Hướng Sống Giáo Hội
Hiện Ðại:
Sứ Mạng Dân
Chúa Giữa Trần Gian
I. Nhập Ðề
Khi đề cập tới chủ đề Giáo
Hội, là ta mặc nhận những nền tảng căn bản của Giáo hội học như: nguồn gốc và
bản chất của Giáo hội. Từ đó ta mới có thể phản tỉnh tới sứ mạng của Giáo hội
trong lòng trần thế hiện nay. Và tất cả những cơ cấu Giáo hội không ngoài mục
đích nhằm thực hiện và chu toàn sứ mạng này. Thiết nghĩ không cần phải nghiên
cứu hay đào sâu về Giáo hội học, chúng ta ai cũng có thể biết được nguồn gốc
của Giáo hội là chính Ðức Kitô. Ngài đã được "sai đi", tức là được
Chúa Cha giao cho trọng trách cứu thế và được Chúa Thánh Linh xức dầu thánh
hiến để hoạt động trong một "địa chỉ" đặc thù: "mang tin mừng
cho kẻ nghèo khó, loan tin giải phóng cho kẻ bị cầm tù, đem ánh sáng cho kẻ đui
mù, đem tự do cho kẻ bị áp bức và loan truyền năm hồng ân của Thiên Chúa"
(Lc. 4, 18f). Nhờ vậy, Ngài đã đánh thức trần gian, đã dẫn trần gian nhắm theo
tiêu chuẩn "Tám Mối Phúc Thật" để dần dần trở thành Nước Chúa. Sự
hiện hữu của Giáo hội được bắt nguồn từ mạch sống này và bản chất của Giáo hội
là cụ thể hóa sứ mạng của Ðức Kitô trong những thời đại và môi trường khác
nhau.
Như Chúa Giêsu được sai tới để
nhập thể và nhập thế hầu loan truyền và thực hiện Nước Chúa giữa trần gian,
Giáo hội cũng được Ðức Kitô kêu gọi và phái đi để làm chứng nhân của Ngài, hầu
mang ơn cứu độ và tin mừng cho tới "cùng trái đất". Như vậy, Giáo hội
phải nhập thế mới có thể sống giữa trần gian, mặc dầu "không thuộc về trần
gian". Chính vì thế mới trở thành "Bí Tích" thánh hóa trần gian.
Nói cách khác, như Chúa Giêsu khi nhập thế vẫn luôn thông hiệp với Chúa Cha và
Chúa Thánh Linh, Giáo hội là Dân Chúa sống giữa trần gian: một bên là cộng đoàn
thánh được Chúa chọn sống trong sự hiệp thông của chúa Ba Ngôi, nhưng đàng khác
cũng là thành phần của trần gian, chia sẻ vận mệnh của trần gian trong mọi nơi
và mọi thời. Giáo hội qua gần hai ngàn năm đã lưu truyền tới tay chúng ta hôm
nay để chúng ta luôn tiếp tục thân phận "hành hương" hầu làm chứng
nhân cho Ðức Kitô cho tới ngày Người tái hiện.
Ðể thực thi được sứ mạng làm
chứng nhân của Ðức Kitô giữa trần gian và cho trần gian, mặc dù không thuộc về
trần gian, chúng ta phải hiểu chính chúng ta cũng như hiểu trần gian. Hiện giờ
chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào? Nếu biết rõ được "địa chỉ"
này, chúng ta mới hy vọng dùng cách thế nào cho hợp thời hợp cảnh mà đem Tin
Mừng đến cho thế gian một cách hữu hiệu hơn. Cũng may cho chúng ta là không
phải tự mình vò đầu bóp trán để phát hiện ra những đường hướng và chương trình
này, nhưng là do chính Công Ðồng Vatican II đã vạch ra cho chúng ta những
phương hướng cụ thể đó. Dầu vậy, chúng ta cũng cần phải phản tỉnh để tự khám
phá ra đường hướng này, nhờ đó chúng ta một bên nhận ra Cộng Ðoàn Dân Chúa
trong sự liên hệ Hiệp Thông và đàng khác trong tinh thần phụng sự với những
khía cạnh mới, trọng tâm mới, nếu chúng ta đứng trên quan điểm Dân Chúa là
chứng nhân giữa trần gian và hiện hữu vì trần gian như Thượng Hội Ðồng Giám Mục
Thế Giới 1987 và Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh trong Tông Huấn về
"Ơn gọi và sứ mệnh của người giáo dân trong Giáo hội và giữa trần
gian".
II. "Ðịa
chỉ" của Giáo hội hiện đại
Mặc dầu không chủ trương Xã
Hội Học Thực Nghiệm là nền tảng để định đoạt Tri Thức Luận, nhưng qua những
bảng thống kê như là những phương tiện chính xác giúp ta có thể nương theo sự
phản tỉnh của các thần học gia để truy tìm "địa chỉ" của Giáo hội
hiện đại. Lẽ đương nhiên, chúng ta cũng có thể tự phản tỉnh và xét xem các thần
học gia đó nêu lên những nhận định có xác thực không? Ðó cũng là phần rất quan
trọng, nếu không muốn nói là phần quan trọng nhất.
Theo bảng thống kê của Giáo
hội năm 1985, số Công giáo theo từng địa phương có tỷ lệ như sau: Á Châu:
72,141,000 (8,47%) Âu Châu: 278,047,000 (32,63%) Ðại Dương Châu: 6,444,000
(0,76%) Bắc Mỹ Châu: 64,475,000 (7,57%) Nam Mỹ Châu: 358,188,000 (42,04%) Phi
Châu: 72,658,000 (8,53%) Tổng cộng: 851,953,000 (100%)
Nếu đem con số này sánh với
một vài bảng thống kê của những năm trước, chúng ta sẽ phát hiện một sự kiện
đáng suy nghĩ. Năm 1900, số tín hữu Công giáo sống ở Âu Châu và Bắc Mỹ là 77%.
Ðến năm 1970, con số đó đã hạ xuống chỉ còn 49,14% so với số dân Công giáo sống
ở khắp hoàn cầu. Và cứ theo đà này, theo nhà thần học W. Buhlmann ước lượng thì
năm 2000, khoảng 60% số dân Công giáo sẽ sống ngoài Âu Châu và Bắc Mỹ, nghĩa là
số tín hữu Công giáo sẽ sống ở Nam bán cầu và thê giới thứ ba nhiều hơn, nếu
không kể tới những nơi dân chúng có thể đến cư ngụ vì công ăn việc làm, thì sự
ước lượng trên có thể sai lệch như dân số ở Bắc Mỹ và Âu Châu không gia tăng,
ngược lại số người ly khai Giáo hội có thể tăng. Dĩ nhiên đây chỉ là một giả
thuyết mà thôi.
Nhưng bảng thống kê trên là
những hiện tượng thúc đẩy nhiều nhà thần học phản tỉnh lại "địa chỉ"
của Giáo hội trong lịch sử của Giáo hội vừa qua cũng như nêu lên những nhận xét
về Giáo hội trong tương lai. Trong những nhà thần học trên, chúng ta chú ý đến
ba người tiêu biểu nhất là: Karl Rahner, Johann Baptist Metz và Walter Buhlmann.
Cả ba ông đều có một nhận định như sau: "Giáo hội Công giáo đang đứng tước
ngưỡng cửa của một thời đại mới". Nói cách chung, đứng trên quan điểm lịch
sử Giáo hội, ba ông đều cho rằng Giáo hội Công giáo đang bước sang thời kỳ thứ
ba.
Trong giai đoạn đầu, tương đối
ngắn, Giáo hội sơ khởi phát triển từ Giáo hội Do Thái qua Giáo hội Cận Ðông để
trở thành Giáo hội Latin (Lamã). trong giai đoạn này, Giáo hội đã dần dần gọt
bỏ "chủ nghĩa Do Thái" để "bản vị hóa" (inculturation) qua
ảnh hưởng của nền văn hóa Hy Lạp. "Công Ðồng Jerusalem" và Thánh
Phaolô là những hình ảnh tiêu biểu của giai đoạn này: Giáo hội sơ khai đã gặp
phải những khó khăn do sự ngộ nhận là đồng hóa Giáo hội với một nền văn hóa và
tập quán của một dân tộc, nên khó cởi mở. Nhưng dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Linh cũng như do sự cương quyết của một số nhà truyền giáo như Phaolô,
Giáo hội đã tương đối thành công trong việc "bản vị hóa" chính mình.
Ðây là một bài học quí giá cho nhà truyền giáo sau này.
Ở giai đoạn thứ hai, Giáo hội
đã trở thành Giáo hội Tây phương. Mở đầu cho giai đoạn này là biến cố Hoàng Ðế
La mã Constantin đã qui hóa Kitô hữu, đưa Giáo hội từ một cộng đoàn chứng nhân
bị đàn áp trở thành một quốc giáo. Chúng ta không phủ nhận được đây là một thời
vàng son của giáo quyền, nhưng đồng thời cũng không thể không chú ý tới sự lu
mờ dần vai trò Giáo hội là Cộng đoàn Chứng nhân (Christianity) và thay vào đó
là một Ðế quốc Giáo (Christiandom). Theo đó Giáo hội khó tránh được những lúc
đồng hóa với thế quyền hay tranh chấp với thế quyền. Những kinh nghiệm đau
thương này không khỏi không ảnh hưởng tới những phương pháp giải quyết những
căng thẳng nội bộ và công cuộc truyền giáo sau này, nhất là khi phải đương đầu
với những vấn nạn do những nền văn hóa khác nêu ra. Tóm lại, vì coi mình là
"Xã hội toàn mỹ" và là "Bảo tàng Chân lý" (ở đây nếu phân
biệt rõ ràng lý thuyết và thực hành có lẽ sẽ tránh được nhiều hiểu lầm), nên
khó nhận được mức quan trọng của những nền văn hóa khác cũng như những nền tư
tưởng.
Giai đoạn ba, Giáo hội đang
trở thành Giáo hội Ðại đồng, hiệp nhất trong đa dạng. Giai đoạn này chính thức
bắt đầu với Công Ðồng Vatican II: Giáo hội nhận ra tầm mức quan trọng của mình
là "Ánh Sáng thế gian". Vì vậy, Giáo hội không thể sống
"ngoài" hay sống "trên thế gian được, nhưng phải sống
"giữa" những nền văn hóa khác nhau. Như vậy, Giáo hội nhập thể không
phải theo ý niệm "hai vương quốc" (thần thế) những là "bản vị
hóa" để những phần tử mình hiện hữu "giữa" thế gian hầu thánh
hóa thế gian. Trong giai đoạn Giáo hội đại đồng này, ba thần học gia vừa nêu
trên, mỗi người đều nhấn mạnh đến một khía cạnh khác nhau. K. Rahner vì quan
tâm cho Giáo hội tương lai, ông đã khẳng định niềm tin (như vấn đề giữa khoa
học tự nhiên và thần học, bàn về "status naturae lapsae...") hay có liên
quan tới giáo sĩ (độc thân, phụ nữ...) v.v.... mặc dù những thần học phản tỉnh
này có tính cách thảo luận hơn là đề nghị những giải đáp. Nhưng đàng khác ông
đã bộc lộ được những "giấc mơ" cho giáo hội tương lai, nhất là về
việc cải tổ cơ cấu Giáo hội, làm cho Giáo hội trở thành một "cộng
đoàn" thực sự. Còn ông J.B. Metz thì chủ trương đến khía cạnh thực tiển
nhiều hơn, nên ông không ngừng nỗ lực giúp Giáo hội Âu Châu phản tỉnh trở về
nguồn gốc mình đang "theo bước" (nachfolge). Vì mỗi người đều bước
theo Chúa nên trở thành một cộng đoàn hỗ tương, nhất là đối với những người cần
tương trợ, những người đau khổ. Giáo hội chỉ có thể thực hành được điều đó, nếu
Giáo hội biết sống "theo" và sống trong Ðức Kitô mà thôi, vì chỉ một
mình Ngài là nơi mà người tông đồ có thể nhận lãnh được những kinh nghiệm mầu
nhiệm ấy.
Trong khi đó, thần học gia W.
Buhlmann là một nhà tuyền giáo học, đặc biệt quan tâm đến vai trò các xứ truyền
giáo trong Giáo hội. Ông không ngần ngại nhấn mạnh: năm 2000 sẽ là những năm
thuộc về Giáo hội Truyền giáo. Nhưng vấn đề chính của Giáo hội trong tương lai
là những vấn đề đa dạng, nên không thể dùng quan điểm nhất dạng để giải quyết
được. Những vấn đề như "công lý", "bản vị hóa", "đối
thoại với những tôn giáo khác", "tục hóa"... được coi là những
vấn đề chính yếu trong Giáo hội tương lai. Tóm lại, dù có những quan tâm khác
nhau về tương lai của Giáo hội, nhưng cả ba nhà thần học đều công nhận rằng:
những suy nghĩ và những phản tỉnh này đều do Công Ðồng Vatican II khởi xướng và
chỉ dẫn. "Hành động khai phóng đối với cái nhìn đa dạng cần thiết về tôn
giáo cũng như về văn hóa là một nguồn mạch tuôn ra sức sống dồi dào cho Giáo
hội và cho khoa giáo hội học trong hơn 25 năm sau công đồng vừa qua. Hành động
này bắt nguồn từ một thái độ can trường của Thánh Phaolô để đối diện với mọi
hậu quả phát xuất từ những lãnh vực khác nhau trong đời sống Giáo hội, nhưng
đồng thời không phản bội đời sống đức tin đồng nhất và bản chất bất di dịch của
đức tin đó".
III. Ðường hướng
của Công Ðồng Vatican II
Ðường hướng của Công Ðồng
Vatican II là Kim Chỉ Nam của Giáo Hội hiện tại. Công Ðồng Vatican II là công
đồng thứ 21 của Giáo hội Công giáo. Chỉ cần đưa mắt so sánh ba công đồng cuối
cùng, chúng ta sẽ thấy ngay tính cách đặc thù của Công đồng Vatican II. Công
đồng Tridentinô được triệu tập để đối kháng với các phe Phái Tin Lành và đồng
thời cải cách nội bộ Giáo hội theo tiêu chuẩn: Giáo hội được trao trách nhiệm
để cứu rỗi các linh hồn. Còn Công đồng Vatican I được triệu tập để đối phó với
các phong trao duy lý, duy vật, phiếm thần và vô thần đang hoành hành trong tư
tưởng Âu Châu và lan dần vào xã hội. Công đồng này đã tuyên bố tính cách bất
khả ngộ của Ðức Giáo Hoàng. Hai công đồng này đều coi thế giới bên ngoài như
một đe dọa và lấy việc bảo vệ mình là quan trọng (Apology). Trong khi đó, Công
đồng Vatican II coi trọng sự hiện hữu của Giáo hội là "Ánh Sáng của trần
gian", nên một đàng kêu gọi mọi tầng lớp Dân Chúa tự phản tỉnh tìm lại
nguồn sống của mình là chính Ðức Kitô, nhờ đó mới có thể là Ánh Sáng được; đàng
khác cần tìm hiểu trần gian là nơi mình "soi chiếu" (phục vụ).
Trong quan điểm này, "hợp
thời hóa" (aggiornamento), "hiểu dấu hiệu của thời đại",
"đối thoại", v.v... đã nhấn mạnh đến sự quan tâm của Giáo hội đối với
trần thế. Nói tóm lại, Công đồng Vatican II là một công đồng "Mục Vụ"
hơn là bàn về những "tín điều" (mặc dù không thiếu những điều phản
tỉnh căn bản làm sáng tỏ tín điều, làm nền tảng cho công việc mục vụ), và luôn
quan tâm tới sứ mạng của mình là nhiệm tích của "trần gian" hơn là
hiện hữu cho chính mình: "Trung tâm sự hiện hữu của Giáo hội ở ngoài Giáo
hội". Giáo hội thực sự tìm lại ý nghĩa hiện hữu nguyên thủy: "được
sai đi" (nghĩa là truyền giáo). Sau đây chúng ta đề cập tới một số chi
tiết đặc biệt của Công đồng Vatican II đã ảnh hưởng tới việc phản tỉnh về cơ
cấu Giáo hội: đa dạng hóa trong hiệp nhất, phản tỉnh lý thuyết bắt đầu bằng
thực hành, hiệp thông trong đối thoại. Từ những đặc thù này, chúng ta khám phá
ra một trọng tâm hợp lý mới của cơ cấu Giáo hội: người tín hữu giáo dân.
Công đồng Vatican II là một
biến cố đầu tiên trong Giáo hội Công giáo đã quy tụ được số giáo phụ đông đảo
nhất (3,058 vị so với Công đồng Vatican I là 747 vị, và các công đồng trước còn
ít hơn nữa) từ khắp nơi trên toàn thế giới, gồm đủ mọi màu da và sắc tộc. Sự
đầy đủ cả "lượng lẫn phẩm" này đã nói lên tính cách đa dạng, và xác
tín về bộ mặt mới của Giáo hội. Từ đây Giáo hội Công giáo Lamã thoát thai trở
thành Giáo hội hoàn vũ: bên cạnh Ðức Giáo Hoàng là Thượng Hội Ðồng Giám Mục thế
giới bao gồm các Hội Ðồng Giám Mục các quốc gia. Vì Giám mục vừa là vị chủ
chiên giáo hội địa phương, và vừa được tái xác định là người kế vị của các
thánh Tông Ðồ, đã được Chúa Kitô chọn và sai đi. Việc xác nhận Cộng đoàn Giám
mục, không những trong thời họp Công đồng hay họp Thượng Hội Ðồng thế giới, là
nền tảng cho việc xác nhận các Hội Ðồng Giám Mục tại các quốc gia, và đồng thời
cũng chân nhận thực tại của giáo hội địa phương nữa. Sự kiện này quan trọng đến
nổi K. Rahner đã coi đó như là một góp phần quan trọng nhất và đầy hứa hẹn nhất
của Công Ðồng Vatican II.
Thực vậy, vai trò Giám mục là
quan trọng trong cơ cấu tổ chức, các ngài vừa hiểu biết vừa trực tiếp điều hành
Giáo hội đa dạng thuộc các địa phương khác nhau, nhưng đồng thời cũng chia sẻ
với Ðức Giáo Hoàng trong quyền kế vị các Thánh Tông Ðồ để hợp nhất Giáo hội
hoàn vũ. Chính tính cách hợp nhất trong đa dạng, phân công để hợp tác này đã
bộc lộ rõ ràng nhất khi kết thúc và ban sắc lệnh thực thi Công Ðồng Vatican II.
Khi Công đồng Vatican I kết thúc, Ðức Giáo Hoàng Piô IX đã dùng thể thức truyền
thống từ thời Trung cổ để lại: "sacro approbante concilio" với ấn ký
của ngài. Còn Công đồng Vatican II đã được kết thúc bằng một nghi thức chưa
từng có trong lịch sử Giáo hội Công giáo là: đầu tiên là lời nhắn nhủ và ban bố
của ÐGH Phaolô VI, sau đó là những Thông điệp ngắn nhưng súc tích do nhiều Hồng
Y, Giám mục đại diện nhiều quốc gia đồng soạn nhằm gởi đến các tầng lớp trên
khắp thế giới: từ giới trí thức, văn nghệ sĩ tới phụ nữ, dân lao động, cho tới
những người nghèo, bệnh hoạn và đau khổ, rồi cuối cùng là giới trẻ.
Nhắc tới một vài dữ kiện quan
trọng trên, chúng ta thấy rằng Công Ðồng Vatican II không những chỉ xác định
lập trường hay chủ trương hợp nhứt trong đa dạng, nhưng thực sự đã khai phóng
một đường hướng "thực hành thần học mới": lấy dấu hiệu thời đại làm
khởi điểm cho phản tỉnh thần học và mục vụ, rồi đưa ra những lý thuyết (tức là
những văn kiện) để hướng dẫn thực hành. Nếu nhìn lại những tài liệu ghi lại sự
thành hình của các văn kiện, và cuối cùng thành những hiến chế và sắc lệnh của
Công Ðồng, chúng ta sẽ thấy rõ đó là kết quả của các Tiểu Ban nổ lực thu thập
tài liệu, cộng thêm những tranh luận dựa trên những "dấu hiệu thời
đại" để hợp thời hóa.
Tóm lại, kết quả này được
thành hình là nhờ việc biết tổng hợp cả hành động lẫn lý thuyết vậy. Donal Kerr
đã ghi lại hình ảnh "đang xảy ra" ở tại Roma lúc đó: "Khung cảnh
sinh hoạt quan trọng chưa từng có: nhiều giáo phụ đồng loạt cùng nhau cắp sách
đến trường để học hỏi những vấn đề thần học mới, đàng khác nhiều nhà chuyên môn
được mời về Roma để lắng nghe và phát biểu ý kiến trong những phiên họp khoáng
đại... Roma đã thành một hiện trường hội nhập "phản tỉnh" hay ít nhất
là "lắng nghe" vấn đề thần học quan trọng. Nếu đường hướng thực thi
thần học này trở nên mẫu mực cho những cuộc hội họp khác thuộc phạm vi nhỏ hơn
như trong các địa phận hay xứ đạo, thì có lẽ giáo hội địa phương sẽ trở thành
sống động hơn nhiều, vì không những lý thuyết và thực hành trở thành một thực
thể bất khả phân, hơn nữa mỗi người tham dự đều tích cực đóng góp tùy theo phạm
vi "chuyên môn" của mình; đồng thời cũng nhận lãnh những linh cảm của
người khác. Kinh nghiệm "đặc biệt" quí giá của các giáo phụ phải là
mẫu mực mới (paradigm) của các cộng đoàn dân Chúa, thì việc hợp tác giữa các
tầng lớp mới thực thi đúng đường hướng của Công đồng được. "Sự liên quan
thực tại giữa thực trạng linh động và thực trạng xã hội nơi chúng ta phục vụ là
một nguồn mạch căng thẳng không ngừng trong thuyết lý giáo hội xã hội học và
trong chính cuộc sống của Giáo hội".
Công đồng Vatican II là một
Công đồng đầu tiên không có đề mục nào lên án tuyệt thông. Nét độc đáo trong
Giáo hội nói lên tính cách đặc thù chủ trương dùng đối thoại như là một phương
tiện cần thiết để hợp nhất Kitô giáo, cũng như liên lạc với các tôn giáo khác,
kể cả việc giao tiếp với những người vô thần. Nguyên tắc bình đẳng (par cum
pari) và tôn trọng lẫn nhau là điều kiện thiết yếu để có một cuộc đối thoại
chân chính. Ðể có tinh thần công đồng tính này (ecumenical), Giáo hội một đàng
chân nhận thân phận "hành hương" của mình, nên không từ chối chấp
nhận "ecclesia semper reformanda" (Hiệp nhất số 6), đàng khác khi tìm
hiểu cần phải tôn trọng chân lý cộng với lòng nhân hậu. Nếu về đối thoại, Công
đồng càng phải đề cao mối liên lạc giữa các cơ cấu và sự hợp tác giữa các chi
thể trong Giáo hội nhiều hơn. Lẽ đương nhiên, cần bàn sâu xa và phổ quát của
niềm tin thông hiệp trong đối thoại phải là sự hiện hữu của Thánh Linh hoạt
động trong và ngoài Giáo hội: "Giáo hội vững mạnh nhờ Thần Lực của Chúa
Phục sinh để toàn thắng các khó khăn và sầu muộn từ bên trong cũng như bên
ngoài bằng yêu thương với kiên trì và trung thành mặc khải cho thế gian mầu
nhiệm của Chúa còn giấu trong bóng tối, cho đến khi được phô bày dưới ánh sáng
vẹn toàn trong ngày sau hết" (Ánh Sáng trần thế số 8).
IV. Dân Chúa và cơ
cấu Giáo hội
Theo Y. Congar, Công Ðồng
Vatican II lúc đầu tiên bàn về Giáo hội đã đứng trên lập trường luật tính, coi
Giáo hội như là một "xã hội hoàn hảo" và một "xã hội có phẩm
trật" (societas inaequalis). Thực ra hai quan niệm này chỉ chung quy thành
một mà thôi, vì một xã hội có trật tự lớp lang mới là một xã hội hoàn hảo. Quan
niệm này (socieas perfecta) bắt nguồn từ lập trường triết học chính trị của
Aristoteles. Mặc dù Thánh Tôma Aquinô chỉ khai triển trên phạm vi dân sự, nhưng
về sau quan niệm này được dùng để chỉ trích và phê bình cơ cấu và hiến pháp dân
sự, nhất là sau cuộc cách mạng Pháp 1789. Nhưng chuẩn tắc để phê bình là gì? Là
một xã hội lý tưởng. Từ ÐGH
Grêgôriô XVI (1839) trở đi,
Giáo hội đồng hóa mình với xã hội lý tưởng này, vì Giáo hội có căn bản
"quyền thần" làm nền tảng hợp thức cơ cấu hiện hữu của mình. ÐGH Piô
IX đã kết án những ai coi Giáo hội không phải là xã hội chân thật và vẹn toàn,
là sai lầm (DS 2919). Từ Công đồng Vatican I trở về sau, Giáo hội hay xã hội hoàn
hảo này đã được đồng hóa với xã hội có phẩm trật (hierarchial) trong đó bao gồm
hàng giáo sĩ và phần còn lại là giới giáo dân.
Quan niệm trên đây được nhiều
nhà thần học coi như là giáo luật tính của giáo hội học mà Giáo hội cần phải có
để tồn tại cho tới kỳ thế mạt. Vì thế quan niệm này đã được đưa vào làm căn bản
trong các buổi thảo luận. Và ÐHY Montini (tức là ÐGH Phaolô VI) đã không ngần
ngại điều chỉnh lại quan niệm này vì quan niệm này có tính cách quá nhấn mạnh
về luật lệ hóa các cơ cấu của Giáo hội như sau: Giáo hội tự mình không thể làm
được gì cả, cả đến việc hiện hữu của Giáo hội và việc nhận lãnh những hồng ân
cũng đều do chính Ðức Kitô ban cho mà thôi vì Ngài vẫn còn tiếp tục hoạt động
trong Giáo hội luôn. Khi nhấn mạnh Ðực Kitô làm trung tâm, Giáo hội hiện hữu
như là một "mầu nhiệm" (mystery) hơn là một thực thể chỉ đơn thuần
thống nhất nhờ nguyên tắc lề luật mà thôi. Từ quan niệm này, ngày 5.12.62, Ðức
Montini đã đề nghị xin các giáo phụ quan tâm nhiều hơn tới cộng đoàn các Thánh
Tông đồ là căn nguyên của các cộng đoàn Giám mục. Tóm lại, vì Ðức Kitô là trung
tâm của Giáo hội, Giáo hội hiện hữu là một mầu nhiệm tham dự Huyền Nhiệm Chúa
Ba Ngôi.
Danh từ "Hiệp Thông"
đã trở thành "chìa khóa" mở cửa vào khoa giáo hội học của Công Ðồng
Vatican II và cả cho thời hậu Công đồng nữa. Nói cách khác, Giáo hội là một
cộng đồng Dân Chúa, trong đó mỗi người tín hữu đều được kêu gọi để sống hiệp
thông trong nhiệm vụ của mình như một thành phần của Nhiệm Thể để sinh hoa kết
quả và nhờ đó thánh hóa trần gian trong môi trường mình sống. Chính vì Giáo hội
hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, nên Giáo hội đã nhận ra được Thiên Chúa muốn dùng
mình và qua mình để cứu độ trần thế: Giáo hội hiện hữu là kết quả của ơn cứu
chuộc và đồng thời là lịch sử của ơn cứu chuộc. Trong ơn thông hiệp này, Giáo
hội là "bí tích của trần gian", là "dấu chỉ" và đồng thời
"thực hiện" mầu nhiệm hiệp thông giữa con người và Thiên Chúa và giữa
con người với nhau. Thực vậy, Giáo hội là "dấu chỉ" và đồng thời là
"dụng cụ" Chúa dùng nữa. Hai khía cạnh này bất khả phân và luôn bổ
túc cho nhau.
Nhờ hiểu biết Giáo hội là mầu
nhiệm hiệp thông này mà chúng ta có thể thoát được ba chiều hướng giải thích
lệch lạc về Công đồng Vatican II, hoặc coi Công đồng Vatican I và II là hai
thực hữu đối nghịch nhau, hoặc dùng một trong hai lập trường như là "tín
điều" để phủ nhận lập trường khác, hoặc công nhận sự căng thẳng giữa hai
lập trường, nhưng muốn dùng viễn ảnh tương lai (utopic), tỷ dụ như trong hiệp
nhất như một thực tại sống động và hiệp thông thì những lập trường lý thuyết
không thể hạ giá thực hữu được, tức là mỗi tín hữu đều có chỗ đứng của mình và
chỗ đó là nơi ưu tiên cần mình phục vụ Chúa trong Giáo hội và trong thế gian.
Mỗi người đều là phần tử của Dân Chúa vậy.
Chương II của Hiến chế về Giáo
hội đề cập tới "Dân Thiên Chúa", là điểm tựa để chúng ta giải thích
cho đúng và sứ mạng của giáo dân trong Giáo hội: qua phép Rửa, mỗi người tín
hữu đều là "dòng dỏi được tuyển chọn, thành hàng tư tế vương giả và dân
tộc thánh", là con Thiên Chúa nhưng được sinh ra bởi con người, và Thánh
Thần ngự trong tâm hồn họ như trong Ðền Thờ vậy. Dân tộc thiên sai này là
"mầm mống của hiệp nhất", được Chúa Kitô thiết lập để "thông dự
vào sự sống, bác ái và chân lý", được người xử dụng như "khí cụ cứu
rỗi mọi người" được sai đi khắp thế gian như "Ánh sáng trần gian và
muối đất". Như vậy theo chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa, Giáo hội
hiện hữu như một "sứ giả", như một "khí cụ" của ơn cứu rỗi,
đang lữ hành trong thời đại này để tìm về Ðất Hứa. Bởi thế, Nước Chúa mới là
phạm trù cánh chung, còn Giáo hội phục vụ có phẩm trật chỉ là "phương
thế" để đạt tới biến cố cánh chung này. Trong ý nghĩa này, mỗi tín hữu đều
là anh em trong Ðức Kitô, đều đồng chia sẽ mầu nhiệm hiệp thông.
Hơn nữa, vì Giáo hội hiện hữu
không phải vì mình và cho mình, nhưng như là "dụng cụ" của ơn cứu
rỗi, như là muối đất... thì người giáo dân chiếm một chỗ rất đặc biệt, nếu
không muốn nói là rất quan trọng và khó khăn nhất trong sứ mạng của Giáo hội:
trực tiếp thánh hóa trần gian. Nếu Giáo hội hiện hữu giữa trần gian phần lớn do
giáo dân, lẽ đương nhiên là họ có quyền đòi hỏi cần được lắng nghe, nhất là
trong những phạm vi họ có thẩm quyền, như những vấn đề liên quan đến đời sống
hôn nhân, gia đình, thái độ của người Kitô hữu giữa thế gian... Sự hiệp thông
chân chính không thể đơn phương "thi hành điều quyết định" được,
nhưng là đa phương linh động, nhứt là giáo dân cần được huấn luyện để chủ động
tham gia vào những đồ án có liên quan tới cuộc sống của họ hay cho thực hiện
những đồ án đó. Ðòi hỏi hợp lý này không phải là chối bỏ hay là đối chất quyền
uy phẩm trật, nhưng là lưu ý Giáo hội nhận rõ mức độ ưu tiên rong sứ mệnh việc
thánh hóa trần gian, cũng như cố gắng thánh hóa chính mình cũng là một khía
cạnh quan trọng khác của sứ mạng truyền giáo này. Nói cách khác, nếu người giáo
dân không thể nhận thức được vai trò chủ động trong phạm vi của mình, cũng như
nếu Giáo hội phẩm trật không ý thức sự hiện hữu của mình là nhằm giúp đỡ và
phục vụ cho giáo dân hơn là để cai quản hay ban chỉ thị, thì làm sao sứ mạng
"truyền giáo" tiến hành đúng mức được?
Chính vì vai trò của người
giáo dân quan trọng như thế, mà ÐGH Gioan Phaolô II đã đề nghị Thượng Hội Ðồng
Giám Mục Thế Giới 1987 đặc biệt bàn về vấn đề "người giáo dân" và
chính ngài đã dùng Tông Huấn "Người Tín Hữu Giáo Dân" để diễn đạt
mạch lạc và trung thực lập trường của Thượng Hội Ðồng. CÐ Vatican II đã mô tả
người giáo dân theo hai khía cạnh: tiêu cực và tích cực. Theo khía cạnh tiêu
cực, giáo dân là tất cả các Kitô hữu "không thuộc thành phần có chức thánh
hay bậc tu trì". Theo khía cạnh tích cực, người giáo dân là những người
thi hành sứ mệnh của toàn dân Kitô hữu "trong giáo hội và giữa trần gian
theo nhiệm vụ riêng của mình" (L.G.31). Vì hai khía cạnh mô tả trên mà
nhiều người đã đặt vấn đề: vai trò của giáo dân chỉ là hình ảnh tiêu cực của
giáo sĩ hay tu sĩ mà thôi sao? Trả lời câu hỏi này, Tông Huấn đã khẳng định rõ
ràng: "người giáo dân hoàn toàn thuộc về Giáo hội và thuộc về Mầu Nhiệm
của Giáo Hội" (số 9). Họ, qua phép Rửa, đã trở thành kẻ "tham gia theo
cách thế của mình vào chức vụ tư tế, chức vụ rao giảng Lời Chúa và chức vụ
Vương Giả của Chúa Kitô" (ibid). Tông Huấn đã dùng hình ảnh Ðức Piô XII
giáo dân để diễn đạt "tham gia theo tính cách của mình": họ là những
kẻ "đứng ở mặt trận tiền phong trong cuộc sống của Giáo hội; nhờ họ, Giáo
hội được trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội loài người".
Như vậy, định nghĩa của người
giáo dân đã gạt bỏ được sự phân chia tiêu cực và tích cực, đàng khác ý nghĩa
của người giáo dân hiện hữu không còn phân ly thành "đơn thuần thần học
tính" hay "thuần túy xã hội tính", nhưng là ý nghĩa hiện hữu của
Giáo hội giữa trần gian: "Vị thế của người tín hữu giáo dân trong Giáo hội
được minh định rõ ràng từ gốc rễ, bắt nguồn từ sự mới lạ của đời sống Kitô hữu
và đặc tính thế tục" (số 15). Tính cách thế tục không khác gì hơn là tiếp
tục sứ mệnh của Ngôi Lời Nhập Thể, là đích thân chia sẻ tình nhân loại:
"Ngài đã trao phó trần thế này cho con người cả nam lẫn nữ để họ tham gia
vào việc tạo dựng, để họ giải thoát thọ tạo khỏi ảnh hưởng của tội lỗi, để họ
tự thánh hóa mình trong địa vị hôn nhân, hoặc độc thân, trong gia đình, trong
chức nghiệp và trong các hoạt động xã hội" (số 15; propositio 4).
Hiểu rõ ơn gọi và sứ mệnh của
tín hữu giáo dân, chúng ta cũng hiểu được ý nghĩa toàn diện của Giáo hội là một
sự hiệp thông có cơ cấu, hiện hữu trong khác biệt nhưng luôn bổ túc: "Mọi
phần tử của Giáo hội có những ân sủng của Thánh Thần ban khác nhau theo phẩm
trật và ơn đoàn sủng (charismen) để Giáo hội hiệp thống nhất trong hiệp thông
và phục vụ: sự hiệp thông là điều kiện thiết yếu để sinh hoa trái (Jn 15,1-16),
như cành hiệp nhứt với cây nho mới có thể sinh hoa trái được. Ngược lại hoa
trái là kết quả hữu hình của sự hiệp thông. Và Giáo hội được sai đi để sinh hoa
kết quả. Trong sự liên đới mật thiết này, chúng ta hiểu thấu được Hiệp Thông
giữa các Thừa Tác Viên và các tín hữu giáo dân, giữa hồng ân bí tích và ơn đoàn
sủng, giữa giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ, giữa giáo xứ và cá nhân
Kitô hữu. Tóm lại, giữa thánh hóa (sanctitas) và truyền giáo (missio) mà mỗi
tín hữu đều được gọi và sai đi theo cách thế của mình giữa trần gian. Sau đây
là một vài lời trích dẫn được các Giám Mục hay Hồng Y lặp lại trong Thượng Hội
Ðồng, hay được chính ÐGH trích dẫn trong Tông Huấn, đáng cho chúng ta lưu ý;
"Ðối với anh em, tôi là giám mục, cùng với anh em, tôi là tín hữu"
(Augustinus); "ích lợi của mọi người" (diễn đạt Kinh Tin Kính);
"trong Giáo hội, mọi người lo nâng đỡ các người khác và các người khác lo
nâng đỡ từng người" (Gregorio Cả).
Kết luận
Qua phép Rửa tội và phép Thêm
sức, tất cả Kitô hữu, dù là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, đều được Chúa gọi
thành Dân Chúa để thực hiện sứ mệnh mà Chúa đã truyền giáo cho Giáo hội, là dấu
chỉ của Nước Chúa thống trị hầu trở thành dụng cụ Chúa dùng để thánh hóa thế
gian cho đến ngày Chúa lại đến. Như vậy, Giáo hội thánh hóa mình làm
"men", làm "ánh sáng" cho muôn dân, do đó Giáo hội không
hiện hữu cho mình và vì mình nhưng vì tha nhân: trung tâm của Giáo hội ở ngoài
mình. Nhiệm vụ chính của Giáo hội là "truyền giáo".
Ðể đạt được thực thể sống động
này, chúng ta có thể dùng nhiều mô hình và mỗi mô hình nhấn mạnh đến một khía
cạnh quan trọng nào đó, nhưng chính vì thế mỗi mô hình cần sự bổ túc của các mô
hình khác (16). Tỉ dụ mô hình Giáo hội là một "cơ câu" nhằm diễn đạt
Giáo hội là một "xã hội hoàn toàn". Trọng tâm của phẩm trật hoặc đặt
ở địa vị thừa kế của Thánh Phêrô như Công đồng Vatican I, hay ở cộng đoàn thừa
kế các Tông đồ mà Phêrô là đại diện như Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh. Ưu
điểm của mô hình này là làm nổi bật Truyền Thống và Tông truyền. Bao lâu Giáo
hội còn là dụng cụ ban phát ơn thánh thì mô hình cơ cấu này mới còn giữ được
vai trò quan trọng. Dẫu vậy, Giáo hội hiện hữu trong cơ cấu không nhứt định
phải nhận chủ nghĩa cơ cấu, có phẩm trật không nhứt định phải nhận chủ nghĩa
pháp luật cũng như giáo lý không phải là giáo điều. Bởi vậy mô hình này phải
được đi đôi với mô hình Giáo hội là "Tôi tớ" (diaconia).
Mô hình Giáo hội là Tôi tớ
diễn đạt cùng đích của Giáo hội hiện hữu: vì tha nhân và cho tha nhân. Hình ảnh
người Samaritanô nhân hiền đối với tha nhân, nhất là những người bị hà hiếp,
đau khổ, nghèo nàn... nói lên sứ mạng của Ðức Kitô: Người đến để phục vụ, chứ
không phải để được người khác phục vụ. Như vậy trần gian trở nên môi trường và phương
thế cho ơn kêu gọi Kitô hữu nói chung và cho người tín hữu giáo dân nói riêng.
Trong mô hình này, người giáo dân có một địa vị đặc thù: họ là những chứng nhân
thường xuyên và trực tiếp giữa trần gian. Vì sứ mạng của họ thật cao cả, bất
khả thay thế và đầy khó khăn nên cần sự "trợ giúp" và sự "cộng
tác" của các "thừa tác viên" trong phẩm trật Giáo hội. Như vậy,
giáo dân là hiện thân Giáo hội phục vụ giữa trần gian, thì các thừa tác viên là
"tôi tớ của các tôi tớ" (servi servorum Dei).
Hai mô hình trên nhấn mạnh đến
hai khía cạnh quan trọng của Giáo hội hiện hữu: nguồn gốc (theo lịch sử tính)
và cách chung của Giáo hội hiện hữu cần được một mô hình khác bao dung và liên
kết, đó là: Giáo hội như một Huyền Nhiệm Hiệp Thông. Ở đây bao quát những khía
cạnh như Giáo hội là Bí tích, là người rao giảng. Giáo hội Hiệp Thông nói lên
nguồn gốc càng thâm sâu của Giáo hội: Chúa Ba Ngôi, và đồng thời cũng diễn đạt
được cùng đích của Giáo hội, đang và sẽ được các tín hữu nỗ lực thực hiện trong
mỗi thời đại của mình: Nước Chúa thống trị. Như vậy chúng ta hiểu được tại sao
trong Tông Huấn, Ðức Thánh Cha từ đầu tới cuối đều dùng những cách thế khác
nhau để nói lên tâm tình của “Người chủ vườn nho": "Các ông cũng thế,
hãy đi vào làm vườn nho cho Ta". Lời mời gọi nhiều khi thành những lời
cảnh tỉnh: "Tại sao các ngươi đứng đây suốt ngày mà chẳng làm gì?".
Lời mời gọi, lời cảnh tỉnh không ngoài mục đích nói lên sứ mệnh của toàn dân
Chúa và vai trò đặc biệt của người giáo dân trong Giáo hội và giữa trần gian là
"truyền giáo" vậy.
Lm.
Vũ Kim Chính, SJ