, thì cũng đã nói : Nếu ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy thập giá của mình và hãy theo tôi”, (nghĩa là hãy đi theo vết chân tôi) (Mc 8,34 ; Mt 16,24). Điều này, Người nói với tất cả những người đang nghe Người, chứ không phải chỉ nói với các môn đệ Người thôi. Như vậy thì định luật từ bỏ nằm trong chính bản chất của ơn gọi làm Ki-tô hữu. Tuy vậy, một cách đặc biệt, nó thuộc về bản chất của ơn gọi liên kết với sự tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm. Những người theo đuổi con đường ơn gọi này sẽ biết hiểu kiểu nói với những từ ngữ khó hiểu, mà chúng ta đọc trong thư gửi các tín hữu Phi-líp-phê : Vì Người tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Ki-tô, và được thuộc về Người…” (Pl 3,8.9).

Vậy thì từ bỏ – phản ánh của mầu nhiệm Núi Sọ – để tìm thấy mình” cách đầy đủ hơn, trong Đức Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh ; từ bỏ để nhận ra trong sự từ bỏ ấy mầu nhiệm về chính nhân tính của chúng ta trong tất cả mức độ sâu xa của nó, và thừa nhận mầu nhiệm ấy bằng cách đi vào con đường của tiến trình lạ lùng mà thánh Tông Đồ đã diễn tả ở nơi khác rằng : Dẫu rằng con người bên ngoài nơi chúng tôi tiêu hao tàn tạ, thì con người bên trong nơi chúng tôi cứ ngày ngày canh tân đổi mới” (2 Cr 4,16). Như thế thì nhiệm cục cứu chuộc đem quyền lực của mầu nhiệm vượt qua vào địa bàn của nhân loại ngoan ngoãn nghe lời mời gọi của Đức Ki-tô mà sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, nghĩa là sống theo những lời khuyên Phúc Âm.

V. KHIẾT TỊNH – KHÓ NGHÈO – VÂNG PHỤC

Khiết tịnh

11. Tính cách Vượt qua của lời mời gọi này được thấy rõ, dưới những quan điểm khác nhau, liên quan tới mỗi lời khuyên.

Thực thế, phải căn cứ vào nhiệm cục cứu chuộc mà đánh giá và thực hành khiết tịnhmà mỗi người các con, đã tuyên hứa bằng lời khấn, làm một với đức khó nghèo và đức vâng phục. Đây là lời đáp trả cho lời của Đức Ki-tô, cũng là một lời mời gọi, là : và có những người yêm hoạn bởi mình làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời. Ai hiểu nổi thì hãy lo hiểu lấy” (Mt 19,12). Vừa mới trước đây, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh rằng : Không phải mọi người đều hiểu được lời này, nhưng chỉ những ai điều ấy đã được ban cho” (Mt 19,11). Những lời cuối cùng này cho thấy rõ ràng rằng : lời mời gọi này là một lời khuyên. Về điểm này, tông đồ Phao-lô cũng đã quảng diễn suy tư của người trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô (1 Cr 7,28-40). Lời khuyên này gửi đến cho tình yêu của trái tim con người. Nó làm nổi bật nhất là tính cách hôn ước của tình yêu ấy, trong khi đó thì đức khó nghèo và, hơn thế nữa, đức vâng phục dường như làm nổi bật trên hết khía cạnh cứu chuộc của tình yêu mà sự tận hiến trong dòng tu đòi hỏi. Ở đây, như đã biết, người ta đề cập đến đức khiết tịnh với ý nghĩa là mình làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời”, nghĩa là đến đức khiết tịnh như một sự biểu thị tình yêu hôn ước đối với chính Đấng Cứu Thế. Về ý nghĩa này, vị Tông Đồ dạy rằng : Ai lựa chọn bậc hôn nhân thì làm tốt” và ai lựa chọn bậc trinh khiết thì làm tốt hơn” (x. 1 Cr 7,38). Người độc thân thì lo việc Chúa, sao cho hài lòng Chúa và người phụ nữ độc thân, cũng như người trinh nữ, thì lo việc Chúa, để nên thánh, thân xác và tinh thần” (1 Cr 7,32.34).

Ở đây – trong những lời của Đức Ki-tô cũng như trong những lời của thánh Phao-lô – không hề có ý khinh chê hôn nhân. Lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh chỉ có ý gợi cho biết rằng : trái tim con người, nam hay nữ, đặc biệt có thể có tình yêu hôn ước đối với chính Đức Ki-tô, với Đức Giê-su là Đức Chúa”. Thực thế, việc mình làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời” không phải chỉ là một sự tự ý khước từ kết bạn và đời sống gia đình, nhưng là một lựa chọn đặc sủng nhận lấy Đức Ki-tô, như một Đấng Phu Quân độc nhất. Một sự lựa chọn như thế, tự nó, đã khiến người ta phải lo việc Chúa” rồi, nhưng thêm vào đó – khi lựa chọn ấy được thực hiện vì Nước Trời” – thì nó làm cho Nước cánh chung của Thiên Chúa đến gần hơn với cuộc sống của hết mọi người, trong những điều kiện của trần thế ; nó làm cho Nước ấy hiện diện giữa lòng thế gian một cách nào đó.

Do đó, những người tận hiến thực hiện cứu cánh nội tại của tất cả nhiệm cục cứu chuộc. Thực thế, cứu cánh này được biểu lộ trong việc làm cho Nước Thiên Chúa, trong chiều kích chung cục, cánh chung của nó, được đến gần. Bằng lời khấn đức khiết tịnh, những người tận hiến tham dự vào nhiệm cục cứu chuộc bằng cách tự do khước từ niềm vui tạm bợ của cuộc sống đôi bạn và gia đình ; và, đàng khác, chính vì mình làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời”, nên giữa lòng thế gian đang qua đi, họ loan báo sự phục sinh tương lai (x. Lc 20,34-36 ; Mt 22,30 ; Mc 12,25) và cuộc sống vĩnh cửu, tức là cuộc sống kết hiệp với chính Thiên Chúa trong cuộc hưởng kiến và tình yêu bao hàm và thấu nhập toàn diện vào mọi hình thức khác của tình yêu trong lòng con người.

Khó nghèo

12. Thật là ý vị biết mấy những lời trích từ thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô về đức khó nghèo : nó là tổng hợp ngắn gọn tất cả những gì Phúc Âm nói về đề tài này. Anh em đã biết ân điển của Chúa chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô : Người giàu sang, mà vì chúng ta, đã nên nghèo khó, ngõ hầu anh em được nên giàu sang nhờ sự nghèo khó của Người” (2 Cr 8,9). Cứ theo những lời này, thì đức khó nghèo được bao gồm trong cấu trúc nội tại của ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô. Không có sự khó nghèo, không thể hiểu được mầu nhiệm ân điển về bản tính Thiên Chúa được ban tặng cho con người, ân điển đã được hoàn tất thực sự trong Đức Giê-su Ki-tô. Cũng vì thế mà đức khó nghèo nằm ở chính trung tâm Phúc Âm, khởi đầu sứ điệp về tám mối phúc : Phúc cho những kẻ khó nghèo trong tinh thần !” (Mt 5,3). Đức khó nghèo Phúc Âm mở ra trước mắt linh hồn con người tất cả viễn tượng của mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn thuở trong Thiên Chúa” (Ep 3,9). Cũng chỉ những ai khó nghèo” theo kiểu này mới có thể hiểu được tự bên trong sự khó nghèo của Đấng vô cùng giàu sang. Sự khó nghèocủa Đức Ki-tô giấu kín trong nó sự giàu sang vô cùng ấy của Thiên Chúa : nó là một biểu thị hoàn toàn trung thực sự giàu sang này. Thực thế, một sự giàu sang như sự giàu sang của chính thiên tính không thể biểu thị đúng đắn trong một sự thiện thụ tạo nào được. Nó chỉ có thể biểu thị được trong sự khó nghèo. Do đó, nó chỉ có thể hiểu được, một cách xác thực, bởi những kẻ khó nghèo, những kẻ khó nghèo trong tâm hồn. Đức Ki-tô, Người – Thiên Chúa, là kẻ đứng đầu số người ấy : Người giàu sang mà đã nên nghèo khó”, Đấng chẳng những là Thầy, mà còn là người phát ngôn và người bảo đảm về sự khó nghèo cứu chuộc tương xứng với sự giàu có vô cùng của Thiên Chúa và với quyền lực vô tận của ân điển Người.

Và vì thế mà cũng đúng là Người làm cho chúng ta được nên giàu sang nhờ sự nghèo khó của Người” như thánh Tông Đồ viết. Người là Thầy và là người phát ngôn về sự khó nghèo làm cho nên giàu sang. Đúng vì thế mà Người nói với chàng thanh niên trong Phúc Âm nhất lãm : Hãy bán những gì anh có… cho đi… và anh sẽ có một kho tàng trên trời” (Mt 19,21 ; x. Mc 10,21 ; Lc 18,22). Trong những lời này có một lời mời gọi nhằm làm cho kẻ khác được nên giàu sang bằng chính sự khó nghèo của mình ; nhưng ở đáy sâu thẳm nhất của lời mời gọi này có giấu kín chứng tá về sự giàu sang vô tận của Thiên Chúa ; sự giàu sang vô tận này, khi được ban tặng cho linh hồn con người ngang qua mầu nhiệm ân sủng, thì tạo nên, trong chính con người, chính nhờ sự khó nghèo, một nguồn mạch làm cho những kẻ khác được nên giàu sang, không thể sánh ví được với những gì do của cải vật chất sinh ra, một nguồn mạch để có thể cung cấp cho người khác theo kiểu cách của chính Thiên Chúa vậy. Sự sung túc này được thực hiện giữa lòng mầu nhiệm của Đức Ki-tô, Đấng làm cho chúng ta được nên giàu sang nhờ sự khó nghèo của Người”. Chúng ta trông thấy tiến trình của cách làm cho nên giàu có này diễn tiến suốt các trang Phúc Âm với cao điểm của nó trong biến cố Vượt qua : Đức Ki-tô, Đấng nghèo khó nhất trong cái chết của Người trên thập giá, đồng thời cũng là Đấng làm cho chúng ta được nên giàu sang vô tận nhờ sự sung mãn của cuộc sống mới, qua sự phục sinh.

Anh chị em thân mến, các con là những người khó nghèo trong tinh thần, nhờ việc tuyên khấn Phúc Âm, các con hãy đón nhận vào tất cả cuộc sống của mình cái đặc tính cứu chuộc ấy của sự khó nghèo của Đức Ki-tô. Ngày này qua ngày khác, các con hãy tìm cách đào sâu nó hơn. Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Người, còn các điều khác sẽ được ban thêm cho” (Mt 6,33). Ước chi nơi các con và qua các con, lời chúc phúc trong Phúc Âm dành cho những người nghèo (Lc 6,20), dành cho những người có một tâm hồn của kẻ nghèo, được thành tựu (Mt 5,3) !

Vâng phục

13. Đức Ki-tô tuy là Thiên Chúa, nhưng Người đã không nghĩ phải dành cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa. Song Người đã huỷ mình ra không, là lãnh lấy thân phận tôi đòi, trở thành giống hẳn phàm nhân, đem thân đội lốt người phàm. Người đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá” (Pl 2,6-7).

Qua những lời trên trong thư gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê, chúng ta đụng chạm đến chính bản chất của sự cứu chuộc. Sự vâng phục của Đức Giê-su Ki-tô được viết như yếu tố đầu tiên và tạo nên của việc cứu chuộc. Tư tưởng này được củng cố trong một bản văn khác của thánh Tông Đồ trích từ thư gửi các tín hữu Rô-ma : Vì do sự bất tuân của một người, nhiều người đã bị liệt hàng tội nhân ; cũng vậy, vì sự vâng phục của một người, nhiều người sẽ được liệt hàng công chính” (Rm 5,19).

Lời khuyên Phúc Âm về đức vâng phục là lời mời gọi rút ra từ sự vâng phục cho đến chết” của Đức Ki-tô. Những người đón nhận lời mời gọi này được diễn tả qua câu hãy theo Ta”, thì quyết định – theo giáo huấn của Công Đồng – đi theo Đức Ki-tô Đấng, do sự vâng phục của mình cho đến chết trên thập giá…, đã cứu chuộc loài người và thánh hoá họ” (DT 1). Khi thực hiện cụ thể lời khuyên Phúc Âm về đức vâng phục, họ nắm được bản chất thẳm sâu của tất cả nhiệm cục cứu chuộc. Khi chu toàn lời khuyên này, họ muốn được tham dự đặc biệt vào sự vâng phục của một người” ấy, sự vâng phục nhờ đó mà nhiều người sẽ được liệt hàng công chính”.

Như vậy, có thể nói được rằng : những người quyết tâm sống theo lời khuyên vâng phục thì đặt mình một cách đặc biệt vào giữa mầu nhiệm về “tội lỗi” (x. 2 Tx 2,7) và mầu nhiệm về sự công chính hoá và về ơn cứu chuộc. Họ ở vào nơi ấy”, với tất cả hậu cảnh tội lỗi của bản tính nhân loại của họ, với tất cả cái gia nghiệp của sự kiêu hãnh về cuộc sống”, với tất cả cái khuynh hướng ích kỷ muốn thống trị chứ không muốn phục vụ ; và chính bởi lời khấn vâng phục, họ quyết tâm biến đổi để được nên giống Đức Ki-tô, Đấng vì sự vâng phục của mình… đã cứu chuộc loài người và thánh hoá họ”. Khi tuân giữ lời khuyên vâng phục, họ muốn tìm thấy vai trò đặc biệt của họ trong công cuộc cứu chuộc của Đức Ki-tô và trong con đường nên thánh của họ.

Con đường mà Đức Ki-tô đã vạch ra trong Phúc Âm là thế, khi Chúa nói nhiều lần đến sự chu toàn ý muốn của Thiên Chúa và sự tìm kiếm liên tục thiên ý ấy. Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy, và chu toàn công việc của Người” (Ga 3,34). Vì tôi không tìm kiếm ý của tôi mà ý của Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30). Đấng đã sai tôi ở với tôi ; Người đã không bỏ tôi một mình vì tôi hằng làm những sự đẹp lòng Người” (Ga 8,29). Vì tôi đã từ trời xuống, không phải để làm theo ý tôi, mà là ý của Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38). Sự chu toàn liên tục ý của Chúa Cha cũng gợi cho thấy lời tuyên ngôn về Đấng Cứu Thế của tác giả Thánh vịnh trong Cựu Ước : Trong sách có lời chép về con : rằng con thích làm theo thánh ý và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 39,8-9 ; x. Dt 10,7).

Sự vâng phục này của Chúa Con – tràn đầy vui sướng – đạt tới tột đỉnh trong cuộc thương khó và trên thập giá : Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này đi khỏi con ; song đừng cho ý của Con, mà là ý của Cha được thành sự !” (Lc 22,42). Từ lời nguyện ở Ghết-sê-ma-ni, sự sẵn sàng của Đức Ki-tô để chu toàn ý Chúa Cha đầy tràn đau khổ đã trở thành sự vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá” mà thánh Phao-lô nói đến.

Do lời khấn vâng phục của mình, những người tận hiến quyết tâm bắt chước cách khiêm tốn sự vâng phục của Đấng Cứu Thế và bắt chước một cách đặc biệt. Đối với hết mọi người, bất luận ở vào bậc nào, sự phục tùng ý Thiên Chúa và sự vâng phục luật của Người là điều kiện để sống đời Ki-tô hữu ; nhưng trong bậc tu trì”, trong bậc trọn lành”, lời khấn đức vâng phục đặt trong lòng mỗi người các con, hỡi anh chị em thân mến, cái nghĩa vụ phải quy chiếu đặc biệt về Đức Ki-tô vâng lời cho đến chết”. Và bởi vì sự vâng phục của Đức Ki-tô ở trong chính trọng tâm công cuộc cứu chuộc, căn cứ vào những lời thánh Tông Đồ trích dẫn trên đây, thì trong việc thực hành lời khuyên Phúc Âm về đức vâng phục, người ta cũng phải nhận ra như một khoảnh khắc có một ý nghĩa đặc biệt của nhiệm cục cứu chuộc” chiếm đoạt tất cả ơn gọi của các con trong Hội Thánh.

Từ đó xuất phát “thái độ hoàn toàn sẵn sàng để theo Chúa Thánh Thần” Đấng hành động trước hết trong Hội Thánh, theo lời của Đức Phao-lô VI, vị tiền nhiệm của cha trong Tông huấn Chứng Tá Phúc Âm” (x. CT 6), nhưng Người cũng tỏ hiện trong hiến pháp của các Tu hội các con. Từ đó xuất phát sự phục tùng trong đời tu mà, trong tinh thần đức tin, các người tận hiến phải có đối với các bề trên hợp pháp của họ, là những người thay mặt Thiên Chúa. Trong thư gửi các tín hữu Do-thái, chúng ta thấy có một chỉ dẫn rất rõ nghĩa về vấn đề này : Anh em hãy vâng phục những người lãnh đạo anh em, hãy biết phục tùng, vì họ canh giữ linh hồn anh em, như những kẻ phải trả lẽ, để họ được vui mừng thi hành phận sự, chứ không phải than phiền, vì điều ấy chẳng béo bổ gì cho anh em” (Dt 13,17).

Vả lại, vì nhớ rằng phải lấy tinh thần phục vụ mà thi hành quyền bính đã được trao phó cho mình qua thừa tác vụ của Hội Thánh, các bề trên hãy tỏ ra sẵn sàng nghe các anh chị em của mình, để phân định rành mạch hơn những gì Chúa đợi chờ nơi mỗi người trong họ, cho dù quyền bính phải quyết định và truyền dạy những điều xét là thích hợp.

Song song với sự phục tùng-vâng phục được hiểu như thế, còn có thái độ phục vụthấm nhuần tất cả cuộc đời các con, theo gương Con Người, Đấng đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Mt 20,28). Về phần Mẹ của Người, trong giây phút quyết liệt của mầu nhiệm truyền tin và nhập thể, được thấu triệt ngay từ đầu tất cả nhiệm cục chuộc tội của sự cứu chuộc, thì Mẹ đã thưa: Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời ngài” (Lc 1,38).

Anh chị em thân mến, các con cũng nên nhớ rằng : đức vâng phục mà các con tự ý ràng buộc khi hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng việc tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm là một biểu thị đặc biệt của sự tự do nội tâm, cũng giống như sự biểu thị quyết liệt của Đức Ki-tô về sự tự do của Người là sự vâng phục cho đến chết” : Tôi thí mạng sống tôi, để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống tôi được ; nhưng chính tôi tự mình thí mạng sống tôi” (Ga 10,17-18).

VI. LÒNG YÊU MẾN GIÁO HỘI

Làm chứng

14. Trong Năm Thánh cứu chuộc, toàn thể Hội Thánh ước ao canh tân tình yêu của mình đối với Đức Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc con người và thế giới, là Đức Chúa và đồng thời là Đấng Phu Quân thiên linh của mình. Chính vì thế, trong Năm Thánh này, Hội Thánh hướng nhìn về các con, anh chị em thân mến, với một sự chú tâm đặc biệt, bởi vì với tư cách là những người tận hiến, các con chiếm một chỗ đặc biệt trong cộng đoàn phổ quát của Dân Thiên Chúa cũng như trong mỗi cộng đoàn địa phương. Nếu, nhờ vào ân sủng của Năm Thánh ngoại lệ, Hội Thánh muốn cho tình yêu của các con đối với Đức Ki-tô cũng được canh tân, thì đồng thời Hội Thánh cũng ý thức một cách trọn vẹn rằng tình yêu ấy làm thành một thứ thiện ích đặc biệt cho toàn thể Dân Thiên Chúa. Hội Thánh thấu hiểu rõ ràng rằng trong tình yêu mà Đức Ki-tô đón nhận nơi những người tận hiến thì tình yêu của toàn Thân Thể được dâng tiến, một cách đặc biệt và phi thường, lên Đấng Phu Quân, đồng thời cũng là Đầu của Thân Thể ấy.

Anh chị em thân mến, Hội Thánh bày tỏ với các con niềm tri ân của Hội Thánh đối với việc tận hiến và việc tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm của các con, vì đó chính là chứng tá đặc biệt của tình yêu. Đồng thời Hội Thánh nói lại một lần nữa niềm tin tưởng lớn lao mà Hội Thánh đặt nơi các con, những người đã lựa chọn một bậc sống vốn là hồng ân đặc biệt của Thiên Chúa đối với Hội Thánh. Hội Thánh mong mỏi sự cộng tác hoàn toàn và quảng đại của các con ngõ hầu, với tính cách là những người quản lý trung tín một hồng ân rất cao quý, các con cảm nghĩ với Hội Thánh” và luôn luôn cùng với Hội Thánh hành động sao cho thật phù hợp với những lời dạy bảo của quyền giáo huấn của thánh Phê-rô và các vị chủ chăn hiệp thông với người, bằng cách nuôi dưỡng, trong lãnh vực cá nhân cũng như tập thể, một ý thức luôn luôn đổi mới về Hội Thánh. Cùng một lúc, Hội Thánh cầu nguyện cho các con, ngõ hầu chứng tá về tình yêu của các con không bao giờ khiếm khuyết và Hội Thánh cũng yêu cầu các con đón nhận sứ điệp này của Năm Thánh cứu chuộc theo tinh thần ấy.

Chính thánh Tông Đồ đã cầu nguyện trong thư gửi các tín hữu Phi-líp-phê như thế này : Điều tôi khấn nguyện là lòng yêu mến nơi anh em được đầy tràn thêm lên mãi… khiến anh em phân định được điều phải điều chăng. Như thế anh em sẽ được tinh tuyền và vô phương trách cứ vào ngày của Đức Ki-tô, dư đầy những hoa quả công chính…” (Pl 1,9.11).

Nhờ vào sự cứu chuộc Đức Ki-tô đã thực hiện, tình yêu Thiên Chúa đã toả lan trong lòng chúng ta nhờ bởi Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Cha không ngừng cầu xin Chúa Thánh Thần để Người ban cho mỗi người, trong các con, tuỳ theo ơn riêng” của từng người (x. 1 Cr 7,7), được làm chứng cho tình yêu ấy theo cách riêng của mình. Ước chi, nơi các con, luật của Thánh Thần ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su, luật đã giải thoát chúng ta khỏi… luật của sự chết” (Rm 8,2), luôn dành được phần thắng, theo cách xứng với ơn gọi của các con. Vì vậy các con hãy sống cuộc đời mới ấy sao cho tương xứng với sự hiến thánh của mình và cũng tuỳ theo mức độ của các ân huệ khác nhau của Thiên Chúa tương xứng với ơn gọi của các loại gia đình dòng tu. Việc tuyên khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm chỉ cho từng người trong các con biết làm thế nào để có thể nhờ Thần Khí, tiêu diệt” (x. Rm 8,13) tất cả những gì nghịch lại sự sống và phục vụ cho tội lỗi và sự chết, tất cả những gì đối nghịch với tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và loài người. Thế giới đang cần đến sự mâu thuẫn” đích thực của sự tận hiến tu trì như một chất men lâu bền cho cuộc canh tân cứu độ. “Anh em đừng rập theo đời này, nhưng hãy canh tân lương tri mà biến hình đổi dạng làm sao cho anh em thẩm định được ý Thiên Chúa là gì, điều gì là tốt lành, thú vị, trọn hảo” (Rm 12,2). Sau thời gian đặc biệt dành cho việc thử nghiệm và canh tân theo sự tiên liệu của tự sắc Ecclesiae Sanctae, các Tu hội của các con đã tiếp nhận hoặc sắp sửa tiếp nhận sự phê chuẩn của Hội Thánh về hiến pháp được tu chính của dòng các con. Ước chi món quà ấy của Hội Thánh khích lệ các con tìm hiểu, yêu mến và nhất là sống những hiến pháp ấy với lòng quảng đại và trung tín, nhớ rằng vâng phục là một cách biểu thị minh bạch tình yêu.

Chính chứng tá này của tình yêu là điều mà thế giới và nhân loại ngày nay cần đến. Thế giới và nhân loại đang cần đến chứng tá của ơn cứu chuộc như đã được ghi khắc trong việc tuyên khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm. Những lời khuyên này, từng lời một, tuỳ theo cách riêng của nó và tất cả một trật, trong sự liên kết chặt chẽ với nhau, đều làm chứng” cho ơn cứu chuộc : ơn cứu chuộc này, nhờ quyền năng của thập giá và sự phục sinh của Đức Ki-tô, dẫn đưa thế giới và nhân loại, trong Chúa Thánh Thần, đến sự hoàn thành trọn vẹn mà con người và, nhờ con người, mọi loài thọ tạo tìm gặp được nơi Thiên Chúa và duy chỉ nơi Thiên Chúa mà thôi. Chứng tá của các con như vậy quả là vô giá. Các con phải kiên trì vận dụng sao cho việc làm chứng đó được thật trong sáng và thật hữu hiệu ở giữa loài người. Điều này cũng có thể đạt được nhờ việc trung thành tuân giữ những quy định của Hội Thánh, liên quan tới dấu hiệu của sự biểu lộ đời tận hiến và việc thực hành đức khó nghèo (x. GL 669).

Hoạt động tông đồ

15. Anh chị em thân mến, nếu việc làm chứng cho tình yêu hôn ước đối với Đức Ki-tô làm cho chân lý cứu độ của Tin Mừng trở thành đặc biệt hữu hình ở giữa loài người, thì có một khía cạnh khác vốn là thành tố của ơn gọi cũng phát xuất từ đó : đó là sự tham gia vào công việc tông đồ của Hội Thánh, vào sứ mệnh phổ quát của Hội Thánh, sứ mệnh được thực hiện cùng một lúc ở giữa tất cả các quốc gia bằng rất nhiều phương cách và nhờ vào rất nhiều ân huệ mà Thiên Chúa ban cho. Sứ mệnh đặc thù của các con hoà hợp với sứ mệnh của các Tông Đồ, những người được Chúa sai đi khắp thế giới” để làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,20), và sứ mệnh ấy cũng liên kết với sứ mệnh của hàng giáo phẩm. Trong hoạt động tông đồ do những người tận hiến thực hiện, tình yêu hôn ước của họ đối với Đức Ki-tô trở thành, theo kiểu gần như hữu cơ, một tình yêu đối với Hội Thánh với tư cách là Thân Thể của Đức Ki-tô, đối với Hội Thánh xét như là Dân Thiên Chúa, đối với Hội Thánh vừa là Hiền Thê vừa là Hiền Mẫu.

Thực khó mà mô tả và liệt kê muôn vàn phương thế khác nhau mà những người tận hiến sử dụng để thể hiện tình yêu của họ đối với Hội Thánh bằng việc tông đồ. Việc tông đồ này luôn luôn phát xuất từ đặc sủng của các vị sáng lập dòng các con, đặc sủng lãnh nhận từ Thiên Chúa và được Hội Thánh công nhận đã trở thành một đoàn sủng của toàn thể cộng đoàn. Ơn ấy tương ứng với các nhu cầu khác nhau của Hội Thánh và của thế giới vào mỗi thời kỳ của lịch sử, và, đến lượt nó, ơn ấy được kéo dài và được củng cố trong đời sống của các cộng đoàn tu sĩ, như là một trong những yếu tố bền vững của đời sống và hoạt động tông đồ của Hội Thánh. Nơi từng yếu tố nói trên, trong bất cứ lãnh vực nào – dù là lãnh vực chiêm niệm làm phong phú cho việc tông đồ, dù là lãnh vực trực tiếp hoạt động tông đồ -, Hội Thánh không ngừng sát cánh với các con bằng sự chúc lành và, đồng thời, bằng sự ân cần mục vụ và mẫu tử để bảo toàn căn tính thiêng liêng trong đời sống của các con và tính cách đúng đắn trong hoạt động của các con giữa lòng cộng đoàn phổ quát bao gồm các ơn gọi và các đoàn sủng của toàn thể Dân Thiên Chúa. Cho dù có nhờ vào mỗi Tu hội riêng biệt, hoặc nhờ vào tổng thể hữu cơ của các Tu hội ấy, thì nhiệm cục cứu chuộc cũng được làm nổi bật đặc biệt trong toàn thể sứ mệnh của Hội Thánh : mỗi người trong các con, hỡi anh chị em thân mến, đều mang nơi mình dấu chỉ sâu đậm của nhiệm cục này, nhân danh việc tận hiến và tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm.

Do đó, mặc dầu các hoạt động tông đồ đa dạng của các con có cực kỳ quan trọng mấy đi nữa, thì hoạt động tông đồ thực sự cơ bản vẫn luôn luôn là cái mà các con là, căn tính của các con trong Hội Thánh (*). Mỗi người trong các con đặc biệt có thể nhắc lại những lời này của thánh Tông Đồ : Quả vậy, anh em đã chết, và sự sống của anh em đã được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa” (Cl 3,3). Và đồng thời sự kiện được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa” cho phép áp dụng vào các con những lời của chính Thầy chí thánh : Ánh sáng của anh em phải chói lọi trước mặt thiên hạ, ngõ hầu họ thấy việc lành anh em làm mà ngợi khen Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Để có thể chói lọi trước mặt thiên hạ” bằng ánh sáng ấy, các con phải làm chứng cho đức ái giữa các con với nhau, làm chứng cho tinh thần huynh đệ nơi mỗi cộng đoàn, như lời Chúa nói : Chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy : đó là anh em yêu mến nhau” (Ga 13,35).

Bản chất cộng đoàn của đời sống tu trì của các con, được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc Âm, bằng phụng vụ thánh và nhất là bằng Thánh Thể, diễn tả một phương thức ưu việt để thực hiện chiều kích liên vị và xã hội ấy : đầy lòng săn sóc ân cần và chú ý đến nhau, trong khi người này mang gánh nặng cho người kia, các con chứng tỏ, qua sự hiệp nhất của các con, rằng Đức Ki-tô sống giữa các con (x. DT 15). Đối với việc tông đồ của các con trong Hội Thánh, điều quan trọng là các con phải hết sức bén nhạy trước những nhu cầu và những đau khổ của con người, hiện đang biểu lộ một cách thật rõ ràng và hiển nhiên trong thế giới ngày nay. Quả vậy, thánh Tông Đồ đã dạy : Hãy mang gánh nặng cho nhau, và như thế anh em sẽ làm trọn luật của Đức Ki-tô” (Gl 6,2) ; Người còn nói thêm : Yêu mến là chu toàn cả lề luật” (Rm 13,10b).

Sứ mệnh của các con cần phải thấy được ! Mối dây nối kết sứ mệnh ấy với Hội Thánh cần phải thâm sâu, thật thâm sâu (x. GL 675,3). Ước chi nhờ tất cả cái gì các con làm và, nhất là, nhờ tất cả cái gì các con là, chân lý này, một lần nữa, lại được công bố và được xác quyết : Đức Ki-tô đã yêu mến Hội Thánh và đã phó nộp mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25) : chân lý này vốn ở nơi nền tảng của toàn thể nhiệm cục cứu chuộc. Ước chi từ Đức Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc thế gian, vọt lên nguồn suối vô tận của lòng yêu mến của các con đối với Hội Thánh !

VII. KẾT

Những cặp mắt tâm trí được ngời sáng

16. Huấn thị mà cha gửi đến các con, nhân ngày đại lễ Truyền Tin trong Năm Thánh cứu chuộc, muốn nói lên lòng yêu thương mà Hội Thánh hằng ấp ủ đối với các nam nữ tu sĩ. Thực vậy, anh chị em thân mến, các con là một nguồn phong phú đặc biệt của Hội Thánh. Và người ta hiểu được nguồn phong phú ấy hơn, nếu người ta suy niệm về thực tại của ơn cứu chuộc : về điểm này, Năm Thánh đây tạo một cơ hội lâu dài và một khích lệ may mắn. Vậy dưới ánh sáng này, các con hãy nhận biết căn tính và phẩm giá của các con. Nguyện xin Chúa Thánh Thần – nhờ công nghiệp của thập giá và sự phục sinh của Đức Ki-tô – làm cho cặp mắt tâm trí các con ngời sáng, để các con nhìn thấy đâu là niềm hy vọng do lời mời gọi của Người mở ra cho các con, và đâu là những kho tàng vinh quang các con được chia sẻ cùng các thánh (x. Ep 1,18.19).

Những cặp mắt tâm trí được ngời sáng” ; đấy là điều mà Hội Thánh liên lỉ cầu xin cho từng người trong các con, những kẻ đã đi vào con đường tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm. Và cũng những cặp mắt ngời sáng” ấy, Hội Thánh, cùng với các con, cầu xin cho nhiều Ki-tô hữu, đặc biệt cho các thanh niên nam nữ, ngõ hầu họ có thể khám phá ra con đường ấy và không sợ dấn thân vào, để ngay giữa những hoàn cảnh không thuận lợi của cuộc sống hiện tại, họ vẫn có thể nghe được lời mời hãy theo tôi” (Lc 5,27) của Đức Ki-tô. Chính các con cũng phải ra sức góp phần vào đó bằng lời cầu nguyện và cả bằng sự làm chứng về tình yêu, nhờ đó Thiên Chúa lưu lại trong ta và tình yêu của Người đã được thành toàn ở nơi ta” (1 Ga 4,12). Ước chi việc làm chứng ấy hiện diện khắp nơi và ai ai cũng nhận thấy được ! Ước chi con người thời đại chúng ta, cho dầu chán nản về tinh thần, vẫn gặp được ở nơi đó một sự nâng đỡ và một niềm hy vọng ! Vậy các con hãy phục vụ những anh chị em mình với một niềm vui phát xuất từ một tấm lòng có Đức Ki-tô ngự trong đó : Ước chi thế giới thời đại chúng ta… có thể nhận được Tin Mừng không phải từ người rao giảng buồn sầu và chán nản… nhưng từ những tác viên Tin Mừng toả ấm nhiệt tình, vì trước đó đã nhận lấy niềm vui của Đức Ki-tô vào bản thân mình” (LB, số 80).

Vì quý mến các con, Hội Thánh không ngừng quỳ gối trước mặt Chúa Cha” (x. Ep 3,14) để xin Người làm cho, con người bên trong được vững mạnh nơi các con”, cũng như nơi nhiều người khác giữa những anh chị em của chúng ta đã được rửa tội, cách riêng những người trẻ, ngõ hầu họ tìm gặp được con đường thánh thiện, trên đó suốt dòng lịch sử, biết bao thế hệ đã rảo bước cùng với Đức Ki-tô – Đấng Cứu Chuộc thế gian và Phu Quân của linh hồn chúng ta -, để lại cho nhân thế cả một vầng hào quang của ánh sáng Thiên Chúa trên bối cảnh tẻ nhạt và u tối của đời người.

Cùng với tất cả các con, là những người đang tiến bước trên con đường ấy trong giai đoạn hiện tại của lịch sử Hội Thánh và thế giới, cha gửi đến lời cầu chúc nồng nhiệt này của Năm Thánh cứu chuộc, ngõ hầu các con được đâm rễ sâu và có nền kiên cố trong lòng mến. Như thế các con sẽ có sức mà hiểu được, cùng hết thảy các thánh, các chiều rộng, dài, cao, sâu, và được biết lòng mến của Đức Ki-tô siêu vời vượt quá sự hiểu biết, và như thế các con được sung mãn, để được vào trong tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep 3,17-19).

Sứ điệp nhân ngày đại lễ Truyền Tin

17. Nhân ngày lễ Truyền Tin trong Năm Thánh này, cha dâng huấn thị này cho Trái Tim Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm. Giữa tất cả những người tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa, Mẹ đứng hàng đầu. Chính Người, Đức Trinh Nữ Na-da-rét, cũng là người tận hiến cho Thiên Chúa một cách trọn vẹn nhất, tận hiến một cách hoàn hảo nhất. Tình yêu hôn ước của Người đạt tới đỉnh cao trong bậc làm Mẹ Thiên Chúa nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Là Mẹ, Người bồng ẵm Đức Ki-tô trong tay và đồng thời Người thực hiện lời mời gọi của Đức Ki-tô“hãy theo tôi” một cách hoàn hảo nhất. Và dầu là Mẹ của Đức Ki-tô, người theo Đức Ki-tô như vị Thầy của mình về đức khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục.

Người nghèo khó biết bao trong đêm tối Bê-lem, và Người cũng nghèo khó biết bao trên núi Sọ ! Người vâng phục biết bao lúc được Truyền Tin, rồi dưới chân thập giá – vâng phục đến nỗi chấp nhận cái chết của Con mình, Đấng đã vâng phục cho đến chết” ! Với một tình yêu trong sạch biết bao, Người đã hiến thân cho đại nghĩa Nước Trời, suốt đời dương thế !

Nếu Đức Ma-ri-a là gương mẫu thứ nhất đối với toàn thể Hội Thánh, thì Người lại càng là gương mẫu đối với các con, những người và những cộng đoàn tận hiến trong lòng Hội Thánh ! Nhân ngày hôm nay là ngày nhắc cho chúng ta nhớ lại ngày khai mạc Năm Thánh cứu chuộc đã diễn ra năm ngoái, cha gửi tới các con sứ điệp này để mời gọi các con khơi lại sự tận hiến tu trì của các con theo gương mẫu sự tận hiến của Mẹ Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến ! Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người đã mời gọi các con đến chung phần hợp nhất với Con của Người, Đức Giê-su Ki-tô” (1 Cr 1,9). Các con hãy kiên trì trong sự trung tín với Đấng luôn trung tín, và các con hãy cố gắng tìm một trợ lực hoàn toàn đặc biệt nơi Đức Ma-ri-a ! Người đã được Thiên Chúa mời gọi hiệp thông một cách hoàn hảo nhất với Con của Người. Ước chi Người, Đức Trinh Nữ trung tín cũng là Mẹ của các con trên bước đường Phúc Âm, giúp các con cảm nghiệm và chứng minh cho thế gian biết sự trung tín vô tận của chính Thiên Chúa !

Với lời ước nguyện đó cha hết lòng chúc lành cho các con.

Va-ti-ca-nô,

ngày 25 tháng 3 năm thánh cứu chuộc, 1984,

năm thứ sáu tôi làm giáo hoàng.

Gio-an Phao-lô II

——————–

(*)Theo nghĩa đen, “sở đắc” (avoir, to have) là cái gì mình có ; còn “nhân cách” (être, to be) ám chỉ phẩm giá của một người (chú thích của người dịch).

(*)Dịch thoát ý. Trong nguyên bản là : “Hoạt động tông đồ căn bản vẫn là điều này : các con là gì, các con là ai ở trong Hội Thánh” (chú thích của người dịch).

 


Tu Đức