“ĐẠO” SINH HOẠT
Lm. Nguyễn Trọng
Viễn O.P.
Tổ chức chặt chẽ và sinh hoạt rầm
rộ, đó chính là nét nổi bật nhất trong khuôn mặt của Giáo hội Công giáo. Ở đâu có
người Công giáo, ở đó có nhà thờ, có giờ kinh giờ lễ, có ban bệ tổ chức… Có lẽ
cũng có những người bên ngoài thầm thán phục và muốn áp dụng phương thức này
cho các tổ chức, đoàn thể hoặc tôn giáo của họ. Thật sự không ai có thể chối
rằng những tổ chức và sinh hoạt như thế đã góp phần làm cho đời sống đức Tin
được nuôi dưỡng và tăng trưởng. Tuy nhiên, chính nét ưu điểm ấy lại hàm chứa những nguy cơ sâu
xa, nhất là khi nó trở thành một thứ “đạo”, một thứ nguyên lý chi phối
toàn bộ đời sống đức Tin chân thực của Giáo hội.
Nhiều Kitô hữu, cho đến hiện nay,
vẫn chỉ sống đạo theo kiểu gắn đời mình vào cỗ xe của
những sinh hoạt trong giáo xứ hay đoàn thể. Họ tranh luận và bàn cãi sôi
nổi với nhau về cách thức tổ chức, nhưng lại không một chút bận tâm cá nhân về chính
đức Tin của mình, đức Tin thể hiện trong thái độ của cá nhân khi gặp những hoàn
cảnh phức tạp, đức Tin khi chọn một giải pháp cho cuộc sống, đức Tin khi chấp
nhận Thánh ý Chúa trong cuộc đời của chính mình.
Chúng ta có thể thấy rõ thứ đạo
sinh hoạt này trong nhiều xứ đạo, nhất là những xứ đạo di cư và đặc biệt là
trong những xứ đạo lâu năm không có linh mục. Điều mà một thời người ta cho là
sự vững chắc của đức Tin, thật ra, phần lớn chỉ là sự “vững chắc” của những tổ
chức sinh hoạt mà không có bao nhiêu lòng tin cá vị vào Thiên Chúa và đón nhận
muối men của Tin Mừng trong chính tâm hồn, cũng như thể hiện trong thái cử hằng
ngày.
Ở Tây phương, thời kỳ Trung cổ
được gọi là thời đại "Kitô giới" [chrétienté], nghĩa là thời đại mà ảnh hưởng Kitô giáo tràn ngập
trong mọi ngõ ngách, mọi lãnh vực. Trong xã hội ấy, văn hoá và sinh hoạt Kitô
giáo được tổ chức và sắp xếp để bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào người Kitô hữu
cũng thấy mình nằm trong thế giới của tôn giáo.
Tính chất tôn giáo hiển hiện rõ rệt và tạo nên một "cái
khung"; không những là khung cảnh, nhưng còn là một khuôn khổ có khuynh hướng trở nên tiêu chuẩn duy nhất của một đời sống đạo tốt đẹp.
Quan niệm chung chung trong tâm thức người Kitô hữu khi ấy là : sinh hoạt càng sầm uất thì đời sống đạo càng phong phú và sốt sắng…
Trong cái khung ấy, nhiều Kitô hữu
sống đức Tin bằng cách tham dự các sinh hoạt tôn giáo; còn giữ đạo nghĩa là còn
tham dự các sinh hoạt đạo; giữ đạo sốt sắng nghĩa là tham dự nhiều sinh hoạt
tôn giáo. Hơn nữa, nhiều khi cái khung ấy còn thay thế cho tâm tình tôn
giáo đích thực, thay thế cho niềm tin như một sự gắn bó cá vị với Chúa
và thể hiện những giá trị đích thực của Tin Mừng. Trong khuôn khổ ấy, người ta
cảm thấy không đọc kinh sáng tối, không làm dấu trước khi ăn, không kiêng thịt
ngày thứ Sáu . . . là phạm tội, nhưng lại không thấy áy náy chút gì cả khi thể
hiện một lối sống và thái độ trái ngược với Tin Mừng của Chúa.
Thế nhưng, khởi từ thế kỷ XVI,
trào lưu tục hoá xuất hiện và cứ lớn mạnh lên dần, lớn mạnh theo đà phát triển
của các khoa học thực nghiệm, các môn học đời, các nghệ thuật đời; những trào lưu
ấy dần dần xâm lấn vào mảnh đất của tôn giáo trước đây. Sau cùng, trào lưu tục
hoá thể hiện qua các biến cố chính trị và trở thành những biến cố làm rung
chuyển vị thế Giáo hội. Cách mạng Pháp 1789 là một biến cố mở màn cho một tiến
trình giới hạn hoặc loại trừ các sinh hoạt tôn giáo. Dần dần người ta đi đến
khái niệm phân biệt rõ ràng đạo và đời.
Ban đầu các vị giáo hoàng và những
vị hữu trách trong Giáo hội tìm mọi cách để phục hồi vị thế thống lãnh trước
đây của mình; tìm cách tái xây dựng một xã hội "Kitô giới" càng giống
với "thời hoàng kim" của mình bao nhiêu càng tốt, các hình thức của
lòng sùng mộ công cộng được khuyến khích phát triển : đọc
kinh liên gia, tổ chức những đoàn hội
theo nghề nghiệp, theo giới, thành lập những hội từ thiện… Tuy nhiên, những nỗ
lực ban đầu ấy vẫn chỉ nhằm mục đích xây dựng lại
"cái khung" Kitô giới trước đây.
Dần
dần, các vị giáo hoàng cũng nhận ra được rằng không thể quay ngược dòng lịch
sử; trào lưu tục hoá ngày càng lớn mạnh và hầu như không có gì ngăn cản nổi.
Thế rồi, từ khoảng cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, những tưởng chừng như đe
dọa phá hủy đời sống Kitô giáo như thế lại là một cơ may để nhiều Kitô hữu tìm
lại ý nghĩa, giá trị đích thực của niềm tin[2].
Khi phải đối diện với những giá
trị và những cám dỗ trần thế, đức Tin của người Kitô hữu bị cật vấn và một số
Kitô hữu lại khao khát tìm hiểu sâu xa hơn niềm Tin của mình. Bị quăng vào một
xã hội trần tục, nhiều Kitô hữu, giờ đây, mới cảm thấy nhu cầu sống đức Tin
chân chính, thuần khiết của Kitô giáo. Trước nhu cầu tự biện minh và làm chứng
cho Đức Tin giữa xã hội trần tục, nhiều Kitô hữu nhận ra ý nghĩa đời sống đức
Tin và trách nhiệm thể hiện niềm tin của mình bằng những gì cơ bản bản nhất của
Kitô giáo, đó là lòng bác ái, lòng Tin, Cậy, Mến trong cuộc sống hằng ngày, chứ
không phải bằng cách đấu tranh để thiết lập một thế giới Kitô giáo như xưa nữa.
Ý thức mới này thực sự là một luồng gió của Thánh Thần để mở ra nhiều cuộc canh
tân tốt đẹp[3]
: canh tân ý thức đức Tin, canh tân sinh hoạt phụng vụ và canh tân ý thức
tông đồ. Đức Tin trở thành một nhu cầu thật của cuộc sống và chính nhu cầu
ấy lại góp phần canh tân tổ chức phụng vụ...
Khi
đời sống đạo chỉ là nếp sinh hoạt thì phụng vụ chỉ còn là một việc phải làm để
giữ đạo; nỗ lực của phụng vụ chỉ là làm sao cho người tín hữu tham dự cách sinh
động và sốt sắng lúc cử hành nghi thức. Ngược lại, khi đức Tin trở thành một
nhu cầu thật, phụng vụ mới trở nên nguồn mạch và là nơi người giáo dân tìm đến
để kín múc chất liệu cần thiết cho cuộc sống của mình. Rồi việc canh tân phụng
vụ lại thúc đẩy những nỗ lực canh tân cách giải thích
Kinh Thánh và nhiều lãnh vực khác.
Hình như đời sống Kitô giáo ở Việt
Nam, được truyền bá từ Tây phương vào thế kỷ XVI, vẫn còn giữ nguyên bầu khí
của thời Trung cổ Tây phương. Trong một thời gian dài, người Kitô hữu Việt Nam
thường tụ tập lại thành xóm đạo và đời sống có phần đóng kín trong những sinh
hoạt của làng xóm.... Mọi sinh hoạt, đạo và đời, thường được tổ chức một cách
kỹ lưỡng và bao trùm hết đời sống. Đời sống đức Tin của mỗi người, do đó, vẫn
còn được tháp nhập vào sinh hoạt đạo đức trong giáo xứ và vẫn "chạy"
trong quĩ đạo của những tổ chức tôn giáo.
Thế nhưng ngày nay, đặc biệt trong
thời kinh tế thị trường, người Kitô hữu không còn đóng kín sinh hoạt của mình
trong các xóm, xứ đạo. Không gian sinh hoạt hằng ngày mở rộng tới các sinh hoạt
đời, trong một thế giới trần tục; bầu khí "văn hoá" của người Kitô
hữu không còn thuần khiết tôn giáo. Chính trong giai đoạn này, ta thấy khuôn
khổ đời sống đạo của người Kitô hữu Việt Nam có nhiều dấu vết rạn nứt, đặc biệt
trong những xứ đạo vốn có truyền thống sinh hoạt tôn giáo sầm uất. Một số Kitô
hữu sống xa ảnh hưởng của sinh hoạt tôn giáo, cả về không gian lẫn 'văn
hoá", và cảm thấy ý nghĩa tôn giáo phai lạt dần. Một số đông hơn vẫn tham
dự các sinh hoạt tôn giáo nhưng chỉ quan niệm giữ đạo là giữ sinh hoạt đạo như
trước đây; sinh hoạt đạo là những nghĩa vụ phải chu toàn, những đòi buộc, theo
thói quen lâu đời của truyền thống gia đình, của giáo xứ. Do đó, khi đời sống
xã hội có nhiều sinh hoạt khác cần thiết và hấp dẫn hơn, họ bắt đầu thấy sinh
hoạt tôn giáo là một điều vướng víu, nặng nề và muốn từ bỏ. Cũng có một số ít
Kitô hữu dần dần khám phá ra nhu cầu đức Tin trong đời sống của mình, đức Tin
như là dưỡng chất cho tâm hồn và là ánh sáng soi chiếu cho những giải pháp
trong cuộc sống của mình.
Tuy nhiên, nếu đời sống đức Tin
vẫn được quan niệm, chủ yếu, chỉ như là những sinh hoạt tôn giáo, chiếm một
khoảng không gian và thời gian nhất định, nó sẽ đứng vào vị thế đối đầu và cạnh
tranh với các sinh hoạt khác, một sự cạnh tranh "không khoan nhượng".
Phải
chăng, với nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, Giáo hội Việt Nam cũng đang
phải đấu tranh với một trào lưu tục hoá ? Liệu chừng sinh hoạt của Giáo hội
Việt Nam vẫn có thể tiếp tục cuộc đối đầu trong thế mạnh với các sinh hoạt và
nhu cầu trần thế đang càng ngày càng gia tăng ?
Trước những câu hỏi ấy, chúng ta
phải tự hỏi xem "thế mạnh" của Kitô giáo nằm ở đâu ? Kinh nghiệm về
việc khám phá lại đời sống đức tin trong lịch sử Giáo hội có thể hữu ích cho
việc canh tân đời sống Kitô hữu tại Việt Nam hiện nay không ?
Nhiều người Kitô hữu và một số
chức sắc ngoại quốc đã từng trầm trồ về nét sinh hoạt sầm uất của Giáo hội Công
giáo Việt Nam. Cho tới hiện nay, bước vào thiên niên kỷ thứ III, chúng ta vẫn
tương đối an tâm khi nhìn vào các nhà thờ trong giờ lễ, khi nhìn thấy đông đảo
tín hữu, nhất là giới trẻ, trong các dịp tĩnh tâm; chúng ta cũng ngạc nhiên khi
thấy vẫn còn, và ra như càng ngày càng nhiều hơn, những chuỗi người xếp hàng
dài chờ xưng tội…
Tuy nhiên, trong lòng những tổ
chức và sinh hoạt ấy, đời sống đức Tin có tính chất cá vị hình như lại khá yếu
kém. Các nhà thờ của chúng ta thường đông người trong những giờ có tổ chức sinh
hoạt phụng vụ, nhưng lại vắng hoe khi không có tổ chức nào. Ta thấy rất ít
những người đến với Chúa một cách hoàn toàn tự nguyện và xuất phát từ nhu cầu
đức Tin trong cuộc đời. Người ta chỉ đến với Chúa vì lề luật, vì sinh
hoạt hoặc để xin vài ơn cụ thể nào đó.
Tổ chức giáo xứ của chúng ta có
những ban bệ khá vững chắc, nhưng lại không thể hiện được bao nhiêu cách sống
thấm nhuần Tin Mừng. Nhiều giáo xứ, nhất là những giáo xứ lâu năm không có linh
mục, vẫn tổ chức các sinh hoạt đạo sầm uất : làm hang đá, rước kiệu, táng xác Chúa, cờ xí, chuông trống,
áo xống, ngắm nguyện. . . Thế nhưng, ngay trong chính những sinh hoạt
đạo ấy, người ta lại có thể đấu đá nhau sát ván bằng những phương thức không có
một chút men Tin Mừng nào, ngay cả bằng những phương thức xã hội đen.
Nhiều người sinh hoạt lâu năm
trong hội đoàn, nhiều em sinh hoạt một thời gian dài trong nhóm giúp lễ, nhưng
khi hết hội đoàn, rời bỏ nhóm, thì tâm hồn cũng chẳng còn một chút gì là giá
trị đạo. Nhiều trường hợp các em lại còn hư hỏng thêm do “gần chùa gọi bụt bằng
anh”, hoặc do việc kết bè kết nhóm khi sinh hoạt hội đoàn. Nguyên do cũng chỉ
vì sinh hoạt trở thành “đạo”, thành nguyên lý;
và hết sinh hoạt, thì đạo cũng hết.
Cung cách sống đạo của phần lớn
Kitô hữu hiện nay là cố gắng chu toàn các giới răn
của Chúa. Đời sống đức Tin được qui định bằng luật lệ,
được diễn giải thành những hành vi cụ thể : làm dấu, đọc kinh, xưng tội, sinh
hoạt mùa Vọng, mùa Chay, kiêng thịt, ăn chay…
Có lẽ nhiều "chức sắc"
trong Giáo hội vẫn đặt người tín hữu vào vị thế như những giáo dân thời Trung
Cổ, nghĩa là coi họ như những Kitô hữu ít học và cần những hướng dẫn tỉ mỉ, rõ
ràng để giữ luật bằng cách chu toàn những việc cụ thể. Điều ấy ngày nay lại có
nghĩa là dùng phương thức của trẻ con để giáo huấn
những người lớn :
Kiêng thịt chứ không
phải là tự nguyện có một chút hy sinh; ăn chay nghĩa là "một bữa no hai
bữa đói" và có thể "mất chay"
nếu lỡ ăn bất cứ điều gì ngoài ba bữa chính, chứ không phải là một hành vi nói
lên lòng khao khát Chúa;
Đi lễ Chúa Nhật thế nào cho "thành sự" chứ không phải kín múc nguồn mạch sức sống cho cuộc sống thường ngày;
Làm dấu trước bữa ăn thay vì một tâm tình tạ ơn….
Trong những nếp qui định ấy, có
khá nhiều Kitô hữu hiện nay rõ ràng đã không sống được một tâm thức của đức Tin
chân chính. Người Kitô hữu cố gắng giữ luật để khỏi
phạm tội chứ ít hiểu rằng giữ luật là một sự tín trung với Chúa;
người Kitô hữu đi lễ như một trách nhiệm phải chu toàn
chứ không sống tinh thần hiệp thông với cộng đoàn để tạ ơn Chúa; nhiều bạn trẻ
tránh tội vì sợ Chúa phạt, nên khi lỡ phạm một
tội trọng [chẳng hạn bỏ lễ Chúa Nhật] thì chọn lập trường "cùi không sợ
lở", “chơi luôn”. . . cho đến khi xưng tội lại. Nhiều người rất sốt sắng
trong việc nhà đạo, nhưng không sống một chút giá trị lòng thương yêu và tôn
trọng những người bé mọn, sự cảm thông, tha thứ, cái nhìn của đức Tin siêu
nhiên… Do đó, chúng ta thấy nhiều người Kitô tính toán chi tiết để khỏi vi phạm
luật, nhưng không hề thấy lỗi lầm của mình trong những việc không thấy ghi rõ
các các giới răn, chẳng hạn làm cho những người chung quanh phải khổ…
Trong
Giáo hội Việt Nam, những tổ chức và sinh hoạt đạo phần lớn gắn liền với một
"tầng lớp", giáo sĩ và tu sĩ. Trong tâm thức người Kitô hữu Việt Nam,
có thể nói, sự hiện diện của tầng lớp này chính là "linh hồn" của
Giáo hội.
Tuy nhiên, giáo dân thường cần tới
giáo sĩ và tu sĩ như là những người đáp ứng các sinh hoạt chứ không phải đáp
ứng nhu cầu đức Tin. Những địa phương, những tổ chức và sinh hoạt được các giáo
sĩ và tu sĩ đảm nhận thì sinh hoạt phát triển. Uy tín và tầm quan trọng của
giáo sĩ và tu sĩ rõ ràng cũng được đánh giá dựa theo tiêu chuẩn này. Rất nhiều
bạn trẻ đi tu vì thích những hoạt động của giáo sĩ hoặc tu sĩ chứ không phải vì
nét đẹp của người rao giảng Tin Mừng. Giáo sĩ và tu sĩ được coi như là những
người có địa vị trong tổ chức Giáo hội, “có việc làm”
trong “ban bệ” tổ chức sinh hoạt của Giáo hội.
Nhiều bạn trẻ đi tu để tìm một vị thế trong tổ chức và để thể hiện mình
trong những sinh hoạt của Giáo hội. Linh mục vốn được trọng dụng hơn các tu sĩ,
bởi vì linh mục có vị thế quan trọng hơn trong các tổ chức và sinh hoạt; tu sĩ
có khả năng hoạt động có vẻ như vẫn "hợp thời" hơn những tu sĩ sống
tinh thần Tin Mừng cách âm thầm… Như thế chúng ta cũng hiểu tại sao người Việt
Nam thích đi tu làm linh mục nhiều hơn, thích
các dòng hoạt động nhiều hơn, và thường đánh giá
một giáo sĩ hay tu sĩ theo khả năng tổ chức và sinh
hoạt chứ không phải trong ý nghĩa đời sống đức Tin và giá trị Tin Mừng.
Bạn trẻ có thể quý mến một tu sĩ coi cổng thật nhân ái, nhưng vẫn thích làm
linh mục để xuất hiện trước cộng đoàn.
Giới giáo sĩ và tu sĩ Việt Nam
đang có rất nhiều nỗ lực để canh tân sinh hoạt tôn giáo. Giáo hội Việt Nam, nói
chung, vẫn còn khá nhiều ơn gọi và vẫn còn một lực lượng giáo sĩ, tu sĩ tương
đối trẻ, năng động, để có thể xoay sở trong những sinh hoạt tôn giáo nhằm thu
hút sự tham gia của người Kitô hữu. Quả thật, hiện nay, chính những nỗ lực sáng
tạo, đổi mới hình thái sinh hoạt tôn giáo cho hấp dẫn hơn, sinh động hơn, đang
là sức mạnh chính yếu để giữ gìn nếp sống đạo trong Giáo hội Việt Nam.
Tuy nhiên, trong bầu không khí
chung của một thứ “đạo sinh hoạt”, phần lớn giáo sĩ và tu sĩ có lẽ cũng không
thoát được tâm thức chung. Khả năng khẳng định mình
trong sinh hoạt Giáo hội đã trở thành “giá trị”
lớn trong lòng Giáo hội Việt Nam và chính "giá trị" ấy đang tác động sâu xa trong mọi lãnh vực, cả trong ý nghĩa ơn gọi.
Do đó, tầng lớp giáo sĩ và tu sĩ
nhận thấy trách nhiệm chính yếu của mình là đảm nhận những tổ chức và sinh hoạt
trong Giáo hội; và ngầm hiểu rằng điều làm nên “sức sống” của Giáo hội Việt Nam cũng chính là những sinh hoạt và tổ chức sầm uất… Nhiều giáo sĩ và tu sĩ
bận tâm chuẩn bị những "kỹ năng" cần thiết trong sinh hoạt của Giáo
hội nhiều hơn là bận tâm sống giá trị Tin Mừng. Nhiều giáo sĩ và tu sĩ nỗ lực làm cho tổ chức phụng
vụ được hấp dẫn và lôi cuốn chứ không mấy ưu tư
cần làm gì để nuôi dưỡng đức Tin chân chính và thật sự
loan báo Tin Mừng cứu độ.
Chính vì thế, sinh hoạt và tổ chức
trong Giáo hội Công giáo được củng cố vững chắc hơn mọi tôn giáo khác, nhưng
phẩm chất đời sống đích thực của người Kitô hữu thể hiện trong cuộc sống hằng
ngày có lẽ cũng chẳng hơn ai.
Mặt khác, chúng ta thấy không hiếm
những tu sĩ, giáo sĩ, trong vai trò, trách nhiệm của mình, đã hết mình khuyên
nhủ, dạy dỗ người giáo dân những điều hay lẽ phải; nhưng khi lọt ra khỏi vị thế
và trách nhiệm của mình, trong một hoàn cảnh khác hoặc sống một vị thế khác,
thì lại ứng xử một cách khá "tự nhiên" như bất cứ một người nào khác,
những cách ứng xử không biểu lộ một chút nào tinh thần của Tin Mừng. Cũng như
với các người sinh hoạt trong hội đoàn, một tu sĩ bỏ ơn gọi, thường thường,
chẳng mấy chốc cũng trở lại một con người hết sức bình thường và tầm thường như
mọi người khác.
Quĩ đạo sinh hoạt còn lôi kéo theo
nhiều căn bệnh khác trong đời sống Giáo hội : bệnh hình thức và nguy hiểm hơn
là “bệnh sáo ngữ”. Nhiều linh mục tu sĩ phải cố
gắng trau dồi kỹ năng giảng thuyết, chủ yếu, để
khẳng định mình trong sinh hoạt. Kỹ năng ấy dĩ nhiên là cần thiết; nhưng ta cũng
thấy có khá nhiều điều được nói trên toà giảng chỉ là
những sáo ngữ, những điều mà người nói đã học được, đã cố suy nghĩ để có
cái mà nói, đã trau chuốt để thêm hấp dẫn;
nhưng tự thâm tâm cũng không biết rằng người nghe có thể sống được điều ấy
không, hoặc chính người nói cũng chẳng bao giờ cố gắng một chút để sống điều mình nói…
Bệnh sáo ngữ làm cho những điều
được nói trở thành ngôn từ thuần túy hoặc tư tưởng thuần túy. Những điều ấy
thường cũng được giáo dân đón nhận theo cung cách
“sáo”, giảng vui hay giảng buồn, hấp dẫn hay
nhàm chán. Không có một thái độ tự chủ để nhận định, không có thái độ
chân thành để lắng nghe lời mời gọi của Tin Mừng cho chính mình, thì cũng không
có nét “sáng tạo”, một sự sáng tạo bình thường, xuất phát từ sự gặp gỡ thực sự
giữa lời ngỏ đặc thù của Chúa và cá nhân đặc thù của bản thân. Những lời nói
như thế không có được cái hồn, biểu lộ trong một lối nhìn riêng, một vài ngôn từ riêng,
một khía cạnh cảm nhận riêng.
Những ngôn từ ấy không có “cá tính” nhưng là những sản phẩm
đúc khuôn, sản phẩm nhái. Chính vì thế, những lời giáo huấn cũng không
đến được với tâm hồn thính giả, mà chỉ loanh quanh trong một lô sáo ngữ quen thuộc và không làm chứng được một
sức sống của Lời Chúa. Chính “đạo sinh hoạt” là môi trường nuôi dưỡng và củng
cố thái độ sáo ngữ. Do vậy, người ta còn thấy rất nhiều những lời cám ơn, những
lời chào đón, giới thiệu, những lời chia buồn, chia vui trong dịp tang ma hiếu
hỷ đầy những sáo ngữ.
Mặt khác, nhiều giáo huấn của
những người có trách nhiệm trong Giáo hội được suy
diễn từ nếp sống của mình chứ không phải từ nền
tảng đời sống Kitô hữu đích thực, biến bài giảng thành những giáo huấn luân lý và kỷ luật, dựa theo nếp sống của
giới tu sĩ và linh mục. Nhiều khi lời giảng của linh mục có khuynh hướng lôi kéo
người giáo dân ra khỏi cuộc sống thật, để đưa giáo dân vào thế giới của những
giá trị “thiêng liêng” hoặc đưa vào khuôn khổ quản
trị.
Trong đạo sinh hoạt, người ta
thường phải quan tâm đến sự trật tự, nề nếp, ổn
định. Do đó, nhiều mục tử biến chất trở thành những nhà quản trị, những người bận tâm tới nề nếp
chung hơn là lưu tâm để đoàn chiên có thể sống dồi dào. Nếu cần, những nhà quản
trị có thể thẳng tay gạt bỏ hoặc đàn áp những cá nhân không theo qui luật chung,
dù đó là những hoàn cảnh éo le và đáng thương.
Tổ chức phụng
vụ phải trật tự, cử điệu diễn tả phải thống nhất, mọi thành phần đều phải giữ
đúng giờ, ngồi đúng chỗ… Nhiều chuyên gia phụng vụ chỉ quan tâm “làm
sao cho đúng” chứ ít để ý “làm sao để nuôi dưỡng
đức Tin”. Khi những người có trách nhiệm, linh mục, ông trùm, bà
quản chỉ quan tâm đến quản trị, thì những người có hoàn cảnh riêng, tâm sự
riêng, trở thành những kẻ phá đám. Điều ấy làm cho ta liên tưởng đến “lời dễ
ghét” của những người theo Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem quát mắng anh mù đã làm
ồn ào, mất trật tự : “Những người đi đầu quát nạt, bảo
anh ta im đi” [Lc 18,39]. Trong tổ chức sinh hoạt, những con chiên
“không ngoan” chẳng tìm đâu được những “lời dễ thương” : “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” [Mc
10,49]. Với cung cách quản trị như thế, người giáo dân ít được tôn trọng và cảm
thông trong hoàn cảnh và tâm tư riêng. Bước nhà nhà thờ, người ta trở thành
những con người hoàn toàn của tập thể và phải sống theo qui luật sinh hoạt của
tập thể. Trong tổ chức Giáo hội, người giáo dân không được mời gọi để sống đức
Tin trưởng thành, có những lựa chọn và thể hiện tấm lòng với Chúa, nhưng phải theo những chỉ dẫn chi li của hàng giáo phẩm và
giáo sĩ. Đó là cung cách đoàn lũ !
Cũng thế, nhiều nhà Dòng tập trung nỗ lực vào đời
sống kỷ luật hơn là đào tạo sự trưởng thành.
Bước vào tu, người thỉnh sinh được “trao” một thời khóa biểu những sinh hoạt.
Trách nhiệm chính của người tu sĩ là bảo đảm đầy đủ các sinh hoạt và chu toàn
đúng đắn các công tác được trao trong sinh hoạt chung của cộng đoàn. Mỗi lần
hội họp cộng đoàn, người ta nêu lên những sai phạm kỷ
luật nhiều hơn là nhắc nhở nét tích cực của tinh
thần tu trì. Nói chung, những người lãnh trách nhiệm cộng đoàn thường
mong muốn nề nếp cộng đoàn của mình ổn định, không có gì nổi cộm, không có gì
trục trặc. Thay vì sự đồng hành, hướng dẫn từng cá nhân, người có trách nhiệm
lại thường đánh giá một tu sĩ dựa theo việc chu toàn các “giờ sinh hoạt” …
Những điều này lại cũng góp phần tạo nên một cung cách đoàn lũ trong giới tu
sĩ.
Có thể nói hầu hết mọi người thời
Chúa Giêsu, từ những người Do Thái, những người nghèo được Chúa cứu chữa và cho
ăn bánh cho đến các môn đệ của Chúa Giêsu đều tưởng rằng Đấng Mê-si-a sẽ thiết
lập Nước Trời bằng cách tổ chức một triều đình, với các chức tước và đạo quân
hùng mạnh để chinh phục và thống trị muôn dân.
Thế nhưng Đức Giêsu lại đã đi con
đường cứu độ theo Thánh ý Chúa Cha. Đó là con đường rao giảng Nước Trời với
những giá trị mới, những giá trị có khả năng đón nhận mọi người, nhất là những
người bé mọn và bị loại trừ: khó nghèo, hiền lành, thương xót, tha thứ, tôn
trọng những người bé mọn, tin tưởng và gắn bó với Chúa trong niềm Tin [xc. Mt
5-7 và //] . . . Rồi Ngài đã hy sinh mạng sống của mình để làm bảo chứng cho
những hạt men, hạt mầm Nước Trời ấy [xc. Lc 13, 18-21] được chiến thắng.
Giáo hội được triệu tập,
có Chúa Giêsu Phục Sinh luôn ở cùng [xc. Mt 28,20] và nhờ quyền năng
Thánh Thần của Ngài [xc. Lc 24, 49] để đảm nhận
trách nhiệm gieo vãi men Tin Mừng khắp thế gian.
Do đó, biến cố Đấng Mê-si-a đến
được kéo dài thành quãng thời gian giữa hai lần Chúa đến, đó là thời gian Cánh
chung và là thời gian của Giáo hội. Tất cả ý nghĩa, tất cả lý do hiện hữu của
Giáo hội là, sống giữa hai lần Chúa đến, nỗ lực loan báo Tin Mừng, làm cho Nước
Trời được rộng mở và thấm nhập vào trần gian. Giáo hội được triệu tập và tổ chức hữu hình không phải là để tự củng cố và trở nên hùng mạnh, nhưng là để trở nên “Bí tích Nước Trời” ở trần gian [xc. GH 1], để
gieo vãi hạt giống Tin Mừng và làm cho chính trần gian này trời thành Nước Trời ngay trong hiện tại.
“Tất
cả chúng ta được mời gọi gia nhập Giáo hội trong Chúa Kitô, và nhờ ân sủng
Thiên Chúa, chúng ta nên thánh trong Giáo hội. Và Giáo hội chỉ kết thúc trong
vinh quang trên trời, khi thời cải tạo mọi sự đến [xc. Cv 3,21] và khi toàn thể
vũ trụ cùng với loài người được thiết lập toàn vẹn trong Chúa Kitô, vì vũ trụ
liên kết mật thiết với con người và nhờ con người đạt được cùng đích của mình
[xc. Ep 1,10; Cl 1,20; 2Pr 3,10-13]”. [GH 48 a]
Liệu Giáo hội Công giáo Việt Nam
có nguy cơ không còn là một cộng đoàn những người tin, nhưng biến thành một tổ
chức ?
Dĩ nhiên, cần phải nhắc lại một lần
nữa, không ai chủ trương một Giáo hội không có tổ chức hay sinh hoạt; và cũng
không ai dám phủ nhận giá trị của những tổ chức và sinh hoạt ấy trong Giáo hội.
Kitô giáo hoàn toàn không phải là một thứ đạo tại tâm, nhưng là một sự liên kết, hiệp thông, gắn bó cụ thể với Đức Giêsu qua anh chị
em của mình và qua Giáo hội hữu hình. Qua những tổ chức và sinh hoạt
trong Giáo hội, người Kitô sống mối hiệp thông với Đức
Giêsu; đồng thời, qua những tổ chức và sinh hoạt của mình, Giáo hội có
thể tìm thấy một phương cách tốt để giáo dục đức Tin cho người Kitô hữu.
Tuy nhiên, có lẽ chính qui luật
quản trị đã ảnh hưởng trên Giáo hội quá nhiều. Một cách nào đó, có lẽ Giáo hội,
đặc biệt Giáo hội Việt Nam, đã đi vào vết xe của những người Do Thái thời Chúa
Giêsu, và cũng là ảo tưởng của các tông đồ khi theo Chúa Giêsu với não trạng
nhân loại : ảo tưởng một Nước Thiên Chúa hiển hiện và thống trị trong thế giới
trần gian này.
Nước Chúa trong giai đoạn hiện nay
lại chính là hạt cải cần phải được vun trồng, là nắm men cần thời gian để dậy
men cho cả thúng bột… Giáo hội trở nên như muối, như ánh sáng, trước tiên,
không phải do những tổ chức và sinh hoạt sầm uất, nhưng như những thực tại của
Nước Chúa, những giá trị của Tin Mừng, đang gieo niềm hy vọng về một thế giới
đại đồng, thế giới yêu thương, thế giới hạnh phúc trọn vẹn.
***
Giấc mơ về ngôi nhà thờ làng tôi :
Ngôi
nhà thờ làng tôi có một phòng dành riêng để cất giữ Mình Thánh Chúa; căn phòng
nhỏ bên cạnh gian chính của nhà thờ, căn phòng kín đáo, ấm cúng và gần gũi để
người tín hữu có thể cầu nguyện với Chúa Giêsu Thánh Thể một cách thân tình.
Lòng nhà thờ được thiết kế như một sự qui tụ, bàn thờ ở trung tâm, mọi người
ngồi vòng tròn xung quanh bàn thờ.
Trước
giờ thánh lễ, vị linh mục mặc áo lễ ngồi sẵn nơi ghế chủ tọa cộng đoàn. Tín hữu
vào nhà thờ, chào linh mục và chào hỏi nhau. Linh mục có thể giới thiệu một ai
đó với cộng đoàn; ông trùm phân chia công tác trong thánh lễ; vị ca trưởng tập
hát một chút cho cộng đoàn. . . Tất cả diễn ra trong bầu không khí thân ái, vui
tươi, nhẹ nhàng, không cần phải trang nghiêm và nghi thức; các tín hữu có thể
gặp gỡ, biết nhau và hiệp thông với nhau nhiều hơn qua vài câu chào hỏi.
Trước
giờ lễ, mỗi người có thể tự nhiên nói lên ý nguyện của mình, hoặc viết ý nguyện
vào một mảnh giấy nhỏ, đặt trên bàn thờ để linh mục đọc cho mọi người cùng hiệp
thông. Sau bài giảng của linh mục cũng như sau khi rước lễ, cộng đoàn dành một
vài phút thinh lặng, như hướng dẫn của Qui chế Thánh Lễ, để mỗi người có thể
nghe Lời Chúa và đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể “đến” với hoàn cảnh thật của
cộng đoàn, đến với từng cá nhân cũng như từng hoàn cảnh riêng của mỗi người tín
hữu. Khi chúc bình an, mọi người có thể di chuyển, gặp gỡ, nói lời chúc tốt đẹp
của mình với người bên cạnh, nhất là với những người đã tỏ bày cùng cộng đoàn
vấn đề của mình trong ý nguyện của Thánh lễ. Khi rước lễ, mọi người “tự do” xúm
xít quanh bàn thờ như bàn tiệc của cộng đoàn, lãnh nhận Mình Thánh Chúa từ tay
linh mục; không cần xếp hàng, mà cũng chẳng phải được “phát chẩn”.
Đó
là giấc mơ về ngôi nhà thờ và sinh hoạt phượng tự ở làng tôi; ngôi nhà thờ và
sinh hoạt phượng tự vượt qua tính nghi thức cứng đọng vốn khó đụng chạm được
đến cuộc sống thật; vượt qua tinh thần quản trị đoàn
lũ vốn không để cho cá nhân sống thanh thản bộc lộ bản thân của mình; vượt qua thái độ khúm núm và sợ sệt trước mặt Chúa như một
ông vua uy nghi.
Họ
bảo người phụ nữ : “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật,
chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” [Ga
4,42].
Kitô hữu : “Con từng sung sướng được biết Chúa qua một trung gian : qua
Thánh Kinh và các thánh; qua các đức giáo hoàng và các vị truyền giảng. Ước gì
con có thể nói với tất cả họ : ‘Tôi tin không phải vì những gì quí vị đã nói :
chính đích thân tôi đây đã nghe được tiếng Ngài”
Anthony de Mello,
Như Tiếng Chim Hót, trang 163.