“Hôn nhân: Mầu nhiệm
Cao cả của Tình yêu Chung thuỷ”
Nét đẹp và sự cao quý của tình
yêu hôn nhân ngày càng bị lu mờ trong xã hội của chúng ta đến nỗi ngày nay, hầu
hết mọi người xem hôn nhân như một nhà tù: một vấn đề pháp lý, nhàm chán, mang
tính thủ tục, làm đe doạ tình yêu và huỷ hoại sự tự do.
“Tình yêu là thiên đàng; hôn
nhân là địa ngục”, Lord Byron đã viết cách đây 150 năm. Vào thời đó, có lẽ ông
không thể ngờ được tư tưởng của ông vào thời đại ngày nay lại được phổ biến
cách lạ thường.
Chồng tôi, Dietrcich von
Hildebrand, thì ngược lại. Rất lâu trước khi cải đạo sang Công giáo Rôma, anh ấy
tin rằng tình yêu trong hôn nhân là một trong những nguồn hạnh phúc sâu xa
nhất. Anh ấy nhìn thấy sự cao quý và vẻ đẹp của sự kết hợp giữa người vợ và
người chồng trong hôn nhân - được thể hiện trong sự kết hợp hai thân xác với
nhau theo một cách kỳ diệu để tạo nên một sinh mạng mới.
Anh nhận thấy rằng bản chất của
tình yêu chính là khao khát sự vô biên và vĩnh cửu. Vì thế, một người thật sự
muốn ràng buộc mình mãi mãi với người mình yêu thương - sự ràng buộc đó chính
là món quà hôn nhân dành tặng cho người đó.
Ngược lại, tình yêu không có sự
cam kết đầy đủ chính là phản bội lại bản chất cốt lõi của tình yêu. Người không
muốn cam kết (hoặc phá vỡ một cam kết để bắt đầu một mối quan hệ khác) chính là
đang làm điều ngu xuẩn. Người ấy lẫn lộn giữa niềm vui mới lạ với nguồn hạnh
phúc đích thực.
Nỗi thất vọng đáng buồn ấy -
rất điển hình trong thời đại của chúng ta - chính là một dấu hiệu hoặc một sự
thiếu trưởng thành nghiêm trọng về mặt cảm xúc, làm suy yếu nền tảng xã hội. Nó
bắt nguồn một phần từ việc hiểu sai ý nghĩa của sự tự do. Rất nhiều người chỉ
trích hôn nhân bởi vì họ không nhận ra rằng một người vẫn có được sự tự do khi
tình nguyện ràng buộc bản thân với người vợ hoặc người chồng của mình trong hôn
nhân.
Những người chỉ trích hôn nhân
không nhìn thấy tính kiên vững - và đặc biệt là sự chung thuỷ - chính là đức
tính cần thiết của một nhân cách thật sự cao quý: người ấy vẫn chọn lựa chung
thuỷ với những điều họ nhìn thấy, mặc dù có thể theo thời gian tầm nhìn của họ
kém đi.
Trong những vấn đề về tình yêu
và hôn nhân, “địa ngục” không đến từ sự chung thuỷ nhưng đến từ việc thiếu
chung thuỷ, điều này làm cho con người không còn bị ràng buộc một cách đúng
nghĩa, nhưng lại thật sự cô độc: bị nhốt trong tính độc đoán nông cạn và tính
chủ quan ngột ngạt.
Thật ra, trái ngược với Lord
Byron và trái với niềm tin phổ biến nơi mọi người, hôn nhân chính là người bạn
và người bảo vệ của tình yêu giữa người nam và người nữ. Hôn nhân mang đến cho
tình yêu một nền tảng, một nơi trú ẩn, một không gian mà chỉ có nó mới có thể
thăng tiến.
Hôn nhân dạy cho những đôi vợ
chồng đức khiêm tốn, giúp họ nhận ra nhân loại là một người yêu rất đáng
thương. Cũng như chúng ta khao khát yêu và được yêu nhiều đến thế nào, chúng ta
cũng bao lần thất bại và khẩn thiết cần đến sự giúp đỡ. Chúng ta phải tự trói
buộc mình thông qua lời thề linh thiêng để mối dây ràng buộc ấy đem lại cho
tình yêu của chúng ta sức mạnh cần thiết để đối mặt với biển đời dậy sóng của
thân phận con người.
Không có tình yêu tự do phát
sinh trong những lúc khó khăn. Nhưng (như Kierkegaard đưa ra nhận xét một cách
thông minh), bởi vì tình yêu bao gồm ý chí, sự tận tâm, bổn phận và trách
nhiệm, nên hôn nhân kết nối hai người lại với nhau để chiến đấu hầu giữ lấy món
quà tình yêu quý giá của họ. Hôn nhân mang đến cho họ sự tự tin tuyệt vời rằng
cùng với sự trợ giúp của Chúa, họ sẽ vượt qua được khó khăn và chiến thắng. Vì
thế, bằng việc bổ sung thêm yếu tố nghi thức thủ tục vào yếu tố cần thiết (hữu
hình) của tình yêu, hôn nhân đảm bảo tương lai của tình yêu và bảo vệ nó chống
lại mọi cám dỗ cố hữu vốn nảy sinh trong sự tồn tại của nhân loại.
Trong một mối quan hệ không có
lời cam kết, thì một trở ngại mong manh nhất hay một khó khăn tầm thường nhất
cũng trở thành một lý do hợp lệ để chia tay. Đáng buồn thay, một người luôn
muốn thắng trong những cuộc chiến với người khác lại thường không có hoặc có
rất ít khao khát muốn chinh phục bản thân. Người đó sẽ dễ dàng từ bỏ một mối
quan hệ hơn là đấu tranh với điều mà Kierkegaard gọi là “sự mệt mỏi thường có
khi đạt được một ước muốn”.
Hôn nhân mời gọi mỗi một người
vợ hoặc người chồng chiến đấu chống lại bản thân vì lợi ích của người mình yêu.
Đây là lý do tại sao hôn nhân không còn được nhiều người ưa chuộng trong thời
đại ngày nay. Mọi người không còn sẵn lòng để đạt cho được điều tuyệt vời nhất
trong tất cả mọi chiến thắng, đó là sự chiến thắng chính mình.
Theo như Kierkegaard, huỷ bỏ
hôn nhân chính là hành động “tự buông thả”. Chỉ có những người hèn nhát mới phỉ
báng hôn nhân. Họ trốn chạy khỏi sự đấu tranh, và chịu thất bại trước cả khi
trận chiến bắt đầu. Chỉ có hôn nhân mới có thể duy trì và nuôi dưỡng tình yêu
giữa người nam, người nữ, và đặt tình yêu ấy lên trên những thay đổi và tâm
trạng hằng ngày. Không có sự ràng buộc sẽ không có lý do ao ước chuyển những ảm
đạm trong cuộc sống thường nhật vào trong một bài hát đầy thi vị.
Bí tích Hôn Nhân
Trong cuốn sách “Hôn nhân, Mầu
nhiệm Cao cả của Tình yêu Chung thuỷ”, chồng tôi giới thiệu những chủ đề làm
nổi bật giá trị và tầm quan trọng của một cuộc hôn nhân được công nhận và chỉ
ra vai trò của hôn nhân trong tình yêu chung thuỷ.
Đồng thời, chồng tôi cũng nhận
thấy rằng - ngay cả trong những cuộc hôn nhân tự nhiên hạnh phúc nhất - việc
con người (thụ tạo của một ngày theo cách gọi của Plato) phải chết luôn là điều
hạn chế và giới hạn khủng khiếp. Do đó, mỗi một tình yêu tự nhiên đơn thuần
chắc chắn sẽ dẫn đến bi thảm: nó sẽ không bao giờ đạt tới sự hợp nhất vĩnh viễn
vốn dĩ là điều tự nhiên.
Nhưng khi chồng tôi chuyển sang
Công giáo, anh ấy đã phát hiện ra một khía cạnh mới rất tuyệt vời của hôn nhân:
đó là đặc tính bí tích của hôn nhân như một suối nguồn ân sủng. Thánh Phaolô đã
làm rõ giá trị cao quý của Bí tích Hôn Nhân khi gọi hôn nhân chính là “mầu
nhiệm cao cả” được so sánh như tình yêu của Đấng Cứu Thế dành cho Giáo Hội của
Ngài (x. Ep 5,32). Một tình yêu tự nhiên bị lu mờ đi trước vẻ đẹp của tình yêu
được bén rễ trong Đức Kitô.
Với vai trò là một bí tích, hôn
nhân mang đến cho con người sức mạnh siêu nhiên cần thiết để “chiến đấu vì cuộc
chiến cao đẹp”. Mỗi một chiến thắng cùng nhau đạt được để vượt qua những thói
quen, những công việc thường nhật, những mối quan hệ tẻ nhạt, những mối ràng
buộc trong quan hệ vợ chồng và làm cho tình yêu giữa họ trổ thêm bông.
Cũng bởi vì hôn nhân kết hợp
một cách chặt chẽ và thiêng liêng những đôi vợ chồng với tình yêu bất diệt mà
Đức Kitô dành cho mỗi người, Bí tích Hôn Phối vượt qua những giới hạn buồn thảm
của một cuộc hôn nhân thông thường và đạt được sự bất diệt và vĩnh hằng mà mọi
mối tình đều khao khát.
Vì thế, có thể hiểu được vì sao
sau khi chuyển sang Công giáo Rôma, chồng tôi (vốn đã là một hiệp sĩ tuyệt vời
của tình yêu tự nhiên) trở thành một hiệp sĩ hăng hái bảo vệ cho tình yêu siêu
nhiên được tìm thấy trong Bí tích Hôn Phối. Tình cảm dành cho vẻ đẹp và mầu
nhiệm cao cả của tình yêu chung thuỷ trong hôn nhân đã thôi thúc anh ấy viết
quyển sách này.
Lịch sử của cuốn
sách “Hôn nhân: Mầu nhiệm Cao cả của Tình yêu Chung thuỷ”
Việc chuẩn bị cho cuốn sách này
chính thức bắt đầu vào năm 1923, khi chồng tôi có bài diễn thuyết về đề tài hôn
nhân tại Hội nghị Liên hiệp Học thuật Công giáo diễn ra tại Ulm, Đức. Bài diễn
thuyết đã thành công rực rỡ.
Trong bài diễn thuyết, anh ấy
kêu gọi mọi người nên phân biệt giữa ý nghĩa của hôn nhân (chính là tình yêu)
và mục đích của hôn nhân (chính là sự sinh sản). Anh ấy đã miêu tả hôn nhân như
một cộng đồng yêu thương, mà theo đó, cơ cấu tổ chức tuyệt vời nhất sẽ tìm thấy
mục đích của nó trong sinh sản.
Mặc dù giáo huấn Công giáo
chính thức vào thời đó hầu như chỉ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc sinh
sản như là mục đích của hôn nhân, nhưng thực tế Giáo Hội luôn thừa nhận tình
yêu chính là ý nghĩa của hôn nhân. Giáo Hội luôn thừa nhận cuộc hôn nhân giữa
những người vì lý do tuổi tác hoặc những trở ngại khác, không thể tận hưởng
được niềm hạnh phúc có được con cái.
Nhưng nhận thấy mình đã phá vỡ
nền tảng khi đưa ra sự phân biệt quá rõ ràng giữ mục đích và ý nghĩa của hôn
nhân, chồng tôi đã tìm đến hỏi ý kiến của một vị chức trách Công giáo. Anh ấy
đã đến gặp vị Hồng y nổi tiếng - Pacelli - về sau làm Sứ thần của Giáo hoàng ở
Sự tán thành của Đức Hồng y
Pacelli lúc bấy giờ cùng với sự thành công của bài diễn thuyết về chủ đề hôn
nhân đã khích lệ chồng tôi mở rộng và phát triển bài diễn thuyết thành một cuốn
sách nhỏ mà các bạn đang có trên tay.
Kể từ lần xuất bản đầu tiên tại
Đức, cuốn sách 'Hôn Nhân' được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ chính tại Châu
Âu, nơi nó luôn được biết đến và được yêu thích rất rộng rãi. Khi lần đầu tiên
được dịch sang tiếng Anh trong Chiến tranh Thế giới II, những nhà phê bình đón
nhận nó với một thái độ rất thiện cảm, và cuốn sách được người đọc yêu thích,
và được tái bản 4 lần trong vòng 14 năm.
Nó mang đến cho tôi niềm vui
khôn tả khi chào đón lần xuất bản mới này, một lần nữa cuốn “Hôn nhân” trở lại
với độc giả nói tiếng Anh sau gần 30 năm vắng mặt.
Đặc biệt ngày hôm nay, quyển
sách này - giải thích về ơn gọi hôn nhân cao quý của người Kitô hữu - chính là
điều cần thiết đối với bất cứ ai khao khát sống xứng đáng mầu nhiệm tình yêu
cao quý này.
Thomas a Kempis nói với chúng
ta rằng “tình yêu là một điều cao quý”, và hôn nhân cũng vậy.
----------------------------
* Alice von
Hildebrand giới thiệu cuốn sách “Hôn nhân: Mầu nhiệm của Tình yêu Chung thuỷ”
của tác giả Dietrich von Hilderbrand.
Nghi Ân dịch (ubmvgiadinh.org)