Phong hóa
Việt
WGPSG – Linh mục Louis Nguyễn
Anh Tuấn - đặc trách Mục vụ Hôn nhân và Gia đình - sẽ trình bày chủ đề: “Hôn nhân” đồng tính
dưới cái nhìn đức tin trong buổi Sinh hoạt
chuyên đề lúc 14g30 ngày 23.11.2013 tại Trung tâm Mục vụ TGP TPHCM. Để quý đọc
giả dễ dàng tiếp thu bài chia sẻ của Linh mục Louis một cách thấu đáo, WGPSG
xin giới thiệu với quý đọc giả về tình trạng đồng tính tại Việt Nam hiện nay
qua bài viết sau đây:
Quan hệ đồng tính đang là đề tài nóng bỏng, không chỉ trên sách báo
và các trang mạng mà còn trong các buổi chuyên đề và các hội nghị mang tầm mức
quốc tế. Bởi lẽ, người ta không còn ngần ngại, kiêng kỵ, tránh né bàn thảo vấn
đề nhạy cảm này như trước đây. Vì thế, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề thời sự
xã hội, đang làm đau đầu các nhà chức trách dân sự, cũng như những vị lãnh đạo
các tôn giáo.
Cùng với nỗi thao thức của dân tộc, chúng ta hãy tìm hiểu về “Phong
hóa Việt Nam và mối quan hệ đồng tính”, xem “Hôn nhân đồng tính” có phù hợp với
phong hóa của dân tộc 4000 năm văn hiến, hầu có một quyết định đúng đắn về vấn
đề gai góc này. Trong khuôn khổ của một bài viết ngắn, chúng ta sẽ lần lượt bàn
bạc theo các tiểu mục sau đây:
1. Thế giới đồng tính
2. Ý kiến của các chuyên gia
3. Hôn nhân đồng tính
4. Đồng tính tại Việt
5. Phong hóa Việt
6. Một lời đề nghị
Trước khi bàn về “Phong hóa Việt
1. Thế giới đồng tính
Thế giới đồng tính gồm những người khi được sinh ra trên cõi đời
này, đã mang sẵn trong cơ thể mình những yếu tố để trở thành đồng tính. Chính
xu hướng đồng tính đã khiến họ luôn suy nghĩ, hành động và nói năng hướng về
người cùng phái tính. Họ muốn chiếm đoạt con tim cũng như dành trọn con tim
mình cho những người đồng phái.
Thế nhưng, không phải sự đồng tính nào cũng do bẩm sinh, do cơ cấu tự
nhiên hay do di truyền, vì có sự đồng tính đắc thủ:
Trước hết, do môi trường giáo dục trong gia đình đã đẩy họ đến việc
đồng tính. Chẳng hạn, một người cha quá nghiêm khắc có thể làm cho người con
gái của mình ghét người khác phái, nên cô ta tìm đến với người đồng phái. Ngược
lại, một bà mẹ quá độc đoán, quá gắn bó với con trai có thể tạo nên một phản
ứng đối nghịch nơi thanh niên này, làm cho anh ta tránh xa phụ nữ và tìm đến
với người đồng phái.
Thứ đến, do hoàn cảnh và môi trường xã hội khiến họ có những sinh
hoạt đồng tính. Thí dụ: Những người phải sống chung với nhau trong ký túc xá,
trên tàu biển, trong nhà tù, nơi không có người khác phái, thì họ cũng có thể
trở thành những người đồng tính.
Cuối cùng, do ảnh hưởng trong thời kỳ phát triển, bị dồn nén về tâm
lý, hoặc do những khó khăn của đời sống tình cảm, sinh lý, vợ chồng…
Thống kê cho biết có khoảng 20% con người trong thế giới này có
khuynh hướng đồng tính.
Tuy nhiên, thế giới đồng tính không đơn giản như người ta tưởng, mà
hết sức phức tạp và khó phân định. Để dễ hiểu, chúng ta có thể chia ra thành 4
loại; và để dễ nhớ, chúng ta ghi nhận 4 chữ đầu LGBT:
- L là chữ đầu của
Lesbian: những người đồng tính nữ.
- G là chữ đầu của
Gay: những người đồng tính nam.
- B là chữ đầu của
Bisexual: những người vừa đồng tính vừa không đồng tính.
- T là chữ đầu của
Transgender: những người đổi giống từ đàn ông sang đàn bà hoặc từ đàn bà sang
đàn ông.
2. Ý kiến của các chuyên gia
Theo truyền thống chung của các nền văn hóa Đông Tây: Các mối quan
hệ đồng tính kèm theo các sinh hoạt tình dục, luôn bị coi là bất bình thường,
là bệnh hoạn. Khoa Tâm lý và Khoa Tâm thần học cũng xếp xu hướng và hành động
đồng tính vào danh sách bệnh lý. Hơn nữa, xét về mặt luân lý và đạo đức, những
sinh hoạt tình dục này còn bị xem là vô luân, là một trọng tội.
Thế nhưng, Tiến sĩ Tâm lý Trần Mỹ Duyệt (Hoa Kỳ) lại đưa ra những
báo cáo của các nhà chuyên môn như sau: “Hiệp Hội Các Nhà Tâm Thần Học (1973)
và Hiệp Hội Các Nhà Tâm Lý Học Hoa Kỳ (1975) đã loại khỏi danh sách những hội
chứng tâm bệnh những suy nghĩ và hành động đồng tính. Và năm 1990, Cơ Quan Y Tế
Thế Giới cũng công nhận đồng tính không phải là tâm bệnh. Cuối cùng, năm 2001,
Hiệp Hội Các Nhà Tâm Thần Học Trung Hoa cũng đã loại bỏ sinh hoạt đồng tính
khỏi danh sách tâm bệnh”.
Tại Việt Nam, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y
tế, cho biết: “Từ năm 1990, Tổ chức Y tế Thế giới đã loại bỏ đồng tính ra khỏi
danh sách bệnh tâm thần. Việt
3. Hôn nhân đồng tính
Chính vì Khoa Tâm lý và Khoa Tâm thần học đã “xóa sổ tâm bệnh” của
những người đồng tính, nên 4 thành phần của thế giới đồng tính (LGBT) đã phần
nào bớt tự ti mặc cảm về thân phận “chẳng giống ai” của mình. Từ đó, họ cũng
được xã hội và gia đình có cái nhìn cảm thông và khoan dung hơn trước. Thế nên,
họ “thừa thắng xông lên” đòi quyền được kết hôn và nhận con nuôi như những
người bình thường. Nghĩa là họ muốn có quyền: kết hôn giữa hai người đàn bà với
nhau, giữa hai người đàn ông với nhau, giữa hai người đàn ông đổi giống, giữa
hai người đàn bà đổi giống, và giữa hai người vừa đồng tính vừa không đồng
tính. Điều này sẽ gây ra nhiều khó khăn và phức tạp cho đời sống hôn nhân và
gia đình vốn đang gặp quá nhiều thử thách trong thời đại ngày nay.
Theo WHĐ, đăng tải vào ngày 18.7.2013 thì ngày 17 tháng Bảy 2013,
Anh quốc đã trở thành quốc gia thứ 15 hợp pháp hóa “Hôn nhân đồng giới”. Quốc
gia đầu tiên hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới là Hà Lan (2001). Các quốc gia
khác đã công nhận hôn nhân đồng giới gồm có: Bỉ (2003), Tây Ban Nha (2005),
Canada (2005), Nam Phi (2006), Na Uy (2008), Thụy Điển (2009), Bồ Đào Nha
(2010), Iceland (2010), Argentina (2010), Đan Mạch (2012), Uruguay (2013), New
Zealand (2013) và Pháp (2013).
Theo Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế: “Hầu
hết các quốc gia thừa nhận ‘Hôn nhân đồng tính’ đều có quy định quá độ trong
luật pháp: Ban đầu là thừa nhận quyền của người đồng tính, tiếp đó là việc
chung sống như vợ chồng của người đồng tính, rồi mới quy định về việc thừa nhận
‘Hôn nhân đồng tính’”.
4. Đồng tính tại Việt
Ông Lê Quang Bình - Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế, xã hội và
môi trường (iSEE) - cho biết: “Hiện nay, ở nước ta có khoảng 1,6 triệu người
đồng tính, song tính và chuyển giới”.
Thành phần xã hội có nhiều người đồng tính nhất, chính là những
người làm nghệ thuật hay giới nghệ sĩ, như: diễn viên, ca sĩ, người mẫu... Đây
cũng là “thế giới” dễ bị đồng tính hoặc lây đồng tính nhất. Những người đồng
tính luôn tìm kiếm bạn tình và họ thường xuyên nhắm tới các sinh viên nam, có
ngoại hình ưa nhìn nhưng hoàn cảnh khó khăn, để lôi kéo, dụ dỗ, bao nuôi làm
bạn tình. Thực tế, có nhiều nam sinh viên chấp nhận việc đó, và họ từ người
bình thường trở thành người đồng tính, rồi lưỡng tính, và không biết rút cục
mình mang giới tính gì?
Theo Vnmedia trong bài viết ngày 16.8.2012: “Bí ẩn đời sống của thế
giới đồng tính nam”, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội Khuất Thu
Hồng nói: “Trong một nghiên cứu gần đây nhất của chúng tôi với hơn 5000 người
thì có 1,4% số nam giới được hỏi cho biết họ bị hấp dẫn bởi người cùng giới với
mình”. Bà Hồng cho biết thêm: “Trong một nghiên cứu nhỏ hơn cho thấy, những
người đồng tính phân bố khắp các nhóm xã hội, ở khắp vùng miền, ở mọi độ tuổi,
có thể nói ở đâu cũng có người đồng tính. Do bị kỳ thị nên những người này
không dám bộc lộ vấn đề của mình, không tìm đến các dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý
xã hội… để được giải đáp thắc mắc. Đặc biệt, để che đậy sự thật và để không bị
kỳ thị, nhiều người đồng tính đã phải sống ‘cuộc sống hai mặt’. Rất nhiều người
trong số đó dù không muốn nhưng vẫn phải kết hôn với phụ nữ. Nhưng trong thực
tế, họ còn có cuộc sống khác nữa, đó là có bạn tình đồng giới”.
Chính vì thế, Tiến sĩ Hồng cảnh báo: “Việc phải sống trong cuộc
sống bí mật khiến cho những người đồng tính nam khó tiếp cận dịch vụ, cộng thêm
với sự kỳ thị càng khiến cho họ e ngại, dẫn đến tăng khả năng lây lan bệnh tình
dục, cụ thể là HIV”.
Đồng quan điểm này, Bạn Nguyễn Trường Vũ, Trưởng nhóm “Ước Mơ Tuổi
Trẻ”, phân tích: “Có rất nhiều lý do để lý giải về tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm
người đồng tính tăng cao. Bên cạnh sự thiếu hụt dịch vụ thì việc giáo dục truyền
thông cũng yếu kém và hạn chế. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, chưa
nói đến giáo dục sức khỏe sinh sản, tình dục hay tình dục đồng tính, giáo dục
trong trường học cũng chưa hề có thông tin nào đối với người đồng tính và nguy
cơ họ sẽ gặp phải”.
Bác sĩ Nguyễn Thị Huệ, Trưởng phòng can thiệp và giảm tác hại,
thuộc Ủy ban Phòng chống HIV/AIDS TPHCM, cho biết: “Khảo sát của Ủy ban cùng
Viện Pasteur TPHCM cho thấy có đến 14% bệnh nhân HIV là người đồng tính nam
quan hệ tình dục cùng giới. Con số này tuy thấp hơn nhóm gái mại dâm và tiêm
chích ma túy, song vẫn đáng báo động”.
5. Phong hóa Việt Nam
Trước khi bàn luận về phong hóa, có lẽ chúng ta cùng nhìn về bối
cảnh xã hội Việt
Trong khi đó, theo truyền thống văn hóa Việt
Giá trị truyền thống ấy của người Việt
- Tình yêu
Khi người con gái “Xuân xanh xấp xỉ tới tuổi cập kê” (Truyện Kiều)
thì đám trai làng sẽ chạy theo làm quen. Có thể là một câu hỏi bâng quơ nhưng
diễn đạt bằng những câu thơ thật trữ tình, hy vọng được cô gái trả lời:
“Cô kia tát nước bên đàng
Sao cố múc ánh trăng vàng đổ đi.”
Hoặc chàng trai hỏi cô thôn nữ bằng một câu hỏi ỡm ờ, gợi ý xa xôi:
“Hôm qua tát nước đầu làng
Để quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà.”
Có lúc chàng trai mạnh dạn hơn, nhưng không kém phần lãng mạn nên
thơ, một thứ tình yêu mộc mạc chân quê, pha trộn hương đồng gió nội:
“Cô kia cắt cỏ một mình
Cho tôi cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng.”
Đôi khi chàng trai tỏ tình một cách nhẹ nhàng và rất thơ mộng:
“Hỏi xa anh lại hỏi gần
Hỏi em phỏng độ đương xuân thế nào
Thấy em là gái má đào
Lòng anh chỉ muốn ra vào kết duyên.”
Những lời tỏ tình thật ý vị và dễ thương, nhưng cũng thật mạnh mẽ:
“Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nết ra vào đoan trang
Vậy nên anh gửi thư sang
Dù sao anh quyết lấy nàng mà thôi.”
Đối với phái yếu, có lúc các cô gái cũng mạnh dạn tỏ tình với các
chàng trai, nhưng các cô phải rất thận trọng, kín đáo, rào trước đón sau:
“Anh đà có vợ con chưa
Mà anh ăn nói ngọt ngào có duyên
Mẹ già anh ở nơi nao
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.”
Còn trong những dịp hội hè, đình đám, các chàng trai cô gái của hai
làng lân cận, cũng có những câu tỏ tình thật nhẹ nhàng, bóng bẩy như có chất
thơ. Chẳng hạn, bên con trai hỏi:
“Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”
Bên con gái đáp lại:
“Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.”
Hay tình tứ, lãng mạn hơn:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ trước gió biết vào tay ai.”
Thật là những câu đối đáp hết sức thi vị, mượn ngoại cảnh để bày tỏ
nỗi lòng. Dù văn chương bình dân nhưng nhiều khi còn trữ tình và thơ mộng không
kém văn chương bác học.
- Hôn nhân
Trong thực tiễn, việc dựng vợ, gả chồng của người Việt trải qua
hàng ngàn năm. Nhưng phải là con trai đi hỏi vợ: “Trâu đi tìm cọc” chứ không có
cảnh: “Cọc đi tìm trâu” bao giờ! Quan hệ vợ chồng phải là quan hệ tình cảm giữa
hai người khác giới, tức là tình yêu nam nữ, để tạo nên một gia đình truyền
thống: yêu thương và hạnh phúc. Hãy nhìn những hình ảnh thật đẹp của một đôi vợ
chồng luôn có nhau trong cuộc sống:
“Sáng trăng giải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.
Đêm hè gió mát trăng thanh
Em ngồi canh cửi còn anh vá chài.
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”
Hơn nữa, hôn nhân truyền thống của người Việt
“Người ta thích lấy nhiều chồng
Tôi đây chỉ thích một ông thật bền.
Thật bền như tượng đồng đen
Trăm năm quyết với cùng em một lòng.”
Thật vậy, hôn nhân là nỗi khao khát của các chàng trai cô gái, nhất
là người con gái. Cô nào không kiếm được chồng quả là bất hạnh.
“Ði đâu mà chẳng lấy chồng
Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
Gào rằng: đất hỡi trời ơi!
Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng?
Ông trời ngoảnh cổ lại trông:
Mày hay kén chọn, ông không cho mày!”
- Gia đình
Một khi đã thành vợ chồng, các đức tính nhường nhịn, hòa thuận,
thủy chung lại được đề cao trong cuộc sống hôn nhân, nhằm hướng đến một cuộc
sống ấm no, hạnh phúc.
“
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.”
Nhất là người vợ, luôn giữ lòng thủy chung son sắt, gắn bó keo sơn
với người bạn đời:
“Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.”
Chiều chồng và chuẩn bị món ăn thức uống cho chồng cũng là đức tính
của người phụ nữ Á Đông. Họ cảm thấy đó là niềm vui, là bổn phận, và xa hơn
nữa, là hạnh phúc:
“Đốt than nướng cá cho vàng
Đem tiền mua rượu cho chàng uống chơi.”
Thật vậy, tình yêu nam nữ vẫn là khát vọng hạnh phúc của con người
từ xưa cho đến ngàn sau. Điều ấy đã được ông cha ta thể hiện một cách rõ nét
qua những câu ca dao thật đẹp và chan chứa tình người, một tình yêu mãnh liệt
đến vô cùng:
“Yêu anh cốt rũ xương tàn
Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh.”
Vợ chồng đầu ấp tay gối trong yêu thương, đầm ấm và hạnh phúc ngập
tràn.
“Cổ tay em trắng lại tròn,
Ðể cho ai gối đã mòn một bên?
Gối chăn gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.”
Bức tranh tình yêu trai gái và hạnh phúc vợ chồng tuyệt đẹp như
thế, đã in sâu vào tâm thức người Việt từ bao đời nay. Vì thế, “hôn nhân đồng
giới” là không phù hợp với quan niệm truyền thống về hôn nhân và gia đình của
dân tộc Việt
“Ðàn ông nằm với đàn ông
Như gốc như gác như chông như chà.
Ðàn ông nằm với đàn bà
Như lụa như lĩnh như hoa trên cành.”
Ngày nay, trong Luật Hôn nhân Gia đình (HNGĐ) hiện hành, khoản 5
điều 10 quy định: “Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”. Vì thế, mọi
“Hôn nhân đồng giới” đều bất hợp pháp, là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong
xã hội vẫn tồn tại hai luồng ý kiến. Thứ nhất, những người ủng hộ cho rằng đã
đến lúc phải nhìn nhận thực tế, thậm chí có thể sửa luật để cho phép “Hôn nhân
đồng tính”. Thứ hai, những người phản đối thì không đồng ý sửa luật HNGĐ hiện
hành.
- Về phía Chính quyền
Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng, Luật Hôn nhân và Gia
đình nên tiếp tục “cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính”
(tinnong.vn ngày 22.04.2013).
Theo giải thích của UBND Thành phố, hiện nay, hiểu biết của xã hội
về đồng tính còn rất hạn chế. Đa số đang hiểu sai về người đồng tính. Tuy
nhiên, Luật quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” là phù hợp
với thuần phong mỹ tục, và truyền thống của người Việt
UBND thành phố Hà Nội nêu rõ: “Việc sửa đổi Luật Hôn nhân và Gia
đình tiếp tục quy định ‘cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính’ như
Luật hiện hành, không can thiệp vào việc sống chung như vợ chồng giữa những
người cùng giới tính, không quy định về quyền và nghĩa vụ giữa các bên cùng
giới tính trong quan hệ chung sống như vợ chồng, để đảm bảo sự phù hợp về tâm,
sinh lý của các cặp vợ chồng và phong tục, tập quán của người Việt Nam”.
Đồng quan điểm với UBND thành phố Hà Nội, Sở Tư pháp tỉnh Thanh Hóa
cũng cho rằng: “Kết hôn giữa những người đồng giới có thể xem là một hiện tượng
không những không phù hợp với đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục và truyền
thống gia đình Việt Nam mà còn là hiện tượng phản khoa học, trái ngược với quy
luật phát triển bền vững của xã hội”.
Lý do mà Sở Tư pháp tỉnh Thanh Hóa đưa ra, là vì hôn nhân được xác
lập trên cơ sở sự kết hôn của người cùng giới tính sẽ không đảm bảo được chức
năng của hôn nhân gia đình là tái sản xuất ra con người để duy trì nòi giống.
Vì vậy, việc “cấm kết hôn giữa những người đồng giới” cần được tiếp tục duy
trì.
- Về phía Giáo quyền
Trong buổi tọa đàm: “Đồng tính - Tình yêu, Hôn nhân và những trăn
trở” vào ngày 19.2.2011, tại Trung tâm Mục vụ TGP TPHCM, Linh mục Luy Nguyễn
Anh Tuấn, Tổng Thư ký Ủy ban Gia Đình trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam,
Trưởng ban Mục vụ Gia Đình TGP TPHCM, phát biểu: “Tân Ước mặc khải rằng ‘Thiên
Chúa là Tình Yêu’, mà tình yêu bao giờ cũng là một tương quan giữa những ngôi
vị khác biệt. Thiên Chúa muốn con người có giới tính nam nữ, để làm cơ sở sinh
học cho một thực tại ái tình, là lực hút để người nam, người nữ kết hợp nên một
xương, một thịt và sinh sôi nảy nở với sự chúc lành của Thiên Chúa. Ý nghĩa của
tình yêu dựa trên giới tính khác biệt nam nữ là yêu thương nhau, nâng đỡ nhau
và sinh con có trách nhiệm trong tình yêu thương để phản chiếu một Thiên Chúa
Tình Yêu, là Thiên Chúa phong nhiêu, nghĩa là Thiên Chúa sự sống, hằng sống”
(chuongtrinhchuyende.com ngày 22.02.2011).
Trong bài viết: “Quan hệ của Giáo hội Công giáo về đồng tính luyến
ái”, Linh mục Giuse Têrêsa Trần Anh Thụ nhận định khá đầy đủ: “Xét dưới khía
cạnh khách quan, quan hệ đồng tính luyến ái tự nó là một hành động ngược lại
với ý nghĩa và mục đích của tình dục, do đó đi ngược với trật tự tự nhiên. Tuy
nhiên, nhìn dưới khía cạnh chủ quan, chỉ Thiên Chúa mới có quyền xét đoán; có
tội hay không là tùy lương tâm mỗi người trước mặt Chúa. Hơn nữa, có khuynh
hướng đồng tính luyến ái không phải là một tội, do đó nhìn người đồng tính
luyến ái với cái nhìn cảm thông là thái độ nền tảng trong cách cư xử của người
Kitô hữu”.
Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm - Giám mục phụ tá TGP TPHCM - trong
ngày Đại Hội Gia Đình TGP năm 2013, nhận định: “Ban Tổ chức chọn chủ đề ‘Mãi
mãi là Gia đình’ vì cuộc sống gia đình ngày nay đang bị đe dọa và luôn có
nguy cơ tan rã. Ngoài những nguyên nhân đã có trước đây như ly dị, ly thân,
bất hòa… thế giới ngày nay còn xuất hiện những tư tưởng, trào lưu làm phá
vỡ cấu trúc và bản chất của gia đình, chẳng hạn như vấn đề ‘Hôn nhân đồng
tính’. Với cách diễn giải dí dỏm về tình trạng ‘Hôn nhân đồng tính’, Đức cha
đặt vấn đề: Nếu thiếu cha hoặc mẹ thì gia đình ấy có còn là gia đình? và có
đúng với bản chất của gia đình không?” (tgpsaigon.net ngày 25.6.2013).
Thật vậy, Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 2358 có viết: “Ðừng quên
một số người đã có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Ðối với đa số
những người này, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải đón
nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả
những người này cũng được mời gọi thực hiện ý Chúa trong cuộc sống và, nếu là
Kitô hữu, họ nên kết hợp các khó khăn gặp phải do hoàn cảnh đặc biệt của mình
với hy tế thập giá của Chúa”.
6. Một lời đề nghị
Vấn đề được đặt ra không chỉ riêng với người Công giáo, mà cho tất
cả mọi người Việt Nam, là nếu chấp nhận “Hôn nhân đồng tính” thì việc đầu tiên
phải làm là định nghĩa lại: Bản chất của gia đình là gì? Mục đích của hôn nhân
là gì? Vai trò làm chồng, làm vợ là gì? Trách nhiệm làm cha, làm mẹ là gì? Thế
nào là sinh con nối dõi tông đường?
Chẳng hạn, một đứa trẻ sinh ra cần phải được hưởng đầy đủ, cân bằng
sự giáo dục và tình thương yêu của cả cha lẫn mẹ. Một đứa trẻ được một cặp đồng
tính nhận nuôi sẽ có nguy cơ phát triển lệch lạc, và tạo ra một thế hệ lệch
lạc. Nền tảng gia đình, vì thế, sẽ bị phá vỡ. Nhất là, “Hôn nhân đồng tính”
không phù hợp với đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục và truyền thống gia đình
Việt
Chính vì những lý do trên, xin tha thiết đưa ra một lời đề nghị
cùng các vị hữu trách: “Với 4000 năm văn hiến của dân tộc Việt
(Nguồn: Bản tin Hiệp Thông số 79 của Hội đồng Giám mục Việt