Một tạo Thế quan mới cho những giải đáp sinh đức
02/05/2012
Từ mấy thập kỷ nay, những khám phá mới về sinh học đã gây
cám dỗ Thủ biến con người (manipulation de l’homme), nhất là nhân bản (cloning,
clonage) nó, do đó đặt ra bao vấn đề gay cấn về Sinh đức hay đạo đức sinh học
(bioethics). Từ bấy đến nay, các nhà luân lý thần học vẫn vò đầu suy nghĩ,
nhưng với những quan niệm quá cũ về tạo thế và bản tính con người, liệu họ có
ứng phó nổi với những phát minh quá mới, hòng đưa ra những giải đáp đủ sức
thuyết phục hay không?
Khám phá về nền tảng sự sống và những viễn ảnh
y tế mở ra
Những viên gạch làm nên ngôi nhà sự sống là các acid amin,
rồi acid nucleic. Do sự trùng kết (polymérisation) của các acid amin mà ta có
những đại phân tử protein. Mà acid amin, người ta đã có thể tạo nó trong phòng
thí nghiệm. Còn cách trùng kết, người ta cũng biết rồi. Acid nucleic thì khó
hơn, nhưng chắc rồi cũng tìm ra cách chế tạo thôi, có điều từ đó làm nên các
ARN, nhất là phức hợp tinh tế các chuỗi xoắn ADN (cùng với sự kết nối và trình
tự của bốn chất kiềm làm nên mã số di truyền) là công việc quá nhiêu khê, tỉ
mỉ. Ngoài ra,người ta cũng mới phát hiện tế bào gốc (stemcells, cellules
souches), tế bào mà, tùy môi trường nuôi cấy, khoa học có thể làm nên mọi loại
tế bào cho mọi loại mô, cơ quan, thậm chí cả tế bào phôi, từ đó tạo thành cả
một cơ thể.
Tế bào gốc đã được phát hiện ngay từ năm 1981, nhưng ở
chuột cơ. Và cơn sốt Tế bào gốc chỉ thực sự bốc cao trước thềm năm 2000 khi các
ống kính khoa học hướng về nó nơi con người.
Tế bào gốc trước hết là của trứng thụ tinh. Từ 1 tới 5
ngày, nó sinh sôi thành mấy chục, và trong giai đoạn đầu ấy, chúng là toàn năng
(totipotent), nghĩa là, nếu cứ thế phát triển, sẽ làm nên toàn bộ một cơ thể.
Sau ngày thứ năm, trứng hõm lại thành túi phôi (blastocyste), với một đầu là
núm phôi, để từ đấy, tùy vị trí trong phôi mà các tế bào chuyên biệt hóa hướng
phát triển (hướng về một số mô và cơ quan nhất định), và đây là trạng thái đa
năng (pluripotent) của chúng.
Một cơ thể dù trưởng thành vẫn còn những tế bào gốc, vì một
tế bào gốc, để thành tế bào chuyên loại, luôn phân thành hai, trong đó chỉ có
một tế bào dự chuyên (précurseur), còn tế bào kia là tế bào gốc mới. Tế bào gốc
này, nếu cấy nuôi vào một mô, cơ quan thích hợp (như tim), có thể sinh ra những
tế bào thuộc mô hay cơ quan ấy. Nếu lấy ra nuôi cấy trong một môi trường, thì
tùy môi trường mà sinh ra những loại tế bào chuyên biệt khác nhau. Cũng thế nếu
cấy vô một phôi, thì tùy vị trí trong phôi mà sinh ra một số dạng tế bào nhất
định.[1]
Những phát minh nói trên mở ra biết bao triển vọng về mặt y
khoa. Người ta có thể thay thế hay sửa chữa những gen nào là nguồn gốc một căn
bệnh. Người ta có thể sản sinh máu tốt từ tế bào gốc người bệnh để thay thế máu
cũ. Người ta có thể nâng cấp di truyền của một người, nhờ đó người này và con
cháu họ có thể khỏe hơn, miễn nhiễm hơn hay thông minh hơn. Người ta có thể tạo
ra phiên bản của những con người tuyệt thế như Einstein, Ali, Pelé…
Thế nhưng. . .
Những vấn đề đạo đức đặt ra
Việc thiết lập bản đồ gen và phát hiện tế bào gốc, cùng với
những triển vọng mở ra, đặt con người trước những vấn đề đạo đức chưa từng có.
Người ta đang tạo ra những chú heo mang gen người để dùng tim, thận… của nó
thay ghép cho con người. Người ta cũng muốn tạo những con chuột mang não người “để
xem sao” nữa. Sự cao quý của con người như đang bị xói mòn dần! Vì mục đích trị
liệu, trước đây người ta chỉ lập hồ sơ nhóm máu của anh thôi, chứ nay thì luôn
cả hệ gen (génome). Mà tình trạng di truyền này nếu lộ ra sẽ gây những hậu quả
xã hội rất nghiêm trọng : một người nào đó sẽ bị các hãng bảo hiểm chê, cũng
như không thể tìm được việc làm cho mình. . .
Sự việc càng trở nên gay cấn khi, lợi dụng những phát minh
di truyền, y sĩ muốn nâng cấp (enhance) một cơ thể, đồng thời nâng cấp cơ thể
những ai sẽ sinh ra từ người ấy. Và đây là vấn đề ưu sinh (eugénics), là sửa
chữa hay biến chế gốc, mầm:
a) Cất giữ tinh trùng và trứng trong ngân hàng băng lạnh,
để sau này khi cần, sẽ mang ra chọn, vứt bỏ cái xấu, lựa lấy cái tốt, chỉnh sửa
nếu muốn, rồi cho trứng và tinh trùng phối hợp, xong nuôi ngoại môi (in vitro),
rồi đưa vô một dạ con.
b) Với một phụ nữ đang mang bầu: lấy phôi ra ngoài, loại bỏ
nếu bất bình thường, còn không thì chỉnh sửa, nuôi ngoại môi, rồi trả về bụng
mẹ.
Đáng sợ hơn nữa khi người ta muốn tạo mới hẳn một con
ngườí! Chế tạo với kỹ thuật đã phát minh mới đây: Nhân bản (cloning, clonage):
Nhân bản xưa chỉ là phân trứng (thụ tinh) thành hai để có
hai đứa song sinh y hệt nhau (con do một cặp nam nữ). Nhân bản nay là nạo vét
nhân một noãn bào (ovocyte, tế bào trong noãn), rồi đưa nhân (ADN) một tế bào
vào thay thế, và thế là phiên bản của người này được tạo ra, như chú cừu Dolly
vậy.
Với cách nhân bản như thế, bác sỹ có thể sáng tạo mọi thứ
người theo đơn đặt hàng. Đặt hàng, có thể đây là những cặp vợ chồng vô sinh. Mà
cũng có thể là những trùm độc tài hay trùm mafia, khủng bố, muốn có dưới trướng
những nhà khoa học tối thông minh để chế tạo khí giới, và những đội quân vô
cùng khỏe giúp chúng bá chủ hoàn cầu. Con người không còn là mục đích nữa, nó
thành món hàng và công cụ mất rồí!
Trước những triển vọng sinh học đáng sợ như thế, thần học
luân lý đã đối phó ra sao cho tới nay?
Những giải đáp cho tới nay của thần học luân
lý[2]
Thần học luôn nhấn vào quyền tối thượng của Thiên chúa đối
với thiên nhiên, đặc biệt đối với con người “được dựng nên theo hình ảnh Thiên
chúa”. Thần học cũng dựa vào Sáng thế thư (1.28 và 2.15) mà xác lập quyền quản
lý (stewardship) của con người đối với trái đất. Vậy nếu chỉ động chạm đến thân
thể mình để sửa chữa những khiếm khuyết, dù bằng liệu pháp gen, thì cũng không
có gì đáng nói, miễn là tất cả thực hiện trong tinh thần cẩn trọng, trách nhiệm
cao. Chứ nếu di chuyển, biến đổi các gen với mục đích ưu sinh, như cho một
thiếu niên cao lớn hơn, một công nhân kháng được những khí độc khi hành nghề,
thì đây lại là chuyện lớn, bởi động chạm đến cấu trúc con người và biến đổi cả
một dòng họ. Con người không còn là quản lý nữa: xem ra nó đã vi phạm quyền tối
thượng của Thiên Chúa và tính thánh thiêng của thiên nhiên, nhất là của con
người.
Để giải quyết vấn đề, một số nhà thần học muốn nâng cao vị
thế và vai trò của con người: con người không chỉ là quản lý, mà còn là đồng
sáng tạo (cocreator) của Thiên chúa! Vâng, con người chẳng hề “cướp quyền Tạo
hóa” bởi lẽ Tạo hóa thì sáng tạo từ hư không, trong khi con người chỉ làm việc
với những gì đã có, chỉ hoàn thiện những gì Thiên chúa đã làm nên thôi. Và đây
là nhìn vũ trụ như một cái gì chưa hoàn tất và coi tạo thế là một sáng tạo liên
tục, hướng về sự hoàn tất của thế giới ở điểm cánh chung.
Thuộc Dothái-Kytôgiáo có ba thứ cánh chung quan: (A) Cánh
chung quan khải huyền (apocalyptic) với tận thế-hướng: một cái nhìn yếm thế về
lịch sử; (B) Cánh chung quan hướng đích (teleological) coi thế giới như đang
phát triển về phía hoàn thiện của nó ở điểm cánh chung; (C) Cánh chung quan sấm
báo (prophetic) hướng về một tương lai tốt đẹp cho thế giới này.
Những người theo cánh chung quan A đòi chúng ta phải tôn
trọng ý định của Thiên Chúa đang dẫn đưa thế giới đến cáo chung, mà đừng can
thiệp dù để nâng cấp hay cứu vãn loài người. Còn những ai theo hai cánh chung
quan dưới thì chấp nhận một sự can thiệp có giới hạn vào hệ di truyền. Theo K.
Rahner, chúng ta được Thiên Chúa trao trọng trách hoàn tất công việc của Ngài.
Cả vũ trụ lẫn lịch sử đều chưa tới bến, và việc của loài người là, bằng tự do
và trong tư thế đồng sáng tạo của Thiên chúa, phải thủ biến (manipuler) thiên
nhiên, thậm chí thủ biến chính mình. Có điều thủ biến đến đâu và thế nào hẳn
phải là chuyện khác.
Trước hềt, phải xem thiên nhiên là cái gì trong tay chúng
ta. Phải chăng chúng chỉ là phương tiện suông, tùy ý ta sử dụng, nên cũng tùy ý
ta biến đổi? Biến đổi ngay chính thân xác này vốn được nhiều người coi như
riêng rẽ và lệ thuộc tinh thần? Thật ra, cũng có quan điểm coi thiên nhiên đã
được sáng tạo hoàn tất như thế, một thiên nhiên thánh thiêng mà ta phải tôn
trọng, không được thêm bớt chi vô cả. Đối với thứ thiên nhiên này, chúng ta chỉ
đóng vai trò quản lý thôi. Quản lý luôn đối với thân xác của mình. Thế nhưng
cũng có một chủ trương nữa, rằng thiên nhiên chưa hoàn tất và mãi trong tiến
hóa theo quy định, nhưng một quy định không cứng nhắc; và con người là một thực
tại duy nhất với cả thể xác lẫn tinh thần, với thiên nhiên thì nó có thể nhào
nặn để thể hiện chính mình, chứ đối với thân xác thì nó không thể thủ biến tới
mức mầm và gen.
Xem như thế, phần đông coi việc trị liệu dù bằng liệu pháp
gen là điều khả thi, chứ nếu nâng cấp (enhance) bằng cách biến đổi hệ gen , thì
hầu hết chống lại. Nói chi đến tạo mới cả một cơ thể bằng cloning, nhưng đâu phải
chỉ một cơ thể, mà một con người, và đây còn là ép tạo ra một linh hồn “từ hư
vô” nữa. Một đôi người chấp nhận cloning, thì coi đây không phải là tạo từ hư
vô, mà “sinh sản có trợ giúp” (assisted reproduction) thôi. Họ nghĩ rằng không
thể tán thành cloning con người, nhưng chấp nhận thì được. Dù sao, chứng lý
thần học của họ xem ra cũng không đủ sức thuyết phục.
Một tạo thế quan mới để giải quyết những vần đề
sinh đức
Người xưa, kể cả tác giả Sáng thế thư, luôn cho rằng tạo ra
các loài sinh vật, Hóa công đã tạo chúng trực tiếp, hết loài này đến loài kia
riêng biệt. Nhưng rồi khoa học đã cho thấy điều ngược lại: các sinh vật đã tiến
hóa từ loài này sang loài kia, kể cả loài người nữa. Ngay đến sự sống cũng từ
khoáng chất phát sinh đấy thôi.
Bắt chước môi trường quanh các vì sao mới (với sự bắn phá
dữ dội của các hạt cơ bản và sự có mặt của một vài khoáng chất cần), người ta
đã tạo ra được trong phòng thí nghiệm những viên gạch thứ nhất của sự sống :
các acid amin, mà với phương pháp trùng kết (polymerisation) sẽ làm nên các đại
phân tử protein. Và chắc là mai ngày rồi khoa học cũng có thể chế những acid
nucleic, từ đó làm nên các chuỗi xoắn ADN nữa.
Nếu ngày xưa, người ta nghĩ Hóa công phải nhào nặn từng
loài một, thì ngày nay, văn minh hơn, người ta biến Ngài thành kỹ sư, dựa vào
quy luật mà làm nên tất cả. Giống như Dêmiourgos (Hóa công) của Platon, chỉ cần
đẩy cái đầu tiên, để vũ trụ tự đẩy tiếp mà sinh sinh hóa hóa. Và như thế, Ngài
chỉ là nguyên nhân tác thành đàu hay Primum movens. Có điều, muốn hưởng hiệu
quả, Ngài đã phải đặt nguyên nhân, y như chúng ta muốn ăn thì phải đi chợ và
nấu nướng. Để rồi hôm nay, nếu có ai mang ADN vô noãn bào vét rỗng nhân mà
cloning, thì kẻ đó tưởng mình thay thế Thiên Chúa, còn người khác lại kêu là
hắn tiếm quyền Ngài, “dỡn mặt” (playing) Ngài.
Thế nhưng hướng đi mới của khoa học vĩ mô lại coi tạo thế
không phải bằng đun đẩy từ sau với những nguyên nhân, mà hút về phía trước
thành một tiến hóa. Mà tiến thì phải nhắm một cái đích, dù nhắm đích thì người
hữu thần cho là Thiên Chúa, còn người vô thần lại bảo là thiên nhiên: Thiên
nhiên có mắt, tự nó huớng về và tìm đường để tiến về. Chủ thuyết Tiến hoá đã
khởi đầu trên bình diện sinh học với những tên tuổi lớn như Lamarck và
Năm 1929, E. Hubble phát hiện các thiên hà ngày càng xa
giải Ngân hà của chúng ta, từ đó ông nhận định: vũ trụ đang dãn nở! Căn cứ vào
đà dãn nở hiện nay mà ngược dòng về điểm khởi đầu, hẳn ta phải nhìn nhận rằng :
ở thời điểm 0 ấy, vũ trụ co hẹp đến số 0. Một vũ trụ lớn như hiện nay với toàn
bộ vật chất, do đó toàn bộ khối lượng (mass), chứa trong đó ( với khối lượng
cũng là năng lượng qua công thức E=mc2 ), mà nén tới 0, thì tưởng tượng xem sức
nén sẽ kinh khủng mức nào! Hậu quả do đó phải là một vụ nổ (văng ra) cực lớn,
tức Big-bang, từ đó một dãn nở đến vô tận. Theo đà dãn nở mà nhiệt độ nguội
dần, nhờ thế năng lượng tụ kết thành những loại hạt tối cơ bản trong đó có
electron, có các quarks chúng sẽ họp thành những proton và neutron để làm nên
các hạt nhân với các electron đến xoay quanh mà hình thành nguyên tử, kế đó
nguyên tử tụ thành phân tử, những viên gạch xây nên thế giới khoáng chất. Sự
sống cũng bắt đầu từ đấy với mấy loại phân tử tối đặc biệt trong một môi trường
cũng đặc biệt nốt.
Vũ trụ đã dãn nở rất nhanh từ 15 tỷ năm nay, và nếu nó cứ
thế tiếp tục thì cái gì sẽ xảy ra mai ngày? Phần đông theo lý thuyết Einstein,
cho rằng, do nguyên lý vạn vật hấp dẫn, vũ trụ luôn bị hút vào trung tâm để làm
nên một vũ trụ cong, hình cầu, cuối cùng sẽ đổ sập vào giữa thành một Sập lớn,
tức Big-crunch. Có điều, với những phát hiện mới đây về tình trạng bức xạ nền
(rayonnement de fond) do hai khinh khí cầu Boomerang và Maxima (của cơ quan
không gian châu Âu), cũng là bức xạ hóa thạch (rayonnement fossile, hình thành
từ năm 300.000 sau Bigbang), thì có lẽ vũ trụ không cong, mà phẳng (bôi bác,
chiffonné), do đó không có Sập- lớn. Cũng có giả thuyết cho rằng các Bigbang và
Bigcrunch nối tiếp nhau không ngưng để làm nên nhiều tạo thế và nhiều tận thế.
Người khác lại tưởng tượng ra nhiều thế giới song song (với những Bigbang và
Bigcrunch song hành), và nhiều thế giới khác hẳn thế giới của chúng ta, thậm
chí thế giới trên mười chiều.[3]
Dù với sơ đồ tạo thế như thế nào, tạo thế chắc chắn là bằng
một tiến hóa. Chẳng những tiến hóa trong nội bộ sự sống và nội bộ khoáng chất,
mà còn tiến hóa từ bên này sang bên kia nữa. Để có tiến hóa này, thì ngay trong
giai đoạn khoáng, đã phải có một phối hợp tuyệt vời giữa bốn lực cơ bản và mấy
hằng số với nhau. Giả như hằng số hấp dẫn lớn hay nhỏ quá, thì hoặc các vì sao
co hẹp nhanh đến nỗi vật chất không kịp phức tạp hóa đủ, hoặc các thiên thể
không chịu suy sụp để các vì sao hình thành, và nơi vì sao các nguyên tố nặng.
Và cũng thế nếu lực hạt nhân không đủ mạnh để cố kết proton và các neutron lại
mà làm nên hạt nhân, thì sẽ không có nguyên tử, phân tử và sự sống . . . Tất cả
phải đúng mức và sự phối trí phải vô cùng tinh tế, đến nỗi một nhà vật lý thiên
văn không Kytô-giáo như Trịnh xuân Thuận cũng phải ngỡ ngàng trước tài thiện xạ
của Hóa công. Vâng, từ điểm 0 Ngài đã nhắm bắn cái hồng tâm 1cm (là Con người)
ở khoảng cách vô tận là 15 tỷ năm ánh sáng, mà chỉ một phát trúng phóc ngay.
Theo tôi, thì không phải Thiên Chúa đứng từ điểm đầu mà
bắn, nhưng ở điểm cuối mà hút. Vâng, Thiên chúa là Tinh thần, mà tinh thần thì
làm gì cũng vì một mục đích mà làm. Ngay thứ tinh thần pha tạp (pha với vật
chất) là con người đây cũng đã vậy rồi. Quả thế, không phải vì sẵn nhà mà tôi ở,
vì sẵn gạch và thợ nên có nhà; nhưng vì nhắm ở mà tôi xây nhà, vì muốn có nhà
mà tôi tìm kiến trúc sư thiết kế, tìm xi măng và gạch để mua, tìm cai thầu và
thợ để kiến thiết. Vâng, tôi luôn nhắm đích trước rồi mới đặt nguyên nhân:
nghĩa là mục đích quyết định nguyên nhân!
Nếu con người không thể đạt mục đích nếu không có nguyên
nhân, thì Thiên chúa vốn là Tinh thần thuần túy và tuyệt đối hẳn không cần
nguyên nhân, do đó việc Ngài làm bao giờ cũng là phép lạ, nghĩa là thấy sự kiện
mà không thấy nguyên nhân của sự kiện, hay ít là thấy nguyên nhân không tương
xứng với sự kiện: và đây gọi là “bước nhảy vọt” ở mỗi giai đoạn tiến hóa.
Thật ra, nếu muốn có con người, Thiên Chúa chỉ cần “phán”,
tức muốn hay nhắm, là có ngay thôi. Nhưng Thiên Chúa đã chọn con đường dài, đã
muốn sử dụng đến nguyên nhân, nên mới có tiến hóa. Tiến hóa thì không phải là
biến hóa suông. Với biến hóa, không có Tiến, cũng chẳng có Hướng tiến. Bằng như
có Tiến và Hướng tiến, thì phải có nhắm trước và có nhảy vọt, do đó một mình
nguyên nhân không thể giải thích hết hiệu quả: “Không ai cho cái mà mình không
có”. Cái còn thiếu cho giải thích, đó là phép lạ vậy.
Nói cho rõ hơn, tạo thế bằng con đường dài là tiến hóa,
Thiên chúa đã nhắm cái đích CON NGƯỜI, và lập tức từ phía đối diện xuất hiện
cái Lượng tử ban sơ (Quantum initial) cùng với sức mạnh và những khả thể tiềm
tàng trong đó. Để rồi sau Bigbang, cái gốc Energy-mass (Năng luợng-khối lượng)
ấy, với tất cả sự năng động của nó do sự Nhắm đích (của Thiên chúa) đã hằn ghi
thành Hướng đích (ở vật chất), sẽ tự dò đường tìm lối cho mình. Mỗi khi tìm ra
lối đi hướng về phía đích, nó liền để Vết lại, và đây là quy luật, một thứ “tập
quán” mà mọi thành phần vật chất sau đó cứ thế mà làm, mà “lặp lại”
(répétition). Vâng, Thiên Chúa không “tuân theo” quy luật, khi mà quy luật được
tạo ra do thiên nhiên dưới áp lực của hướng nhắm mà Thiên Chúa đặt vô nó.[4]
Quan niệm Tạo thế do nhắm đích này, chẳng những giải thích
được Tiến hóa, mà còn bảo vệ được mặt thiêng liêng của con người dù vẫn nhìn
nhận nó hóa sinh từ khỉ. Quả thế, nếu nhìn nhận có Nhảy vọt và Phép lạ ở mỗi
giai đoạn tiến hóa, thì nguyên nhân không giải thích được hết hiệu quả, con khỉ
không giải thích được hết con người. Cho nên không phải là khỉ đẻ ra người, mà
khỉ chỉ là một công cụ và mắt xích qua đó và nhờ đó Thiên Chúa tạo con người
bắt đầu từ Quantum sơ thủy. Vâng, nếu bảo Thiên Chúa nhắm con người qua Quantum
sơ thủy, rồi qua con khỉ, thì phải nhìn nhận rằng, chỉ vì con người nên mới có
con khỉ kia. Thế nghĩa là không phải Do khỉ mà có người, nhưng ngược lại Do
người mà có khỉ. Và thế là, thay vì giải thích bằng nguyên nhân tác thành, sâu
xa hơn , chúng ta đã giải thích tất cả bằng mục đích. Mà giải thích bằng mục
đích mới là giải thích phù hợp với tinh thần là chúng ta, phù hợp với tạo thế nó
là tác phẩm của Tinh thần thuần túy là Thiên Chúa.
Nếu không phải con khỉ sinh ra con người, thì càng không
phải nhà khoa học Tạo ra con người bằng cloning. Việc làm của ông ta chỉ là
tuân theo một quy luật và đặt ra một nguyên nhân, để rồi hướng đi của thiên
nhiên, cũng là đích nhắm của Thiên Chúa, sẽ làm nốt phần còn lại, nghĩa là tạo
ra con người ấy. Việc cloning con người do đó hẳn không còn tính “động trời”
nữa, và chắc do đó cũng không mấy hấp dẫn đối với những kẻ muốn “dỡn mặt Thiên
Chúa” hay “cướp quyền Tạo hóa”.
Cái nhìn Tạo thế bằng Nhắm đích qua Tiến hóa ấy cũng bảo vệ
được nhất tính của con người. Con người không phải là xác riêng hồn riêng, mà
do đó Thiên Chúa phải chờ một cái xác sinh ra để tạo một linh hồn đút vô, hay
tạo sẵn một linh hồn nơi mầm (trứng thụ tinh hay phôi non) một thể xác chưa
thành hình. Nhìn cái phôi non -thậm chí cái trứng mới thụ tinh- như một con
người (khi chưa có gì của một thể xác người), là cách nhìn nhị nguyên như thế
đấy. Bảo rằng cái phôi non hay trứng thụ tinh đã có linh hồn (dù chưa có xác
người để được sống động hóa bởi nó), thì cũng bằng như coi con khỉ xưa, hay mớ
vật chất nay sẽ làm nên xác một người, coi chúng đã có linh hồn đợi sẵn đấy
rồi, để khi xác người thành hình, là hồn sẵn đó sẽ hoạt động.
Nhiều thần học gia coi cái phôi đã là người như thế, trong
khi phần lớn khoa học gia lại coi cái thai trên ba tháng mới là người. Theo
tôi, thì bởi hồn từ não và hệ thần kinh mà hoạt hóa thân xác, nên khi não và hệ
thần kinh đã hoàn chỉnh, thì phôi có thể thành người nơi cái đầu tầu ấy rồi.
Cho nên không cần chờ đến ba tháng, mà chỉ chín tuần, thậm chí sáu tuần rưỡi
(lúc đầu và mình đã thấy rõ). Vâng, khi cơ thể phát triển vừa tới đó, thì do
hướng đích đã tiềm sẵn trong vật chất và sự sống, có Nhảy vọt nó làm nên con người[5].
Có điều, vì phôi non hay trứng thụ tinh kia đang trên đà trực tiếp thành ngưới,
nên do hướng đích trực tiếp thành người này, mà nó phải được kính trọng đặc
biệt[6].
Chính vì vai trò khoa học gia trong Enhancement hay Cloning
không còn lớn lao nữa, nên con người có thể thủ biến chính mình bằng Nâng cấp
và Cloning mà không lo “Cướp quyền Tạo hóa” hay “Dỡn mặt Thiên Chúa”. Thế nhưng
tính thánh thiêng của thiên nhiên, nhất là của bản tính tự nhiên con người, lại
được gia tăng khi mà hướng nhắm hay ý định của Thiên chúa đã hằn ghi trên đó,
khiến đụng tới đó cũng là chạm tới thánh ý Ngài rồi[7]. Có điều thánh ý Ngài là
gì thì lại là vấn đề khác.
Xem ra ý Thiên Chúa là để con người làm đồng sáng tạo để
hoàn chỉnh thế giới này, vì thế giới được làm nên vì con người, khi mà con
người được làm nên vì mình và vì Thiên Chúa. Chính hai cái Vì này vừa mở cửa
cho chúng ta thủ biến, vừa giới hạn sự thủ biến luôn. Giới hạn trong khuôn khổ
đích nhắm của Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta có thể thủ biến thiên nhiên sao cho
nó hoàn hảo hơn (trong hướng đi đã nhắm) để phụng sự tác giả chính và mục đích
chính của nó là Thiên Chúa, phục vụ đồng tác giả và đồng mục đích của nó là con
người. Nhưng mà không được đi trệch hướng tiến hóa, cũng là hướng nhắm đầu của
Thiên Chúa, nghĩa là đổi thay bản tính thực tại nói chung. Đổi thay bản tính
một hai sinh vật thì không đáng chuyện chi, bởi chúng không có mục đích ở nơi
chúng, vì mục đích của chúng là thiên nhiên nói chung, rồi con người. Chứ đổi
thay bản tính con người, -mà thân thể cũng thuộc bản tính này- là điều không
thể. Vâng, con người không phải là sự vật hay công cụ. mà là mục đích: không
chỉ là mục đích của thiên nhiên, con người còn là mục đích của chính mình nữa.
Dù lấy mình ra mà thí nghiệm, thủ biến, thì cũng là lấy mình làm phương tiện và
trò chơi của mình rồi. Nên chỉ trong trường hợp tối cần thiết, con người mới
được động chạm tới mình ở mức “bản”(gốc) như ADN,ở mức mầm trong cloning.
Ngoài tính thánh thiêng của thiên nhiên, nhất là của bản
tính người, còn lý do nguy hiểm nữa. Để tiến tới cấu trúc của sự sống, nhất là
của gen người như hiện nay, theo tiếng gọi và nhắm đích của Thiên Chúa, thiên
nhiên đã phải vạch lối tìm đường suốt nhiều tỷ năm nay mới lần ra, thì việc tái
cấu trúc hệ di truyền vội vã, khi ngàn vạn ngõ ngách bí hiểm của nó không dễ gì
thông suốt, liệu có quá liều lĩnh, dễ gây những quái biến không cách cứu vãn
hay không? Chúng ta từng đã làm hư nhiều cái, trong đó có môi trường, mà không
biết bao giờ mới chỉnh sửa được. Một mạo hiểm nữa mà hỏng có thể là nấm mồ chôn
cả giống người chúng ta đấy.
May mà ngày nay, phong trào sinh thái đang đưa con người
trở lại với lòng kính cẩn đối với thiên nhiên. Mà trong thiên nhiên, không gì
đáng quý hơn sự sống. Nhìn từ bên ngoài, thì sự sống của cây cỏ và chim muông
chẳng có gì khác lạ đối với sự sống chúng ta cả. Nên tôn trọng sự sống nói
chung cũng khiến người ta quý trọng sự sống của con người. Vâng, một kẻ quen đổ
máu con chim con sóc hẳn cũng không mấy ghê tay khi đổ máu đồng loại của mình,
trừ khi lo tù tội. Vậy trong tinh thần, hãy trở về với đức hiếu sinh của Phương
đông được thể hiện ở luật Ahimsâ (giới sát) của Ấn độ và nhận định của Khổng
giáo : “Thiên địa đại đức viết Sinh” (Đức (sức mạnh) lớn của trời đất là Sinh”.
Đối với thiên nhiên, không nên quá theo Sáng thế thư mà coi
mình chỉ là Chủ (1.26,28) thôi, nhưng theo Phaolô mà coi nó là bạn đồng hành
(Rom.8.19-22) nữa. Vả lại chăm lo cho thiên nhiên cũng là bảo vệ chính mình đó.
Hơn thế, lòng tôn kính đối với con người chỉ dễ duy trì khi được lồng vào trong
niềm tôn trọng đối với thiên nhiên.
Trong khi phần đông chưa đủ lòng tôn kính đối với sự sống
và vẫn muốn làm loé mắt thế giới khi chế biến “chơi” những con người, thì luật
pháp các nước cần vào cuộc. Trong những trường hợp đặc biệt và với những nhóm
người có tinh thần trách nhiệm cao, luật pháp có thể cho phép nâng cấp, thậm
chí cloning người đôi khi, cho phép cấy nuôi các cơ quan hay nuôi súc vật mang
gen người vì những mục đích thuần túy nhân đạo. Vâng, chỉ e loài người còn đấy
mà con người (tức con người như một phẩm giá) không còn nữa!
Lm. Giuse Hoàng Sỹ Quý, S.J.
[1] Xx. Science et vie, Nov. 2001, tr.82-99.
[2] Xx. Theological studies, th. ba/1999: bài
của J-J. Walter ( tr.124-134) và của Th-A. Shannon (tr.111-123); tác phẩm tập
biên Moral issues and christian responses,
[3] Xx. Science et vie th.4/1992, tr.30tt.;
th.6/2000,tr.77-88; th.11/2000. . .
[4] Tạo thế quan bằng đích nhắm này, tôi đã
trình bày trong bài “Với khoa học mới, cần đổi mới nhiều quan niệm triết-thần”,
HTTH, Paris, số 23, tr.75-99.
[5] Cũng như xưa, từ phôi của một vài tinh tinh
đột biến đã nở sinh mấy con người đầu tiên.
[6] Do đó không thể phá bỏ khi không có lý do
tối quan trọng.
[7] Nếu hướng nhắm của Thiên Chúa đã hằn ghi
nơi thiên nhiên, thì hướng tiến của thiên nhiên cũng là một với hướng đi của
Tạo hoá. Và như thế, chúng ta đã hòa giải được cái nhìn của nhà khoa học với
cái nhìn của nhà thần học.