BÀI HUẤN LUYỆN HÀNG THÁNG CỦA ÚY BAN GIÁO DÂN (BÀI 15)
PHẦN TU ĐỨC
TÂM THẾ ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (Lc 14,1.7-15)
Chứng kiến anh em ông Gia-cô-bê và
Gio-an xin được ngồi bên tả và bên hữu Đức Giêsu, các môn đệ đâm ra tức tối. Đức
Giêsu đã sửa dạy các ông và cho các ông thấy đâu là tâm thế ứng xử của các môn
đệ người: “anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy
mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa
anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người
phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. vì con
người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng
sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10,42-45). Làm người phục vụ anh em,
nghĩa là ưu tiên quan tâm nhu cầu của anh chị em hơn nhu cầu của bản thân. Viễn
tượng của Đức Giêsu về người lãnh đạo như thế có thể gây sốc cho chúng ta, những
thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ, nhất là trong hoàn cảnh ngày nay, khi người
ta bận tâm tìm kiếm chỗ ngồi, địa vị, quyền lực, và lợi ích cho bản thân mình
hơn là tìm cơ hội khiêm tốn phục vụ.
Khi Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà
một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu, người ta “cố dò xét Người” (Lc 14,1),
nhưng thật ra khi đó, chính Đức Giêsu đang quan sát cách họ ứng xử với nhau;
Người “nhận thấy” họ cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên đã khuyên nhủ họ qua dụ
ngôn. Thế nhưng lời khuyên dành cho khách dự tiệc dường như chẳng có gì đặc biệt,
bởi theo phong tục người Do Thái, người chủ tiệc không dành riêng một số ghế
cho các vị khách quan trọng hay các bậc vị vọng, cũng không có nhóm tiếp tân hướng
dẫn khách mời vào các chỗ dành riêng; quan khách phải tự căn cứ vào địa vị bản
thân mà chọn chỗ ngồi thích hợp. Vậy nên, cách ứng xử ngôn ngoan là đừng ngồi
vào chỗ quan trọng nhất, tránh phải nhường chỗ và phải “mất mặt”, thay
vào đó, hãy chọn chỗ khiêm tốn hơn, để sau đó có thể được hãnh diện và vinh dự
khi được mời công khai lên vị trí quan trọng hơn. Hẳn là mỗi người có thể tự
đúc kết kinh nghiệm để biết cách ứng xử khôn ngoan như thế.
Trong khi lời khuyên dành cho
khách dự tiệc dường như không có gì đặc biệt, thì lời khuyên dành cho chủ tiệc
lại thật sự lạ thường: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời
bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông,
và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người
nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới
thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc
14,12-14). Chắc hẳn lời khuyên của Đức Giêsu dành cho khách dự tiệc không thể
được hiểu ở mức độ khôn khéo thông thường, nhưng cần được hiểu trong viễn tượng
bữa tiệc nước trời: “Phúc thay ai được dự tiệc Nước Thiên Chúa!” (Lc 14,15).
Thật vậy, ai trong chúng ta có thể
tự căn cứ vào địa vị bản thân để chọn chỗ cho mình trong Tiệc Nước Trời? Có chỗ
trong Tiệc Nước Trời là một đặc ân nhưng không Thiên Chúa chuẩn bị sẵn cho mỗi
người chúng ta. Trong viễn tượng Nước Trời, chúng ta đều nghèo hèn và lỗi tội,
như thánh Phao-lô nói, trong Đức Ki-tô không có phân biệt giữa nam và nữ, giữa
Do Thái và Dân Ngoại, giữa người tự do và người nô lệ. Chúng ta trở nên giống
nhau trong thân phận, trong phẩm giá và ân sủng. Đó chính là chỗ nhất của mỗi
người chúng ta. Chính trong viễn tượng nước trời, chúng ta nhận ra tâm thế ứng
xử của người môn đệ Đức Giêsu, đó là phục vụ cách nhưng không: “Anh em đã được
cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8).
Hồi tâm.
1/ Tôi trải nghiệm thế nào trong vai
trò lãnh đạo cộng đoàn?
2/ Là thành viên Hội đồng mục vụ
giáo xứ, có khi nào tôi không được cư xử tương xứng, thiếu tôn trọng? Khi đó,
tôi cảm nghĩ thế nào và ứng xử ra sao?
3/ Khi nghĩ đến cung cách lãnh đạo phục
vụ như Đức Giêsu mời gọi, tôi thường nghĩ đến điều gì, nhớ đến ai? Ai từng làm
gương cho tôi về cung cách lãnh đạo phục vụ?
Lm. Toma Vũ
Ngọc Tín, SJ.
Phần IV: GIÁO
DÂN TRONG CHIẾU KÍCH RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO THẾ GIỚI
CÁC CÔNG TÁC
TIN MỪNG HÓA CẤP BÁCH:
CHÍNH TRỊ –
KINH TÊ – LAO ĐỘNG
“Như Cha đã sai con đến thế
gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình
con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.” (Ga 17:18-19)
Ki-tô hữu nói chung, và giáo dân
nói riêng, thực hiện ơn gọi Ki-tô hữu của riêng mình qua việc sống Tin Mừng
ngay giữa lòng thế giới hôm nay. Họ cảm thấy cấp bách phải làm dậy lên sức mạnh
muối men và ánh sáng của Tin Mừng, hầu ướp mặn và soi sáng những nguyên lý hiện
chi phối các sinh hoạt của thế giới con người, trong đó, hơn bao giời hết, nổi
bật hai lãnh vực quan trọng là chính trị và kinh tế. Hai lãnh vực này nhất thiết
cần phải được Tin Mừng mau chóng giải thoát khỏi bị chi phối bởi dục vọng do
lòng tham vô đáy của con người gây nên. Đây chính là nguyên nhân của mọi chia rẽ,
mọi tranh chấp và chiến tranh trong chính trị, cũng như mọi bóc lột và bất công
trong hoạt động kinh tế đang hoành hành trên thế giới hôm nay.
1/ Nhận thức tầm quan trọng
của chính trị
Chính trị, trong ý nghĩa và nội
dung tinh ròng của nó, chính là đường hướng sinh động các trật tự trần gian của
tập thể con người, hòng phục vụ cho cá nhân, gia đình và tập thể xã hội như quốc
gia dân tộc cách hữu hiệu nhất. Đó là khía cạnh ‘đời công’ của con người,
và liên quan tới nhiều lãnh vực như kinh tế, trật tự công cộng, luật pháp, hành
chính và văn hóa v.v…, theo hướng làm thăng tiến cách có tổ chức lợi ích chung
- cũng được gọi là ‘công ích’. Mọi Ki-tô hữu nói chung, và giáo dân
cách riêng, nhân danh những đòi hỏi của Tin Mừng, không thể nào sao lãng bổn phận
tham gia vào các hoạt động chính trị và kinh tế, nhất là trong thế giới và xã hội
hôm nay (xem CFL số 42). Công Đồng Va-ti-can II thậm chí đã nhiệt liệt biểu
dương sự tham gia này, và coi đó như nét chuyên biệt của người giáo dân Ki-tô
hôm nay: “Hội Thánh coi công việc của những ai dấn mình vào các việc công
ích của quốc gia, và chấp nhận những lao nhọc nặng nề của công tác này, tới
tinh thần phục vụ tha nhân, là rất đáng khen ngợi” (GS số 75).
Điều này cần được mọi phần tử Hội
Thánh ngày nay đặc biệt lưu tâm, vì đã có một thời, người ta coi chính trị như
một lãnh vực mà bất cứ Ki-tô hữu thuần khiết nào cũng cần xa lánh. Nhiều người
quan niệm rằng giữ đạo (đồng hóa với việc sống Tin Mừng) là chuyện hoàn toàn
riêng tư, không liên quan gì tới lãnh vực công hay chính trường, vì đây là hố
sâu phản Tin Mừng nguy hiểm nhất, đầy dẫy những thủ đoạn phi nhân. Chính vì lẽ
đó mà ngày nay, các Ki-tô hữu càng phải thay đổi não trạng tự tách biệt, để biết
tích cực dấn mình vào các hoạt động phục vụ công ích, đặc biệt là quan tâm và
tham gia chính trị, hầu làm thay đổi bộ mặt xã hội con người. Hơn bao giờ hết,
Hội Thánh thời hậu Va-ti-can II mong ước các Ki-tô hữu giáo dân thoát ra khỏi
thái độ hoài nghi cũng như lãnh đạm đối với chính trị và kinh tế. Họ hoàn toàn
không được phép từ chối tham gia sinh hoạt chính trị, vịn cớ rằng chính trị là
môi trường nguy hiểm cho luân lý và lương tâm… Hơn thế nữa, họ còn phải xác tín
rằng: chính trị chính là lãnh vực cống hiến cho mình môi trường phục vụ Tin Mừng
sâu xa và hữu hiệu nhất.
2/ Các tiêu chuẩn Tin Mừng soi dẫn
Được soi sáng và thúc đẩy bởi Tin
Mừng tình yêu của Đức Ki-tô, mọi Ki-tô hữu, trong thái độ cũng như trong tham
gia chính trị, đặc biệt chính trị đảng phái, đều cần lưu ý tới các tiêu chí sau
đây :
1/ Chính trị chân chính phải
luôn nhằm phục vụ con người và xã hội, phải có ý hướng chắc chắn là tích cực bảo
vệ và cổ súy cho nền công lý và hòa bình mọi nơi.
2/ Mọi sử dụng quyền hành
trong chính trị đều phải đặt nền tảng trên tinh thần phục vụ (cũng được gọi là ‘công
ích’). Đây là điều kiện cơ bản giúp cho các hoạt động của những ai tham gia
chính trị, nhất là chính trị đảng phái, được luôn ‘trong sáng’ và ‘liêm khiết’.
3/ Phải ý thức rằng: tình
liên đới sẽ là phương thế duy nhất để thực hiện một nền chính trị chân chính,
hướng đến phát triển và tiến bộ đích thực của con người và xã hội. Hơn bao giời
hết, trong bối cảnh thế giới hôm nay, sự liên đới phải được thể hiện trong
chính trị trên bình diện ngày càng rộng lớn hơn, nhiều khi vượt ra khỏi lằn
ranh của gia tộc, địa phương hay quốc gia, để tiến tới bình diện đa quốc mang tầm
cỡ thế giới, hầu xây dựng được một nhân loại đại đồng hòa bình và phát triển.
Để làm được điều đó, Hội Thánh
luôn nhắc nhở các Ki-tô hữu rằng: họ cần tôn trọng tính cách độc lập của các thực
tại trần thế, đồng thời cũng biết làm chứng cho những giá trị đích thực của Tin
Mừng, những giá trị luôn hướng tới việc nâng cao phẩm chất của từng con
người và toàn xã hội. Trong mọi dấn thân trần thế, nhất là trong lãnh vực chính
trị và kinh tế, các Ki-tô hữu giáo dân cần biết áp dụng cách khôn ngoan và sáng
tạo Học thuyết Xã hội của Tin Mừng đã được Hội Thánh đề xuất. Họ cần học hỏi,
thấu triệt, và khôn ngoan ứng dụng học thuyết này vào những hoàn cảnh đa diện
và phức tạp của môi trường sống mình.
3/ Tin Mừng hóa lãnh vực kinh
tế
Một trong cácg mục tiêu của đời sống
con người mà chính trị cần giải quyết là: làm sao thăng tiến được lãnh vực kinh
tế của mỗi người và của toàn xã hội. Đây là lãnh vực mà thế giới hôm nay đang
có những phát triển nhanh chóng vượt bậc, đồng thời cũng tiềm tàng không ít những
bất bình đẳng và bất công to lớn. Trong khi hướng tới mục tiêu gia tăng của cải
vật chất nhằm phục vụ đời sống con người và xã hội tốt hơn, chính kinh tế lại dễ
bị chi phối bởi những nguyên tắc phi đạo đức, sao lãng (thậm chí còn chống lại)
phẩm giá đích thực và những giá trị sâu xa nhất của con người và xã hội. Chính
vì lẽ đó mà Tông huấn Ki-tô hữu Giáo Dân, dựa trên đường hướng
đã được Công Đồng Va-ti-can II vạch ra (xem GS số 63), đã mạnh dạn lên tiếng
như sau: “Ngay trong đời sống kinh tế xã hội, phẩm giá cũng như ơn gọi toàn
diện của con người và lợi ích của toàn thể xã hội cũng phải được tôn trọng và
thăng tiến. Vì con người là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời
sống kinh tế và xã hội.” (CFL số 43)
Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô
II, khi công bố Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis, đã nêu lên một số nguyên tắc
Tin Mừng cơ bản, một số những công việc cụ thể cần làm, và một thái độ căn bản
mà người Ki-tô hữu cần có, khi tiến hành các hoạt động kinh tế và lao động (xem
các số 38-39),:
1/ Thiên Chúa ban tặng các của
cải trên mặt đất cho tất cả và cho từng con người; nói cách khác, mọi của cải đều
mang tính phục vụ và xã hội
2/ Quyền tư hữu có chức năng
tiên quyết là phục vụ từng con người và xã hội; không ai được phép sử dụng quyền
này mà tách nó ra khỏi mục tiêu phục vụ
3/ Lao động là quyền lợi và bổn
phận của mọi công dân trong xã hội, bất luận là nam hay nữ. Tự nó, lao động tiềm
tàng những giá trị to lớn nâng cao con người và xã hội, vượt lên trên cả những
giá trị và lợi ích thuần kinh tế.
4/ Nhiệm vụ cấp bách của Ki-tô hữu
giáo dân trước vấn đề lao động
Kể từ cuộc bùng nổ cách mạng kỹ
nghệ vào giữa thế kỷ XIX, vấn đề kinh tế và lao động không ngừng chuyển biến để
trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn thế giới hôm nay. Đứng trước những
chuyển biến phức tạp đang diễn ra trong lãnh vực lao động và kinh tế, mà hậu quả
của chúng là liên tục đảo lộn cuộc sống con người và xã hội, Ki-tô hữu giáo dân
chúng ta cần có nhận thức rằng: Hội Thánh thời hậu Va-ti-can II đang trao vào
tay mình những trọng trách rất lớn hòng cải tạo thế giới, đó là:
1/ Ki-tô hữu (đặc biệt giáo
dân) phải là những người tiền phong tìm mọi cách giải quyết các vấn đề của nạn
thất nghiệp đang gia tăng; vừa bảo đảm tiến bộ trong lao động sản xuất, lại vừa
duy trì được phẩm giá của người lao động khi tạo nên những sản phẩm hữu ích.
2/ Họ cũng phải không ngừng đấu
tranh để chống lại vô vàn những bất công phát sinh từ những cơ chế phi nhân
trong lao động và sản xuất.
3/ Họ còn phải nỗ lực biến
nơi làm việc thành một môi trường sống hiệp thông mang tính cộng đoàn, nơi mỗi
con người đều có quyền tham gia, và nhân phẩm được tôn trọng. Trong cộng đoàn
lao động này, họ sẽ nỗ lực phát huy những mối liên đới mới mẻ và bền chặt giữa
những con người cùng chung tay làm việc, hầu tạo nên một hình ảnh sống động của
một xã hội đoàn kết và yêu thương.
4/ Họ còn phải nỗ lực sáng tạo
những hình thức sản xuất kinh doanh mới để thúc đẩy tiến bộ, thông qua những
trao đổi kỹ thuật cởi mở đầy tương tác; đồng thời không ngừng duyệt xét lại các
hệ thống thương mại và tài chánh, hầu xóa bỏ tối đa những bất bình đẳng và bất
công dễ dàng xảy ra.
Tóm lại, Tông Huấn minh định thái
độ tích cực của Ki-tô hữu giáo dân trước các vấn đề kinh tế và lao động như
sau: “Họ phải chu toàn công việc của mình với khả năng nghề nghiệp chuyên
môn, với tính liêm khiết của con người, và với tinh thần Tin Mừng như là phương
tiện để thánh hóa chính mình” (CFL số 43).
Như thế, ta có thể không chút hổ thẹn
khẳng định rằng: chính qua lao động, hoạt động kinh tế và tham gia chính trị mà
các Ki-tô hữu giáo dân tìm được cho mình con đường sống Tin Mừng và thánh hóa bản
thân. Chúng ta mơ ước sớm có được những diện mạo Ki-tô hữu giáo dân như thế, hầu
có thể giới thiệu cho nhân loại biết về các giá trị tích cực của Tin Mừng có khả
năng dẫn dắt thế giới hôm nay đi đúng đường.
Câu hỏi gợi ý:
1/ Là người Ki-tô hữu Việt Nam, chúng
ta có ý thức gì về trách nhiệm chính trị của mình đối với tổ quốc và đồng bào của
mình không? Nói cách khác, chúng ta có chứng minh được rằng: các giá trị Tin Mừng
là rất cần thiết cho sự phát triển lâu bền của đất nước chúng ta hay không?
2/ Thái độ của bạn đối với
lao động nói chung, và công việc làm ăn của mình nói riêng, có được các nguyên
lý Tin Mừng về nhân văn và liên đới soi dẫn không? Nói cách khác, tiêu chuẩn
Tin Mừng có hướng dẫn bạn trong việc lựa chọn công ăn việc làm không?
Lm Gioan Nguyễn
Văn Ty, SDB
PHẦN QUẢN TRỊ
MỤC VỤ
MƯỜI MÔN ĐỆ
KIA TỨC TỐI...
“Nghe vậy, mười
môn đệ kia tức tối với hai anh em đó”. (Mt 20,24)
Dẫn vào
Theo tâm lý học, một trong những
cách thức hỗ trợ việc nhận định tâm tính vốn khá phức tạp của con người là phân
chia tính tình con người thành ba loại: (1) phân loại A (aggressiveness: sự
hung hăng, khẳng định mạnh mẽ); (2) phân loại B (balance: sự quân bình, thích ứng
hài hòa); (3) phân loại C (can: cái hộp kim loại, khả năng chứa đựng). Sự thành
công hay thất bại của ai đó theo từng phân loại có thể được điều chỉnh nhờ hiểu
biết tính khí bản thân mình thuộc phân loại nào, thường có khuynh hướng ứng xử
như thế nào.
Thật vậy, nhớ lại nội dung ba bài
viết liền trước bài viết này, chúng ta có thể nói: nếu muốn ngồi bên hữu hay
bên tả của Thầy Giê-su là khuynh hướng tự nhiên của hầu hết mọi người thì rõ
ràng nên xếp hai anh em “con ông Dê-bê-đê” và cả bà mẹ của hai anh em này vào
Phân loại A,[1] với
ý thức những vị này sẽ phải trải qua việc đón nhận những thực tiễn “uống chén đắng”
của Phân loại C,[2] trong
khi đó, ai cũng cần phải nỗ lực vượt qua chính mình, và đạt đến sự ổn định của
Phân loại B.
Theo đó, chủ đề “Nghe vậy, mười
môn đệ kia tức tối với hai anh em đó” (Mt 20,24) của bài chia sẻ lần này
có thể giúp quý chức các hội đồng hội đoàn giáo xứ suy nghĩ nhiều hơn về vai
trò phục vụ của mình, như chính các tông đồ, các môn đệ… noi gương tinh thần
yêu thương phục vụ hết mình của Thầy Giê-su năm xưa.
Nghe vậy...
Khá nhiều các tông đồ, các môn đệ
của Thầy Giê-su năm xưa thuộc Phân loại A một cách rõ ràng: hăng hái, quyết
đoán, cạnh tranh, táo bạo, chạy đua với thời gian, ghét bị thua cuộc…. Chẳng vậy
mà chỉ cần nghe thấy bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Ki-tô Giê-su,
nài xin Người cho hai con của bà được ngồi bên hữu, bên tả của Người… thì các
ông phản ứng ngay, hết sức tức tối. Tương tự, chỉ cần nghe thấy ai đó trong
hàng ngũ anh chị em quý chức chúng ta gặp nhiều may mắn, lại sắp được bầu chọn
vào một chức vụ cao hơn mình, chúng ta có thể sẽ cảm thấy bị thôi thúc phải làm
điều gì đó, phải cạnh tranh quyết liệt, muốn chạy đua với thời gian để cũng được
tiến cử vào chức vụ cao hơn như vậy (hoặc hơn vậy). Chúng ta ghét bản thân mình
phải sắm vai người thua cuộc, chúng ta không thích “… là người đến sau”.
… mười môn đệ kia tức tối
Vì ghét sắm vai người thua cuộc,
ai đó mới dễ dàng bực bội, dễ dàng tức tối…. Khi bực bội, tức tối, người ta
không quan tâm đến thực tiễn luôn đòi hỏi những ai đó ở vị trí cao phải có khả
năng chịu đựng;[3] phải
uống được chén đắng Thầy Giê-su uống.[4] Nghĩa
là, Thầy Giê-su, các tông đồ, các môn đệ đều phải trải qua những đòi hỏi của
Phân loại C: biết chịu thương chịu khó, bó buộc bản thân, biết nhẫn nhịn chịu đựng.[5] Chẳng
vậy mà khi gắng sức uống chén đắng một cách thái qúa, cơ thể những người thuộc
Phân loại C có thể rơi vào trạng thái căng thẳng, thậm chí sau đó là trầm cảm
(khả năng miễn dịch suy giảm, dễ dẫn đến ung thư). Nghĩa là, chính chúng ta, những
người trong vai người phục vụ giáo xứ, cũng dễ dàng trở nên tức tối khi “phải”
phục vụ những người xung quanh. Thật ra, Chúa dạy rõ ràng: “Chén của Thầy, các
người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền
cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được”.[6]
… tức tối với hai anh em đó
Khi hành động của bản thân không
minh nhiên tỏ ra mình là những người sẵn sàng phục vụ… thì chính đó là lúc
chúng ta hay tức tối với những người xung quanh, những người đang cần chúng ta
giúp đỡ. Trong khi đó, với danh nghĩa là những quý chức hội đồng hội đoàn giáo
xứ, chúng ta được mời gọi nên như các tông đồ, các môn đệ, những người theo
Chúa – như chính các vị này đã noi gương Thầy Giê-su – tình nguyện phục vụ, đến
để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ.
Vậy ra, khởi đầu là tính cách thuộc
về Phân loại A, chúng ta cần tránh rơi hoàn toàn vào Phân loại C. Nghĩa là,
chúng ta cần khéo léo cân bằng tính cách của mình để có thể thuộc về Phân loại
B: ôn hòa, dễ chịu, không nuôi cảm giác cấp bách về thời gian, không tham vọng,
nhưng vẫn dồi dào lý tưởng, và luôn lạc quan. Thật ra, tức tối, bực bội… với những
người là đối tượng mà chúng ta tự nguyện cam kết yêu thương phục vụ là một sai
lầm kép. Tức tối, bực bội đã không được gì mà bực bội, tức tối lại còn làm mất
đi “những người bạn”. Đành rằng, muốn thành công phải là người có khuynh hướng
thuộc về Phân loại A; muốn được nổi tiếng là người tốt, cần phải là người có
khuynh hướng thuộc về Phân loại C. Tuy nhiên, người tốt nhất và thành công nhất
chính là người có tính cách thường xuyên thuộc về Phân loại B.
Chuyện vui minh họa
Một anh chồng trẻ nọ vừa tan sở chạy
vội về nhà dùng cơm tối với gia đình. Thấy cô vợ đang đánh phạt đứa con trai nhỏ,
anh ta bỏ đi thẳng vào nhà bếp. Lại thấy nồi cháo gà đang nghi ngút khói trên
bàn, anh ta nhanh nhẩu múc ngay một tô để ăn. Ăn xong, thấy vợ vẫn còn đang
đánh phạt đứa con, anh ta không nhịn nổi, bèn nói: “Giáo dục con cái đừng dùng
roi vọt, phải giảng giải cho con hiểu chứ…”. “Anh biết không…”, chị vợ nói, “em
mất công nấu nồi cháo gà thơm ngon là thế mà nó lại tè vào một bãi, tức tối quá
chừng đi…”. Anh chồng vừa nghe đến đó liền nổi cơn “lôi đình”, tức tối giận dữ
quát: “Á à, á à… thôi em nghỉ ngơi một chút đi, để anh xử lý cho…”.
Câu hỏi giúp thảo luận
Với đề tài chủ đạo “Ơn gọi của người
giáo dân trong gia đình, Giáo hội, và xã hội”, trong Đại hội Ủy Ban Giáo Dân từ
ngày 16 đến 18-7-2019 vừa qua tại Bãi Dâu, Vũng Tàu, bạn có cảm thấy ý thức hơn
về ơn gọi được làm giáo dân quý chức hội đồng, hội đoàn giáo xứ? Bạn nghĩ tính
cách của bạn thuộc phân loại nào theo tâm lý học (A, hay B, hay C)?
Khi gặp chuyện bất bình, bạn thường
ứng xử ra sao? Có khi nào vừa nghe biết một nguồn tin trái ý, không như mong đợi…
bạn nổi giận ngay lập tức không? Bạn thường ứng xử như thế nào? Theo bạn, có
nên tùy tiện đánh giá việc này việc nọ không?
20-7-2019,
GTHH
PHẦN MỤC VỤ
Uống nước nhớ
nguồn
Lời mở
Tháng 7 năm 2010, Đại Hội đồng
Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu công nhận việc tiếp cận nước sạch và điều kiện sống
hợp vệ sinh là một trong những quyền căn bản của con người. Người ta có thể nhịn
ăn 1,2 tháng trời mà không chết, nhưng nếu không uống nước trong vòng 3-4 ngày,
không ai có thể sống. Nước không phải chỉ hết sức cần thiết và quan trọng đối với
con người, nước còn là cội nguồn của tất cả các dạng sống, từ những đơn
bào, cho đến thực vật, động vật. Vì thế, chúng ta muốn tìm hiểu vai trò của nước
trong đời sống tự nhiên của con người và trong đời sống siêu nhiên của người
tín hữu để có thái độ sống đúng đắn.
1. Nước trong đời sống tự nhiên
Theo nghiên cứu của Viện Nước Quốc
tế Stockhohn (SIWI), nước bẩn giết chết nhiều người hơn so với động đất và chiến
tranh. Ước tính mỗi ngày trên thế giới có tới 5.000 trẻ em bị chết do các bệnh
liên quan đến nước bẩn. Theo bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc năm 2006, có tới
1,1 tỉ người không tiếp cận được nước sạch và hơn 2,6 tỉ người không có điều kiện
vệ sinh cơ bản. 1,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi và 4,43 triệu trẻ em ở độ tuổi đến
trường bị chết mỗi năm do các bệnh liên quan đến nước và vệ sinh môi trường[7].
Ở Việt Nam, có tới 80-90% phụ nữ ở
Đồng bằng sông Cửu Long mắc bệnh phụ khoa vì không có nước sạch, phải dùng trực
tiếp nước sông, nước kênh. Hầu hết các học sinh Việt Nam không uống đủ nước vì
sợ không dám dùng nhà vệ sinh ở trường do quá dơ bẩn.
1.1. Vai trò của nước trong cơ thể
con người
Khoảng 70% cơ thể chúng ta là nước.
Nước xuất hiện ở tất cả các cơ quan, bộ phận trên cơ thể. Hàm lượng nước trong
gan là 86%, não 85%, phổi 83%, máu 83%, thận 83%, cơ bắp 75%, da 64%, thấp nhất
là xương: 31%.
Nước có vai trò điều hoà nhiệt độ
cơ thể. Khi nhiệt độ môi trường biến đổi, nước sẽ điều hoà thân nhiệt bằng cách
toát ra mồ hôi.
Nước cũng vận chuyển oxy, chất
dinh dưỡng đến mỗi tế bào qua hoạt động của dạ dày, ruột non. Nước thực hiện chức
năng giải độc, lấy đi các chất thải độc hại ở tế bào. Nhờ nước, các thức ăn đưa
vào cơ thể được chuyển hoá và được phân giải về mặt vật lý và hoá học, hệ tiêu
hoá chiết xuất các chất dinh dưỡng có ích và bài tiết chất thải ra ngoài. Nước
đóng vai trò làm dung môi trong suốt quá trình này.
Nước còn làm trơn các khớp xương để
xương vận hành nhịp nhàng trơn tru, không bị tổn thương. Nước còn giúp làm sạch
phổi bằng cách gột rửa những bụi bẩn, virus, vi khuẩn, khói thuốc. Não cần nước
nhiều hơn các cơ quan khác, nên não sẽ báo hiệu để rút nước từ các cơ quan ấy.
Vì thế chúng ta cần uống nhiều nước để não làm việc ổn định, đầu óc minh mẫn.
Các cơ bắp cần nước để hoạt động. Nếu thiếu nước ta sẽ bị mỏi cơ, cảm thấy rã rời,
không muốn vận động.
Người trưởng thành có khoảng 5 lít
máu. Tim bơm tất cả 5 lít máu này đi khắp cơ thể trong mỗi phút. Các thành phần
của máu gồm: huyết tương (chiếm 54%), hồng cầu (45%), bạch cầu và tiểu cầu
(1%); máu sẽ thu nhận các chất dinh dưỡng được hấp thu từ ruột cũng như oxy từ
phổi để chuyển chúng đến các tế bào. Máu cũng lấy đi các hoá chất do tế bào thải
ra như urê và acid lactic đến gan và thận để thải ra ngoài. Nước là thành phần
chính của máu, chiếm tới 92%., nhất là trong huyết tương. Hiểu được vai trò
quan trọng của nước trong cơ thể, chúng ta phải tập thói quen uống đủ nước mỗi
ngày: như uống một ly nước ngay khi thức dậy, luôn mang theo nước bên mình, đặt
lịch uống nước cách nhau khoảng 2 giờ trong thời gian làm việc ban ngày, uống
nước trước khi ngủ để cơ thể ở trong trạng thái thư giãn, góp phần tái tạo tế
bào và hỗ trợ các cơ quan hoạt động trong đêm. Nên uống nước từ từ và uống từng
ngụm nhỏ.
1.2. Chiến tranh nước
Do tình trạng ô nhiễm trên thế giới
mỗi ngày một nặng và dân số ngày càng tăng, nước sạch sẽ là một tài nguyên quý
giá hơn cả dầu mỏ trong thế kỷ 21. Dầu mỏ có thể thay thế bằng các loại nhiên
liệu khác như điện, nhiên liệu sinh học, gió, khí đốt… còn nước lại không thể
thay thế, nên nhiều dân tộc đang muốn chiếm hữu nước thật nhiều để bảo đảm cuộc
sống cho mình. Vì vậy có thể tạo nên một cuộc chiến tranh nước trong tương lai
gần.
Tài nguyên nước là các nguồn nước
mà con người có thể sử dụng vào những mục đích khác nhau như nông nghiệp, công
nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các hoạt động này cần nước ngọt.
Tuy nhiên, 97% nước trên trái đất là nước muối, chỉ có 3% còn lại là nước ngọt.
2/3 lượng nước ngọt này tồn tại nơi các sông băng và khối băng ở các cực Nam-Bắc[8].
Phần còn lại không đóng băng được tìm thấy chủ yếu ở dạng nước ngầm, chỉ một tỉ
lệ nhỏ tồn tại trên mặt đất ở các sông hồ và trong không khí[9].
Nước mặt ở các sông hồ được bổ sung bởi lượng mưa, mưa tuyết, mưa đá và nó sẽ mất
đi khi chảy vào đại dương, bốc hơi hoặc ngấm xuống đất[10].
Việc cung cấp nước ngọt và sạch trên thế giới đang từng bước giảm đi, trong khi
nhu cầu tăng do dân số thế giới tăng cũng như do các vùng đất ngập nước trên thế
giới giảm đi một nửa trong suốt thế kỷ 20.
Dù nhiều nơi hầu như không mất tiền
mua nước, nhưng đó là thứ giá trị nhất hành tinh. Nhiều nước hiện nay phát động
chiến tranh giành giật tài nguyên dầu mỏ: nhưng tất cả hàng hoá giá trị nhất thế
giới sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nếu thiếu nước.
Chính vì thiếu ý thức về giá trị của
nước nên hiện nay người ta đang khai thác cạn kiệt và làm bẩn nước do ô nhiễm
môi trường và biến đổi khí hậu. Cách đây 2000 năm, chỉ có khoảng 250 triệu người
trên trái đất, vào năm 2019 này, có hơn 7,7 tỉ người. Các vùng sa mạc trên thế
giới ngày càng mở rộng. Mực nước ngầm đang giảm 1m/năm. Những khối băng trên
dãy Hymalaya đang tan chảy với tốc độ báo động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lưu
lượng nước của các sông chính như sông Mekong, Dương Tử (ở Trung Quốc), sông Hằng
(ở Ấn Độ), sông Ấn (ở Pakistan). Trung Quốc bị cáo buộc gây ô nhiễm nguồn nước
nhiều nhất khi đổ các chất thải vào các con sông[11].
Theo thông tin của một số cơ quan
chính quyền Thái Lan, Lào, Việt Nam và Uỷ hội sông Mekong (MKC): mực nước sông
Mêkông trong đầu mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 7/2019 đã ở mức thấp nhất, dưới cả
mức tối thiểu trong nhiều năm. Ba nguyên nhân gây nên tình trạng suy giảm nguồn
nước sông Mêkông: do hạn hán, lượng mưa quá ít, kế đến là việc giảm nguồn nước
xả ra từ đập thuỷ điện Cảnh Hồng ở tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Cuối cùng là kế hoạch
tích nước để chạy thử máy phát điện tại đập Xayaburi ở Lào dự kiến hoạt động
chính thức vào tháng 10/2019[12].
Học thuyết Xã hội Công giáo nói đến
quyền có nước sạch là một quyền căn bản và phổ quát của con người[13],
nói đến tình trạng thiếu nước sạch, kém phát triển và nghèo đói của nhiều nước
trên thế giới (số 447) và nhắc đến mục tiêu phổ quát của của cải và nước (số
484)[14].
“Tự chính bản thân của nó, nước không thể được xem như một trong nhiều thứ
hàng hoá của con người, nó cần được sử dụng cách hợp lý và liên đới với những
người khác: Quyền có nước, cũng như các quyền khác của con người, được đặt trên
nền tảng là phẩm giá con người, chứ không phải dựa trên bất cứ việc đánh giá
đơn thuần theo định lượng nào mà coi nước chỉ như một hàng hoá kinh tế không
hơn không kém. Không có nước, sự sống bị đe doạ. Thế nên, quyền có nước uống an
toàn là quyền của mọi người trên thế giới và là quyền không thể chuyển nhượng”[15].
2. Nước trong đời sống siêu nhiên
Vì con người được tạo dựng theo
hình ảnh và giống Thiên Chúa, nghĩa là có thể xác và tinh thần, nên tầm quan trọng
của nước trong đời sống siêu nhiên cũng không thua kém so với đời sống tự
nhiên.
2.1. Nước theo ý nghĩa Thánh Kinh
Nước là nguồn mạch, là tiềm năng của
sự sống[16].
Chính Đức Giêsu Kitô đã dùng hình ảnh nước hằng sống để nói về sự sống siêu
nhiên do Người ban cho nhân loại[17].
Trong sinh hoạt hằng này, ngoài việc
uống để sống, người ta còn dùng để tắm rửa, giặt giũ. Vì thế, trong đời sống
siêu nhiên, nước chỉ sự thanh tẩy. Người ta dùng nước đã làm phép để tẩy sạch tội
lỗi con người[18].
Nước là hình ảnh của Thần Khí[19] và
sự sống do Chúa Giêsu trao ban đặc biệt qua biến cố Thập Giá khi Người đổ máu
và nước từ vết thương ở cạnh sườn Người (x. Ga 19,34).
Vì thế, nước được sử dụng nhiều
trong các nghi thức, bí tích và phụng vụ của Giáo hội Công giáo, tượng trưng
cho việc tham dự vào sự chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô.
2.2. Nước trong đời sống đạo đức
Người tín hữu Công giáo cần nhìn lại
cách sử dụng nước tự nhiên trong đời sống hằng ngày để phát huy một sức khoẻ ổn
định giúp cho mọi hệ thống trong cơ thể hoạt động tốt đẹp. Mỗi ngày cần phải uống
đủ nước, khoảng 2 lít, trong điều kiện bình thường. Tránh uống những loại nước
ngọt, bia rượu đầy hoá chất như hiện nay, nhất là trong các bữa tiệc, bữa ăn.
Nên tránh uống nước trước bữa ăn khoảng 1 giờ để khỏi làm loãng các dịch vị và
men tiêu hoá trước khi ăn, cũng như nên uống sau bữa ăn khoảng 1 giờ để giúp
tiêu hoá các chất bổ trong đồ ăn và hấp thu qua các lông mao trong ruột non.
Việc dùng nước để tắm rửa, giặt
giũ như mời gọi ta thanh tẩy tâm hồn bằng bí tích Giải Tội như một lần tắm rửa
thiêng liêng. Ta nên tạo thói quen chừng 2 tháng đi xưng tội một lần, nếu không
có tội trọng đặc biệt cần xưng thú sớm. Việc thanh tẩy đó còn là dịp giúp ta
nhìn lại đời sống để định hướng cho giai đoạn sống mới.
Bài học ý nghĩa của nước đến từ
các dòng sông: dòng Cửu Long đầy phù sa, dòng Hồng Hà đỏ thắm hay dòng Hương
Giang lững lờ, cũng như mọi con sông trên thế giới, tất cả đều chảy ra biển.
Không một sông nào muốn chảy ngược dòng. Ta tưởng chừng như chúng đã chết khi
hoà mình vào biển cả bao la, nhưng thật sự không dòng sông nào chết cả, nên
không một giọt nước nào của chúng bị mất. Hơi nước từ sông, từ biển bốc lên thành
mây, thành mưa trả lại cho chúng dòng nước tinh khiết từ trời[20].
Những rác bẩn thối tha người ta đổ vào các dòng sông sẽ được ướp mặn, chuyển
hoá nên con người mới có dòng nước ngọt sạch trong.
Lời kết
Hiểu được bài học từ những dòng
sông, ta mới âm thầm làm việc, hy sinh cho đời như những giọt nước quảng đại
trao tặng sự sống cho con người mà chẳng cần biết người dùng nó là tốt hay xấu,
nghèo hèn hay giàu sang, xinh tươi hay xấu xí. Vì thế, mỗi lần uống nước ta lại
nhớ đến nguồn nước từ trời.
Lm. Antôn
Nguyễn Ngọc Sơn
Câu hỏi gợi ý
1. Mỗi ngày bạn uống bao nhiêu nước
và uống như thế nào?
2. Bạn làm gì để bảo vệ nguồn nước
tự nhiên của con sông gần nơi bạn ở?
3. Bạn học được bài học đạo đức
nào từ những dòng sông?
4. Bạn cần làm gì để sử dụng nguồn
nước sạch cách hữu ích cho bản thân và cho người khác?
[1] X. Mt 20,20.
[2] X. Mt 20,23.
[3] Mt 20,22-23.
[4] Mt 20,21.
[5] Thậm chí, những người thuộc phân loại này còn có
xu hướng nghiêng chiều về ức chế bản thân, dù cảm thấy bất an cũng ít khi biểu
hiện ra bên ngoài. Có người còn bị trầm cảm!
[6] Mt 20,23.
[7] x. Wikipedia, bài Chiến tranh nước,
Internet
[8] x. Earth’s Water distribution,
United states Geological Survey, internet, 13/5/2019.
[9] x. Scientific Facts on Water: State
of the Resource Green Facts website, internet, 31/1/2008.
[10] x. Wikipedia, Bài Tài nguyên Nước, Giáng
Thuỷ, Internet.
[11] x. Wikipedia, Chiến tranh Nước,
Internet.
[12] x. Báo Tuổi Trẻ, bài Sông Mêkông trơ
đáy, ĐBSCL lo hạn mặn khốc liệt, ngày 25/7/2019, tr.7.
[13] x. Tóm lược HTXHCG, số 365, 485.
[14] x. Docat, tr.181, 207, 220.
[15] x. Tóm lược HTXHCG, số 485.
[16] x. Ez 47,1-12; Tv 104; Lv 26,4; Am 4,7; Đn
11,14.
[17] x. Ga 3,5; 4,10-14; 7,37-38; HĐGMVN, Từ
điển Công giáo Việt Nam, mục từ Nước, tr.655; Hội đồng Giáo
hoàng về Văn hoá, Huấn thị Đức Giêsu Kitô, Đấng đem lại Nước Hằng Sống,
2002, tr.33; Tóm lược HTXHCG, số 463.
[18] x. Ez, 16,4-9; St 18,4; Tv 26,6; Lv 16,4.24; Mt
27,24; 3,11; Lc 11,38-41; 1Cr 6,11.
[19] x. Ga 7,39; Tt 3,5; GLHTCG, số
694-696.
[20] x. Anthony Nguyễn Ngọc Sơn, Sứ diệp loài
hoa, Hoa Lưu ly, tr. 11.