Đức tin tạo nên sức mạnh tinh thần
Nguyễn Chính Kết
1. Thái độ của dân Do Thái đối với dân ngoại
Trong bài Tin Mừng nói về việc Đức
Giêsu chữa đứa con gái bị quỷ ám của một phụ nữ người Cana (x. Mt 15,21-28),
Đức Giêsu có một vài câu nói khó hiểu, thậm chí khó chấp nhận đối với người
thời đại. Muốn hiểu được, ta cần nắm vững bối cảnh của bài Tin Mừng này. Miền
Tia và Siđôn – nơi Đức Giêsu và các môn đệ Ngài đến trong bối cảnh bài Tin Mừng
này – cũng như miền Cana, là những miền đất của dân ngoại nằm trong lãnh thổ Do
Thái. Tương tự như Chợ Lớn là vùng dân cư người Hoa, Phan Rang là vùng của
người Chàm tại Việt Nam. Người Do Thái, đặc biệt người Pharisêu, coi dân ngoại
bang hay ngoại giáo là những người tội lỗi, bị ô uế về mặt tâm linh, nên họ
khinh bỉ ra mặt. Thái độ này tương tự như của người Bàlamôn ở Ấn Độ đối với
tiện dân Paria: ngay cả bóng do mặt trời của những người này ngả trên người họ
cũng khiến họ phải về nhà tẩy uế. Người phụ nữ đến với Đức Giêsu trong bài Tin
Mừng là người Cana, là người ngoại bang và cũng là ngoại giáo. Vì thế, khi đến
với Đức Giêsu là người Do Thái, bà đã mường tượng trước thái độ kém thân thiện
có thể có của Đức Giêsu đối với bà. Do đó sau khi yêu cầu Ngài chữa bệnh cho
con gái bà, bà không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu im lặng không đáp, và các
môn đệ Ngài tỏ thái độ không muốn bà làm phiền Ngài.
Thái độ của Đức Giêsu, nếu không
hiểu, ta có thể kết luận rằng Ngài thiếu tình người vì Ngài đã tỏ ra không sẵn
sàng giúp bà chỉ vì bà là dân ngoại: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà
Ítraen mà thôi», thậm chí còn ví dân ngoại như bà là chó nữa: «Không nên
lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con». Thật ra, Ngài muốn
thử thách niềm tin của bà vào Ngài, bằng cách thử làm cho bà nản lòng xem thái
độ bà thế nào. Vì điều kiện để Ngài
có thể chữa lành con gái của bà theo như ý bà xin là bà phải có đức tin mạnh
mẽ. Nếu bà không có đức tin, Ngài không thể giúp bà được gì cả.
Thật vậy, khi Ngài về quê hương của mình là Nadarét, Tin Mừng cho biết: «Người không
làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin» (Mt 13,58). Vì thế, việc thử thách đức tin của bà là chuyện cần
thiết. Và Ngài đã thử bà bằng cách tỏ ra coi thường bà giống như
những người Do Thái khác vẫn đối xử với bà. Nhưng bà đã vượt qua thử thách ấy,
bà đã thắng được lòng tự ái dân tộc của bà và không nản lòng. Điều ấy chứng tỏ bà tin vào quyền năng và tình thương của
Ngài. Vì thế, Ngài đã cho bà được toại nguyện. Ngài nói: «Này bà, lòng
tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy». Và con gái bà đã
được khỏi ngay lúc ấy.
2. Điều quan trọng là phải có đức tin
Để một phép lạ hay lời cầu xin được thành tựu, cần hai yếu
tố: quyền
năng Thiên Chúa và niềm tin của con người. Yếu
tố đầu không còn là vấn đề, vì Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban ơn cứu giúp con
người vì tình thương vô biên của Ngài. Vì thế, yếu tố quyết định thành tựu hay không nằm ở phía con người:
con người có đủ niềm tin hay không. Thật vậy, mỗi lần Ngài chữa
bệnh thành công cho một người nào, Ngài không nói «Ta đã cứu chữa con» cho dù
nói như vậy rất đúng, mà nói «Lòng tin của
con đã cứu chữa con» (Mt 9,22; Lc 17,19). Thiếu đức tin về phía con người, dù Ngài có
muốn cứu giúp, Ngài cũng không làm được, như trường hợp Ngài về
Nadarét, Ngài đã không biểu lộ quyền năng của Ngài được vì dân chúng thiếu đức
tin, cho dù dân ở đây đều là người cùng tôn giáo với Ngài (x. Mt 13,58). Khi con người có đức tin, cho dù là người
ngoại giáo, Ngài vẫn thực hiện được những phép lạ. Đây là một
điều đáng cho ta suy nghĩ về khả năng nhận được ơn cứu độ: người theo tôn giáo chân chính mà thiếu đức tin và tình yêu
có thể không được ưu tiên nhận ơn cứu độ cho bằng người ngoại giáo nhưng có đức
tin và tình yêu, biết sống theo tinh thần của Đức Giêsu.
Khi có đức tin mạnh mẽ, thì điều ta mong muốn sẽ thành tựu:
«Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù
anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng
có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20). Gương của
Phêrô khi ông đi trên mặt nước (x. Mt 14,28-31) cho ta thấy: sở dĩ ông làm được chuyện ấy vì ông tin vững chắc rằng ông
sẽ làm được với sự trợ giúp của Chúa. Nhưng đang đi trên mặt nước
ngon lành, bỗng thấy gió thổi, ông liền nghi ngờ, thế là ông bị chìm xuống ngay
lập tức trước mặt Đức Giêsu. Điều ấy cho thấy rõ ràng ông đi được trên nước là
vì ông tin vững mạnh, và ông bị chìm xuống là vì lúc ấy ông thiếu đức tin. Như
vậy có thể nói: không phải ông đi
trên nước mà đi trên đức tin của mình. Đức tin của ta chính là mặt đất để ta
bước đi trong đời sống tâm linh của mình.
3. Tại sao những ước nguyện của ta lại không thành tựu?
Sở dĩ ta ước nguyện, quyết tâm mà không thành tựu, chính vì
ta thiếu niềm tin, tin không đủ mạnh. Vì đức tin của ta nhiều khi
chỉ là thứ đức tin được chấp nhận một cách lý thuyết hay chỉ được tuyên xưng
mạnh mẽ ngoài miệng thôi. Đó là thứ đức tin bằng lời nói chứ không phải đức tin
bằng hành động. Nếu có đức tin thật
sự và vững vàng, ta sẽ có một sức mạnh tinh thần rất đáng kể, và đời sống của
ta chắc chắn sẽ thay đổi theo chiều hướng lạc quan. Về tinh thần,
người mạnh mẽ và người yếu đuối khác nhau ở chỗ: người mạnh mẽ là người dám tự tin vào mình,
tin mình có sức mạnh và khả năng thực hiện nhiều việc, còn người yếu đuối không
dám tự tin vào mình. Sự tự tin vào
bản thân mình của người Kitô hữu được xây dựng trên niềm tin vững chắc vào tình
yêu và quyền năng của Thiên Chúa.
Người có đức tin mạnh mẽ không chỉ tin bằng lời nói, mà tin
bằng hành động thực tế. Họ tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ vì
bản chất Ngài là tình yêu (x.1Ga 4,8.16), Ngài không thể không yêu thương,
không thể lãnh đạm với những nhu cầu khẩn thiết của họ. Và tình yêu của Ngài là
thứ tình yêu đầy quyền năng, không sự gì là không làm được (x. Lc 1,37). Vì
thế, khi họ kết hiệp với Ngài bằng
đức tin và tình yêu, thì tình yêu của họ cũng sẽ trở thành một thứ tình yêu
quyền năng, có khả năng làm được mọi việc. Họ sẽ có kinh nghiệm y
như Phaolô: «Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban
sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Tuy nhiên, để có được
kinh nghiệm về sức mạnh như Phaolô, điều
kiện tiên quyết là họ phải từ bỏ chính mình, coi nhẹ «cái tôi» của mình, đồng thời
ý thức sự hư vô và bất năng của mình đã. Ý thức sự bất năng của
mình là nhận thức rằng nếu không nhờ
vào quyền năng của Thiên Chúa, họ sẽ không làm được gì cả: «Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được»
(Ga 15,5). Vì thế, không bao giờ họ
hãnh diện hay lên mặt với ai khi mà tất cả những gì họ làm được đều nhờ vào
quyền năng của Thiên Chúa. Nhờ đó, lời cầu nguyện của họ trước
Thiên Chúa rất đắt giá vì tâm hồn họ
tràn đầy tình yêu, không mang tính vị kỷ, và cũng tràn đầy tin tưởng vào tình
yêu và quyền năng của Ngài. Họ sẽ được Thiên Chúa đối xử với họ
như đã đối xử với Abraham: «Ta sẽ chúc
phúc những ai chúc phúc ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi,
mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc» (St 12,3).
Đương nhiên, không phải những người
tin vững vàng vào Thiên Chúa thì sẽ không gặp khó khăn, thử thách, nghịch cảnh
hay đau thương. Những thứ này luôn luôn là những dụng cụ Thiên Chúa dùng để
thánh hóa những người Ngài yêu thương, kể cả Đức Giêsu, Con của Ngài. Họ càng
vững mạnh trong đức tin thì họ càng được Thiên Chúa thử thách, để khi vượt
thắng những thử thách ấy, đức tin của họ vào Ngài sẽ vững mạnh hơn, và họ được
Ngài chúc phúc hơn. Bí quyết để họ
vượt qua thử thách chính là đặt niềm tin vào Thiên Chúa nhiều hơn nữa.
Nếu họ không vượt qua được thử thách vì chưa mạnh tin đủ thì đức tin của họ sẽ
bị suy giảm. Mỗi lần được thử thách
là một dịp để họ chiến thắng nếu họ dám tin vào Chúa, để sau đó đức tin họ vững
mạnh hơn. Nhưng thử thách cũng sẽ là dịp để họ thất bại nếu họ
không đặt đủ niềm tin vào Ngài, và đức tin của họ sẽ ngày càng bị suy yếu, sự
tự tin nơi bản thân và sức mạnh tinh thần của họ cũng sẽ giảm đi. Vì thế, điều
quan trọng là ta phải củng cố đức tin của mình mỗi ngày, và kiên trì với đức
tin khi bị thử thách.
***
Người phụ nữ Canaan trong bài Tin Mừng này là người ngoại
giáo, nhưng bà tin tưởng vững chắc vào tình yêu quyền năng của Đức Giêsu, nên
bà đã đạt được ý nguyện của bà. Trong khi đó, những người cùng quê hương, cùng
tôn giáo với Ngài ở Nadarét lại không đạt được điều ấy. Như vậy, người Kitô hữu
cần ý thức sự quan trọng của đức tin và tình yêu đối với Thiên Chúa, với Đức
Giêsu và với tha nhân trong đời sống tâm linh của mình. Đừng nên quá cậy vào
tôn giáo chân chính của mình mà quên đi điều cần thiết hơn rất nhiều là đức tin
và tình yêu của ta. Thiếu nó, đời sống tâm linh của ta sẽ bị hụt hẫng, không
phát triển được, và không có giá trị trước mặt Thiên Chúa.