THẦN HỌC VỀ
THÂN XÁC VÀ HOẠT ĐỘNG TÍNH DỤC
Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn (ubmvgiadinh.org)
Tính dục là một chiều kích quan trọng và mầu nhiệm của đời sống
chúng ta. Thời đại ngày nay người ta để nó “lộ” ra nhan nhản có khi đến mức trơ
tráo và bão hòa. Nhiều nhà tư tưởng gọi tính chất của văn hóa thời nay là một
thứ “phiếm tính dục” (“Pan-sexualism”),
nghĩa là nhìn ở đâu cũng thấy nó xuất hiện, và xu hướng nhìn mọi sự qua lăng
kính “dục tính” (libido) ngày càng gia tăng kể từ Sigmund Freud. Xem ra trong
cuộc sống xã hội và văn hóa ngày nay, tính dục bị lạm dụng chỉ để phục vụ cho
sự tìm kiếm khoái lạc ích kỉ. Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã trả
lời cách tuyệt vời cho hoàn cảnh mới đó của ngày hôm nay. Ngài đã đặt tính dục
trở lại trong bối cảnh sâu rộng hơn của thần học về thân xác.
Chỉ dưới ánh sáng của các kinh nghiệm nhân bản nguyên thủy và các
phẩm chất đích thật của thân xác con người, chúng ta mới hi vọng hiểu được ý
nghĩa và giá trị của tính dục, cùng các hành động gắn liền với nó. Nếu bị bứng
khỏi bối cảnh đích thực của nó, tức trong tương quan lành mạnh, bền vững và
trên cơ sở một sự dấn thân nào đó, tính dục sẽ chỉ còn là một thứ đồ chơi đơn
thuần.
Dựa trên hai chương đầu của sách Sáng thế, đức Giáo hoàng
Gioan-Phaolô II đưa ra ánh sáng ba kinh nghiệm nguyên thủy của con người trước
cả tội nguyên tổ, là: «sự đơn độc nguyên thủy», «sự hợp nhất nguyên thủy», «sự
trần truồng nguyên thủy». Nhưng điều quan trọng phải nói ngay là: con người
lịch sử chúng ta cũng có thể có được những kinh nghiệm này, chính vì Đức Kitô
đã ban cho chúng ta. Tuy nhiên, kinh nghiệm gắn liền với tội nguyên tổ xem ra
quen thuộc với chúng ta hơn, vì chúng ta đã phạm tội và vẫn còn phạm tội và
nhiều thiếu sót.
Thế nhưng, qua Thần học về thân xác đức Gioan-Phaolô II giúp ta hiểu rằng
chúng ta có thể có được một kinh nghiệm tích cực về sự đơn độc, về sự hợp nhất, về sự trần truồng. Đó là điều Đức Kitô ước muốn cho chúng
ta. Người muốn chúng ta trở về lại với cái “thuở ban đầu”, để có thể khám phá
ra ý nghĩa đích thật của thân xác và tính dục con người, tức ý nghĩa của sự
sống.
Trong trình thuật Sáng thế chương 2, từ câu 4 đến câu 25, từ «Thiên
Chúa» được dẫn ra sáu lần như
muốn nói rằng con người có khả năng nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thiên Chúa và con người sống trong tương quan thân tình như bằng hữu, trong gia
đình. Hơn nữa, con người cũng khác các thọ tạo khác trong vườn Êđen, được giao
trách nhiệm đặc biệt: Thiên Chúa dẫn các loài vật đến trước con người để họ đặt
tên, nghĩa là con người biết và thống trị muôn loài. Tuy nhiên, con người thấy
không có một “ai” trong các loài đó có thân xác khả dĩ giống như hay tương xứng
với mình. Con người hiểu rằng mình có một thân xác như mọi loài thọ tạo quanh
mình, nhưng thân xác ấy khác với xác thể muôn loài.
Sự đơn độc nguyên thủy của con người mang hai nghĩa.
Thứ nhất, con người cô độc trước Thiên Chúa,
hay độc đáo trước mặt Thiên Chúa. Mối tương quan của con người với Chúa là duy
nhất. Con người cũng được Thiên Chúa tạo dựng như các loài khác, nhưng chỉ con
người mới có thể “nghe” và “nói chuyện” với Ngài. Chúng ta đứng trước nhan
Ngài, mỗi người một cách duy nhất hiện diện trước mặt Ngài. Khác với muôn loài,
chúng ta có thể quan hệ trực tiếp với Thiên Chúa, đối thoại với Ngài. Nhờ “sinh
khí” của Thiên Chúa (x. St 2,7) thổi vào, con người có thể nhận
biết và yêu mến Thiên Chúa, trần thế và chính mình. Một số loài vật cũng có khả
năng nhận biết trong chừng mực nào đó, như những con vật cưng như chó nuôi
trong nhà chẳng hạn, nhưng rất giới hạn. Còn con người, với tư cách là người,
chúng ta biết được rằng mình
biết, tức là ta có ý thức rằng mình biết, chúng ta có khả năng
suy tư trên các sự kiện và ý nghĩa của chúng. Chính từ đó, con người ý thức
mình tự phát triển như những ngã vị (persons). Con người “cô đơn” vì con người là thọ
tạo có xác thân duy nhất được tạo dựng theo hình ảnh, họa ảnh của Thiên Chúa
(x. St 1,26). Con người thì “cô đơn” trong
thế giới hữu hình này, xét như vì mình là một ngã vị. Khi Ađam (con người) đặt tên
cho các loài vật, ông cũng khám phá ra “tên” của mình, khám phá ra căn tính của
mình. Ông đã đi tìm một “trợ tá”, nhưng không tìm ra “ai” cả trong số các loài
vật mà ông đặt tên (x. St2,20).
Con người thì khác với các con vật. Nhưng khác ở chỗ nào?
Nói cách vắn tắt, đó chính là tự do. Con
người không xác định mình bởi yếu tố bản năng thân xác. Con người được tạo dựng
từ “bụi đất” như các loài vật (con người có xác), nhưng họ cũng có “sinh khí”
làm cho họ trở nên một sinh vật. Một xác có sinh khí không chỉ là một thân
xác nhưng là một “ai đó”. Một người có thể chọn lựa tự do làm gì tùy ý đối
với thân xác mình. Loài chỉ là bụi đất thì không thể làm được như vậy. Tự do
được ban cho con người để biết yêu thương. Nó có thể dẫn tới hủy diệt và chia
rẽ, thế nhưng nó có là để ban trao sự sống và tạo lập tình hiệp nhất. Nó là chọn lựa của chúng ta.
Thứ hai, ý nghĩa của sự đơn độc nguyên thủy của
con người còn được hiểu như là cá nhân từng con người là độc đáo nhưng còn có cái gì đó chưa ổn. “Con người ở một mình thì
không tốt” (x. St 2,18). Chính Thiên Chúa thấy
điều đó trước hết. Con người cần một “trợ tá” tương xứng với mình để có thể
“biết” mình đầy đủ hơn. Con người không là một vật nhưng là một chủ thể sống
tương quan. Là một chủ thể liên vị. nhận thấy rằng mình không giống các loài vật
vì mình được mời gọi bước vào một “giao ước tình yêu” với chính Thiên Chúa.
Chính mối quan hệ tình yêu với Chúa đó xác định sự “đơn độc” của Ađam hơn bất
cứ điều gì khác. Khi nếm vị ngọt tình yêu ấy, Ađam cũng ước mong toàn thể con
người mình được cùng sẻ chia giao ước tình yêu này với một ngã vị khác giống
như mình vậy. Đó là lý do tại sao “con người ở một mình thì không tốt”. Bởi
thế, từ trong nỗi cô đơn của mình, con người đã khám phá ra được ơn gọi hai mặt
của mình: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận (Mc 12,29-31). Sự đơn độc là khám phá đầu
tiên của ngã vị tính mà tương quan là một yếu tố cấu thành của nó. Là tinh
thần, nhưng ngã vị lại được “kinh nghiệm” nơi thân xác. Như đức Gioan-Phaolô
nói «thân xác diễn tả ngã vị (con người)»[1].
2. Sự hợp nhất nguyên thủy: hiệp thông các ngôi vị
Thấy “con người ở một mình không tốt”, Thiên Chúa ra tay. Ngài cho
Ađam đi vào một giấc ngủ mê, và tạo dựng nên Eva, người đàn bà, từ chiếc xương
sườn của ông. Tỉnh dậy, Ađam khám phá
một “ai đó” mới lạ vừa giống vừa khác bên cạnh mình, và kêu lên thảng thốt:
“Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (St2,23),
biểu lộ sự kinh ngạc tột cùng và say mê.
Ađam bị mê hoặc bởi xác thân của nàng, bởi lẽ, như đức Giáo hoàng
cho thấy, cái “phen này” là một thân xác biểu lộ một con người ngã vị. Mọi con
vật ông đã đặt tên là những thân xác, nhưng không phải là nhân vị. Trong tiếng
Hípri, “thịt” và “xương” (basar) chỉ toàn thể con người. Bởi thế, việc tạo dựng
người nữ từ một trong những chiếc xương của người nam là cách diễn tả bóng bẩy
của sự kiện cả hai tham dự cùng một nhân tính. Cả hai đều là những nhân vị được
tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Cả hai “đơn độc” trong thế giới theo
nghĩa họ khác biệtvới
các loài vật (sự đơn độc nguyên thủy). Cả hai được kêu gọi để sống trong một
giao ước tình yêu. «Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và
cả hai thành một xương một thịt» (St2,24). Kinh nghiệm kết hợp này giúp con người chiến thắng nỗi cô đơn. Sự kết hợp nên “một xương một
thịt” nơi con người thuộc một thế giới khác hẳn với sự giao cấu của các loài
vật. Vậy sự khác biệt chủ yếu ở điểm nào? Phải nói là, trông bên ngoài tức chỉ
nhìn trên bình diện sinh học, thì hai bên giống nhau, thế nhưng sự kết hợp tình
dục nơi con người không chỉ là một thực tại sinh học. Đó còn là một thực tại
tâm linh và thần học. Thân xác con người là để mạc khải và
thông dự vào huyền nhiệm tình yêu thần linh. «Trong hôn nhân, ái ân trở thành
dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần»[2]. Loài vật không có khả năng «hiệp thông tinh
thần» này vì chúng không phải loài thuộc linh (spiritual). Phận “cát bụi” hay
vật chất của loài vật không được “thần hứng” (in-spired) nghĩa là không có hơi
thở Thần Khí. Chúng không được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa.
Kết hợp nên “một xác thịt” không chỉ muốn nói đến sự giao cấu của
hai thân xác (như các loài vật) nhưng là «một biểu lộ ‘bí tích’ của sự hiệp
thông các ngôi vị»[3]. Thân xác con người là bí tích. Thân xác con
người khiến mầu nhiệm Thiên Chúa vô hình, Đấng là chính sự Hiệp Thông các Ngôi
Vị (Cha, Con, và Thánh Thần) và bản thể Ngài là Tình Yêu, trở nên hữu hình.
Thiên Chúa không thể ban cho ái tình một mục đích và một phẩm giá nào cao cả
hơn thế. Sự kết hợp vợ chồng nhằm một cách nào đó trở thành biểu tượng của đời
sống nội tại Ba Ngôi Thiên Chúa ! Nếu chúng ta mà hiểu được chân lí độc đáo này
và suy tư về điều ấy, chúng ta sẽ không bao giờ nhìn tính dục con người theo
cùng một cung cách như trước. Xin hãy nhớ rằng: Thiên Chúa không bị phân giới
tính. Hình bóng ở thế gian thì mờ nhạt so với những thực tại trên trời. Thế
nhưng, Thiên Chúa tạo dựng nên con người chúng ta lại có giới tính và kêu gọi
ta đi vào hiệp thông để nên như là một mạc khải đệ nhất, theo nghĩa nguyên thủy
và căn bản, cho mầu nhiệm riêng Người, ở trong thế giới tạo thành này. Đây
chính là điều mà đức Giáo hoàng muốn nói khi ngài mô tả hôn nhân như là
«bí tích đệ nhất». Toàn thể thực tại đời sống hôn nhân dĩ nhiên là một bí tích.
Nhưng “mầu nhiệm cao cả” này không nơi nào thể hiện rõ ràng hơn khi hai người
vợ và chồng nên một “xác thịt”.
Sau khi mô tả sự kết hợp của đôi vợ chồng đầu tiên, ta đọc thấy bản
văn sáng thế nói, «con người và
vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau» (St 2,25). Đức giáo hoàng nói trong số tất
cả các đoạn văn về các câu chuyện tạo dựng đây «chính là chiếc chìa khóa» để
hiểu kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa về cuộc sống con người. Quả là một lời
khẳng định bạo dạn. Nói cách vắn tắt, nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa của câu St 2,25,
chúng ta sẽ không hiểu việc chúng ta được tạo dựng nên như là người nam và
người nữ có ý nghĩa như thế nào. Chúng ta sẽ không hiểu chính bản thân mình
cũng như không hiểu ý nghĩa của cuộc sống.
Một người phụ nữ cảm thấy không cần phải che thân thể mình khi tắm
rửa một mình trong phòng tắm. Nhưng nếu có một người đàn ông lạ đột nhiên đi
vào nhà tắm, cô ta sẽ thấy xấu hổ. Tại sao vậy? “Xấu hổ” theo nghĩa này, như
đức giáo hoàng giải thích, là hình thức tự bảo vệ không để mình bị biến thành
một đồ vật thỏa khoái cảm dục tính cho ai khác. Trường hợp của người phụ nữ này
chẳng hạn, cô ấy biết rằng mình không bao giờ muốn để bị đối xử như một “đồ
vật” ai muốn đá tưng đi đâu thì đá. Kinh nghiệm dạy cho nàng biết rằng những
người đàn ông (do lòng thèm muốn bởi tội nguyên tổ mà ra) thường có xu hướng
đối xử với thân xác người phụ nữ như một đồ vật. Bởi thế, người phụ nữ che thân
thể mình lại không phải vì nó “xấu” hay “đáng xấu hổ”. Nàng che mình lại để bảo
vệ phẩm giá của mình không bị xúc phạm bởi một “ánh mắt đầy dục vọng” của kẻ xa
lạ - một ánh nhìn thiếu tôn trọng phẩm giá ngôi vị do Thiên Chúa ban. Ngược
lại, trong tình trạng vô tội nguyên thủy Ađam và Evà có kinh nghiệm về sự trần
truồng mà không biết xấu hổ. Khi ấy dục vọng (sự thèm muốn
dục tình tự tìm kiếm thỏa mãn) chưa lẻn vào tâm hồn con người. Bởi thế, hai ông
bà tổ tông của chúng ta dẫu trần truồng cũng cảm thấy không có cái phản vệ khi
đứng trước mặt người khác, bởi lẽ cái nhìn của người kia hoàn toàn không chút
đe dọa đến phẩm giá của mình. Đức Giáo hoàng diễn tả cách thơ mộng, họ «nhìn
nhau và thấu hiểu nhau… với ánh mắt tâm hồn tràn đầy bình an»[4]. “Ánh mắt tâm hồn” này không chỉ là cái nhìn
của một thân xác thuần túy nhưng là cái nhìn của một xác thân con người biểu lộ
ra một tâm hồn mầu nhiệm. Họ nhìn thấy ý định yêu thương của Thiên Chúa khắc
ghi trong xác thân trần truồng của họ và đó chính là điều mà họ
khát vọng – đó là yêu
thương như Thiên Chúa yêu thương trong và qua thân xác của họ. Và như thế trong
tình yêu không hề có sự sợ hãi (xấu hổ). «Tình yêu hoàn hảo loại trừ mọi sợ
hãi» (1Ga 4,18). Đó là lý do ta hiểu tại
sao «trần truồng mà không xấu hổ» là chiếc chìa khóa để hiểu kế hoạch của Thiên
Chúa trên cuộc sống của chúng ta. Vì nó mạc khải chân lý nguyên thủy của tình
yêu. Hiểu thấu đáo hơn nữa điều này, ta thấy rằng “thuở ban đầu” Thiên Chúa đã
tạo dựng khát vọng tính dục như là chính sức mạnh để yêu thương như Ngài yêu
thương, bằng cách trao ban chính mình trong sự tự do, chân thành và toàn vẹn. Đó là điều mà đôi vợ chồng đã kinh nghiệm như được
mô tả trong sách Sáng thế. Khát
vọng tính dục khi ấy không được sống như một xung năng hay bản năng nhằm tìm sự
thỏa mãn ích kỷ của con người.
Vì người đàn ông và người đàn bà đầu tiên “hoàn toàn được phủ đầy”
bởi tình yêu Thiên Chúa, nên họ hoàn toàn tự do và trở thành tặng phẩm cho
nhau. Họ «tự do bởi chính cái tự do của tặng phẩm trao hiến» như đức Giáo hoàng
đã nói[5]. Chỉ có người tự do không bị nô lệ cho những
xung năng của dục vọng mới có thể trở nên một “tặng phẩm” thực sự cho người
khác. «Tự do của tặng phẩm» bấy giờ trở thành tự do để chúc lành, là tự do không bị khống chế
của xung năng (hay sự thúc bách) của tham lam chiếm hữu.
Chính sự tự do này giúp đôi vợ chồng đầu tiên «trần truồng mà không thấy xấu
hổ». Họ như được tham dự vào cái nhìn đó của Thiên Chúa. Họ biết sự
thiện hảo của họ. Họ biết kế hoạch yêu thương tuyệt vời của
Thiên Chúa. Họ thấy kế hoạch đó được ghi tạc trong
thân xác của họ và họkinh nghiệm nó
nơi khát vọng của họ hướng về nhau.
Chúng ta đã đánh mất cái nhìn tuyệt vời này khi tội lỗi xuất hiện.
Nhưng ta đừng quên «Đức Giêsu đã đến trả lại cho thụ tạo tình trạng tinh tuyền
nguyên thủy của chúng»[6]. Điều này sẽ chưa nên trọn cho
tới khi Nước Trời đến, tuy nhiên qua ơn cứu chuộc, chúng ta có thể bắt đầu phục
hồi điều đã mất ngay từ đời này.
(con tiep)
[1] Tiếp
kiến chung ngày 31/10/1979.
[2] GLHTCG,
2360.
[3] Gioan-Phaolô
II, Tiếp kiến chung ngày 25/06/1980. Ở đây đức Giáo hoàng trình bày một
bước phát triển trong tư tưởng thần học Công giáo. Theo truyền thống, các nhà
thần học thường nói chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa hệ tại ở nơi chúng ta,
xét như là những cá vị, là hồn có lý trí. Điều này đúng thôi. Nhưng đức
Gioan-Phaolô II tiến thêm một bước nữa, ngài nói: «Con người trở nên là hình
ảnh của Thiên Chúa không hẳn ở nơi yếu tố đơn độc cho bằng là ở nơi yếu tố hiệp
thông». Nói cách khác, con người là hình ảnh của Thiên Chúa «không chỉ hệ tại ở
nơi nhân tính của mình, nhưng còn bởi sự hiệp thông các ngôi vị mà người nam và
người nữ tạo lập ngay từ đầu».
[4] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung
ngày 02/01/1980.
[5] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung
ngày 16/01/1980.
[6] GLHTCG,
2336.