ĐẠO HIẾU VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP VĂN HÓA
TẠI VIỆT NAM

NGUYỄN CHÍNH KẾT

Vào đề

Tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ tổ tiên từ xưa đến nay luôn luôn là một điểm son trong nề nếp văn hóa của người Á Đông nói chung, và của người Việt Nam nói riêng. Người Việt Nam cũng như mọi dân tộc Á Đông khác, thiên về t́nh cảm, và đương nhiên t́nh cảm đó được thể hiện ưu tiên và nhiều nhất đối với cha mẹ, là người sinh thành ra ḿnh, đồng thời yêu thương và hy sinh cho ḿnh nhiều nhất trên đời. V́ thế, ngay từ nguyên thủy, các dân tộc Á Đông đă có một đạo phổ thông là đạo thờ cúng Tổ Tiên, c̣n gọi là đạo Ông Bà, coi việc hiếu thảo với cha mẹ và tổ tiên khi c̣n sống cũng như khi đă khuất là một bổn phận hết sức quan trọng.

Hiện nay, tại Việt Nam cũng như tại Á Đông nói chung, đạo thờ cúng Tổ Tiên vẫn c̣n là một đạo nền tảng. Cụ thể là trong số những người không theo một tôn giáo chính lưu nào, th́ đa số xưng ḿnh là theo đạo thờ cúng Tổ Tiên hay đạo Ông Bà.

Tâm thức của người Việt Nam hay Á Đông là như thế. V́ thế, để hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào ḷng dân tộc, chúng ta không nên bỏ qua yếu tố văn hóa hết sức nền tảng này. Có lẽ chính v́ thế, mà trong Thượng Hội Đồng Giám Mục Á châu vừa qua (năm 1998), các giám mục Việt Nam đă nêu lên vấn đề này như một yếu tố văn hóa quan trọng mà người Kitô hữu phải quan tâm để hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào ḷng dân tộc. Đó quả là một định hướng sáng suốt trong lănh vực hội nhập văn hóa.

Để hội nhập văn hóa đúng theo đường hướng Giáo Hội, trước tiên, chúng ta cần xác định hội nhập văn hóa là ǵ.

Hội nhập văn hóa là ǵ?

Hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo là đưa sứ điệp Kitô giáo vào trong nền văn hóa của dân tộc bằng cách diễn tả sứ điệp Kitô giáo một cách thích ứng với nền văn hóa đó, đồng thời hoàn chỉnh nền văn hóa đó theo tinh thần Kitô giáo. Như vậy hội nhập văn hóa là một cuộc hội thoại giữa đức tin và văn hóa, nó có hai chiều:

1. Một đằng là thích ứng sứ điệp Kitô giáo với văn hóa của dân tộc lănh nhận sứ điệp, vận dụng những yếu tố phù hợp với tinh thần Kitô giáo trong văn hóa của dân tộc ấy để diễn tả sứ điệp, hầu đưa sứ điệp vào ḷng dân tộc ấy một cách thuận lợi và dễ dàng. Chẳng hạn khi diễn tả sứ điệp Kitô giáo cho người Việt Nam, ta nên dùng những ư niệm, h́nh ảnh, câu nói quen thuộc đối với người Việt như ca dao tục ngữ, hay những quan niệm triết lư Đông Phương để giải thích, truyền đạt. Không nên lạm dụng triết lư Tây Phương hay những h́nh ảnh tuy quen thuộc với người Tây Phương, nhưng lại rất xa lạ với người Việt để diễn đạt sứ điệp. Nhờ sự thích ứng đó, Kitô giáo trở nên dễ hiểu, thân thuộc và dễ chấp nhận với người Việt. Nếu không, Kitô giáo sẽ trở thành xa lạ, ngoại lai, khó hiểu và khó chấp nhận.

2. Đằng khác hội nhập văn hóa c̣n là biến đổi nền văn hóa đó, làm cho nền văn hóa đó hoàn thiện hơn. Nói khác đi là làm cho nền văn hóa ấy mang nhiều tinh thần Tin Mừng hơn. Đây chính là mục đích phải đạt được của việc hội nhập văn hóa: đó là phúc âm hóa nền văn hóa đó, tức làm cho sứ điệp Tin Mừng ảnh hưởng trên quan niệm, cách suy nghĩ, cách hành xử của dân chúng, làm cho tinh thần Chúa Kitô thấm nhuần vào ḷng dân tộc ấy. Nếu sự thích ứng trên mà không nhằm mục đích này, hay không đạt được mục đích này, th́ đó không phải là hội nhập văn hóa đúng nghĩa. Đó mới chỉ là hội nhập văn hóa nửa vời, hời hợt.

Trong việc hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào nền văn hóa Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng và nền tảng của nền văn hóa này mà người Kitô hữu nên lưu ư, đó là đạo hiếu, hay tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Tại sao? V́ người Việt cũng như các dân tộc vùng Viễn Đông này luôn luôn đặt nặng tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Từ nguồn cội, đạo hiếu luôn luôn là một nền tảng căn bản cho đạo làm người của người Việt, và nằm trong bản chất văn hóa của người Việt. V́ thế, việc hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào Việt Nam nên khởi đầu từ đạo hiếu, và lấy đạo hiếu làm nền tảng.

Sau đây, chúng ta thử t́m cách áp dụng đạo hiếu vào vấn đề hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo của chúng ta.

Hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo với đạo hiếu

Như đă nói trên, hội nhập văn hóa có hai chiều, được thực hiện trong hai giai đoạn:

· Giai đoạn I là thích ứng cách diễn đạt sứ điệp Kitô giáo với văn hóa của dân tộc: Trước tiên, ta nhận ra ngay là có sự phù hợp giữa sứ điệp Kitô giáo và văn hóa Việt Nam trong chủ trương thảo hiếu với cha mẹ, tổ tiên. Thật vậy, đạo hiếu trong Kitô giáo thật rơ ràng và được coi là quan trọng.

– Trước hết, đạo hiếu nằm ngay trong thập giới, là căn bản của luật luân lư Kitô giáo. Thập giới của Kitô giáo được chia làm hai nhóm: 3 giới đầu liên quan đến Thiên Chúa, 7 giới sau liên quan đến tha nhân. Giới thứ 4, «thảo kính cha mẹ», là giới đứng đầu nhóm sau. Điều đó có nghĩa: «thảo kính cha mẹ» là giới luật quan trọng nhất trong các giới liên quan đến tha nhân.

– Thứ hai là trong các bản văn Kinh Thánh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, có biết bao nhiêu câu hay đoạn văn khuyến khích ḷng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, nhất là trong sách Châm Ngôn và Huấn Ca (1). Người Kitô hữu nên khai triển những câu, những đoạn văn đó, để làm nổi bật chủ trương đạo hiếu của Kitô giáo vốn rất phù hợp với nền văn hóa của dân tộc. Nhờ đó, người ngoài Kitô giáo dễ chấp nhận Kitô giáo hơn.

· Giai đoạn II của việc hội nhập văn hóa là hoàn chỉnh nền văn hóa của dân tộc được truyền giáo: Ta thấy dân tộc Việt Nam tuy đặt rất nặng đạo hiếu, nhưng đạo hiếu ở đây thường chỉ được hiểu là thái độ phải có đối với cha mẹ hay ông bà tổ tiên ở dưới đất này. Nhưng con người c̣n có cha mẹ ở một cấp cao hơn, đó là cha mẹ ở trên trời, hay là cha mẹ sinh ra vũ trụ vạn vật, mà con người cũng có bổn phận phải thảo hiếu. Niềm tin có Trời là Đấng tạo dựng vũ trụ rất phù hợp với niềm tin chung của dân tộc. Đây là một điểm nổi bật khác của nền văn hóa Á Đông, rất thuận lợi cho việc hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo, đó là người ta tin rằng trên đầu ḿnh c̣n có một Đấng thiêng liêng, tạo dựng nên vũ trụ. Tuy nhiên, ư niệm về Đấng thiêng liêng này c̣n rất mơ hồ, chưa rơ rệt, và Kitô giáo có thể đưa ra một ư niệm rơ rệt hơn. Kitô giáo đặt rất nặng việc thảo hiếu với Đấng thiêng liêng này, cũng là cha mẹ của chúng ta, nhưng ở cấp độ cao và rộng hơn cha mẹ ở dưới đất này.

V́ Kitô giáo chú trọng về đạo hiếu và coi đạo hiếu như nền tảng của ḿnh, nên Kitô giáo quả hết sức phù hợp với tinh thần hiếu thảo của dân tộc ta. Nhưng Kitô giáo c̣n cho thấy một chiều kích rộng lớn hơn của đạo hiếu, giúp quan niệm về đạo hiếu của dân tộc trở nên rộng răi và hoàn chỉnh hơn. V́ Kitô giáo quan niệm vũ trụ như một đại gia đ́nh, trong đại gia đ́nh đó, Thiên Chúa là cha mẹ sinh ra tất cả, và tất cả mọi tạo vật là anh em. Chính trong tinh thần này mà thánh Phanxicô Assi đă gọi «anh Mặt Trời», «chị Mặt Trăng», v.v… Như vậy cha mẹ cũng có nhiều cấp độ, chứ không phải chỉ có cha mẹ sinh ta ra ở trần gian này mới là cha mẹ. Thần học «Tam Phụ» của Alexandre de Rhodes (2) cho chúng ta thấy cha mẹ có ba cấp độ: Thượng Phụ, Trung Phụ và Hạ Phu (3). V́ thế, đạo hiếu cần được thể hiện ở cả ba cấp độ ấy mới đầy đủ, trọn vẹn.

Như vậy, Kitô giáo chính là một tôn giáo của đạo hiếu theo nghĩa chính xác nhất của nó, và đạo hiếu này được thể hiện theo ba chiều kích rơ rệt: đối với Cha trên trời (Thượng Phụ), đối với đất nước và Giáo Hội (Trung Phụ), và đối với cha mẹ dưới đất (Hạ Phụ). Bổn phận đối với Cha trên trời là căn bản, các bổn phận sau xuất phát từ bổn phận căn bản trên.

Trong Kitô giáo, Thiên Chúa và nhân loại được quan niệm như một đại gia đ́nh, trong đó Thiên Chúa là Cha, và nhân loại là anh chị em với nhau. Bổn phận đối với cha mẹ bao giờ cũng quan trọng hơn đối với anh chị em, v́ tương quan hàng ngang (giữa anh chị em với nhau) phát sinh từ tương quan hàng dọc (giữa cha mẹ và con cái). Thật vậy, nếu không cùng do một cha mẹ sinh ra th́ đâu phải là anh chị em với nhau! Cha mẹ ta dưới đất cũng là con cái của Cha trên trời, v́ thế, theo một ư nghĩa nào đó, các ngài cũng là anh chị của ta, nhưng là anh chị một cách đặc biệt, v́ đă cộng tác với Thiên Chúa để sinh ra ta. V́ thế, giữa hai thứ hiếu: hiếu đối với Cha trên trời, và hiếu đối với cha mẹ, th́ hiếu trước nặng hơn hiếu sau và là nền tảng cho hiếu sau. Người Kitô hữu tin tưởng rằng Cha trên trời yêu thương ta gấp trăm ngàn lần cha mẹ dưới đất yêu thương ta.

Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng chủ trương như thế là người Kitô hữu coi nhẹ chữ hiếu đối với cha mẹ dưới đất hơn các tôn giáo khác. Thực tế không phải như thế, v́ càng yêu Chúa th́ người Kitô hữu càng cảm thấy phải yêu thương nhau, và do đó, càng nhận ra bổn phận phải yêu mến thảo kính cha mẹ hơn. Tương tự như một người con càng hiếu thảo đối với cha mẹ, th́ tự nhiên càng yêu thương anh chị em hơn. T́nh yêu đối với Cha trên trời và đối với anh chị em đồng loại chỉ là một t́nh yêu duy nhất, nhưng có hai mặt có thể phân biệt nhưng không thể tách rời: mặt này lớn th́ mặt kia cũng lớn theo, mặt này nhỏ th́ mặt kia cũng nhỏ theo. Do đó, càng mến Chúa đích thực th́ càng yêu thương đồng loại đích thực, hay nói cách cá biệt hơn, càng hiếu thảo với Cha trên trời th́ tất nhiên càng hiếu thảo với cha mẹ dưới đất.

Như vậy, khi đưa quan niệm về đạo hiếu của ḿnh vào nền văn hóa dân tộc, th́ người Kitô hữu đă hoàn chỉnh quan niệm thảo hiếu đối với cha mẹ vốn sẵn có trong nền văn hóa Việt Nam, làm cho quan niệm về đạo hiếu của dân tộc trở nên rộng răi và đầy đủ hơn

Nhưng điều tiên quyết trong việc hội nhập văn hóa đối với đạo hiếu là chúng ta phải biết thích ứng với đạo hiếu trong nền văn hóa của dân tộc. Sau đây, chúng ta thử t́m hiểu một mẫu hội nhập văn hóa bằng đạo hiếu, đó là mẫu của Phật giáo, một mẫu đáng cho chúng ta suy nghĩ và rút ra những bài học quí giá.

Một mẫu hội nhập văn hóa bằng đạo hiếu: Phật giáo

Theo Ḥa Thượng Thích Thiện Hoa (4). Phật giáo đă du nhập vào Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ 2 sang đầu thế kỷ thứ 3 sau công nguyên. C̣n Kitô giáo mới được truyền vào Việt Nam một cách sơ khởi khoảng giữa thế kỷ 16, và một cách có hệ thống và qui mô từ thế kỷ 17. Như thế tại Việt Nam, tuổi của Phật giáo đă được 17 thế kỷ, c̣n tuổi của Kitô giáo mới được 3 thế kỷ. Do đó, tại Việt Nam, một cách nào đó, Phật giáo là một tôn giáo đàn anh của Kitô giáo.

V́ thế, tôi xin đưa ra một mẫu gương hội nhập văn hóa của Phật giáo vào Việt Nam, để người Kitô giáo có thể nh́n vào đó mà học hỏi, hoặc rút ra những bài học cho ḿnh. Theo thiển ư tôi, một người em học hỏi kinh nghiệm của anh ḿnh, hay theo gương của anh ḿnh th́ thật là hợp lư và phải lẽ. Tôi cũng rất mong các Phật tử bằng ḷng và cho phép tôi được nêu ra đây một số ưu điểm của Phật giáo để chúng tôi cùng suy nghĩ và học hỏi. Dẫu sao, điều tôi nói về Phật giáo ở đây cũng chỉ là một nhận định mang tính cá nhân, nếu có điều ǵ sai sót, xin quí vị vui ḷng chỉ giáo.

Trong Đạo Phật tuy phần giáo lư căn bản như Tứ Diệu Đế hay Ngũ Giới, hoàn toàn không đề cập ǵ đến đạo Hiếu, nhưng trong đời sống thực tế, đạo hiếu đă được Đức Phật đề cập tới trong nhiều kinh điển, và được thể hiện ra trong văn hóa dân tộc thành một lễ hội mang tính dân gian, phổ biến: lễ hội Vu Lan. Đây là một h́nh thức hội nhập văn hóa rất tuyệt vời của Phật giáo Đại Thừa, khiến Phật giáo trở thành một tôn giáo rất gần gũi với tâm hồn người Việt, cũng như những dân tộc Á Đông khác.

Lễ hội Vu Lan là một lễ hội đặc biệt của Phật giáo Đại Thừa, là tông phái áp dụng triệt để chủ trương «Tùy duyên hóa độ» của Đức Phật. «Tùy duyên hóa độ» là tùy theo hoàn cảnh, tŕnh độ và căn cơ của chúng sinh mà thay đổi cách giáo hóa cho thích hợp để đạt được hiệu quả giáo hóa cao nhất. V́ thế, khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa, Việt Nam và các nước Á Đông, các nhà hoằng dương đạo pháp đă khéo sử dụng tinh thần đạo hiếu của các dân tộc Á Đông để biến Phật giáo trở thành một tôn giáo phù hợp với tâm lư của dân tộc, khiến cho người Á Đông dễ chấp nhận.

V́ thế, khi du nhập vào Việt Nam và các nước Á Đông khác, Phật giáo đă t́m trong nguồn kinh điển hết sức phong phú của ḿnh những lời Phật dạy liên quan đến công ơn cha mẹ và bổn phận hiếu thảo của con cái. Những lời Phật dạy và những câu chuyện liên quan đến vấn đề này cũng rất dồi dào trong kinh điển Phật giáo. Tôi xin trưng dẫn một vài câu điển h́nh trong rất nhiều câu như:

Vcông ơn cha mẹ, trong Kinh Tâm Địa Quán, Phật dạy: «Ơn cha hiền cao như núi cả, ơn mẹ hiền to như biển rộng. Không ǵ hơn ḷng hiếu thuận, đem vật nhỏ nuôi dưỡng mẹ lành». Cũng trong kinh này có câu: «Người ta bảo quả đất nặng, nhưng ơn mẹ hiền c̣n nặng hơn nhiều. Người ta bảo núi Tu Di cao, nhưng ơn mẹ hiền c̣n cao hơn nhiều». Trong Kinh Tăng Chi, Phật nói: «Có hai người mà ta không thể trả ơn được. Đó là mẹ và cha. Nếu ta một bên vai cơng mẹ, một bên vai cơng cha, và làm như vậy suốt 100 năm, cho đến khi cha mẹ 100 tuổi, th́ cũng chưa đủ để trả ơn mẹ và cha». Kinh Phân Biệt kể rằng Đức Thế Tôn thường nhắc nhở đến công ơn cha mẹ ngài: «Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn nay mới thành Phật, toàn là công ơn của cha mẹ ta».

V́ thế, về đạo hiếu, Phật dạy: «Hiếu là hạnh đứng đầu muôn hạnh». Trong Kinh Nhẫn Nhục, Phật dạy: «Thiện cùng cực không ǵ hơn hiếu; ác cùng cực không ǵ hơn bất hiếu». Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: «Thờ trời đất quỷ thần không bằng có hiếu với cha mẹ. Cha mẹ là vị thần minh cao nhất trong các thần minh». Việc thờ kính cha mẹ được đánh giá hầu như ngang với việc thờ kính Phật. Thật vậy, Kinh Đại Tập có chép lời Đức Thế Tôn: «Gặp thời không có Phật th́ hăy phụng thờ cha mẹ. Phụng thờ cha mẹ cũng như phụng thờ Phật». Những người theo đạo thờ cúng Tổ Tiên chắc chắn rất tâm đắc với hai câu sau cùng này.

Nhưng giáo lư tuyệt vời về đạo hiếu ấy làm sao đi vào ḷng dân tộc được, nếu không biết đưa nó vào. Phật giáo Đại Thừa đă khéo léo đưa giáo lư đạo hiếu vào bằng cách tổ chức lễ hội Vu Lan (Ullambana), biến nó thành một lễ hội mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc. Lễ hội Vu Lan là một lễ hội biểu lộ cụ thể chủ trương hiếu thảo của Phật giáo, nó bắt nguồn từ một câu chuyện thời Đức Phật (5). Trong lễ hội này, những người tham dự được nghe những bài thuyết pháp về ḷng hiếu thảo đối với cha mẹ và ḷng biết ơn đối với mọi ân nhân, đồng thời c̣n có những nghi thức chú nguyện cho cha mẹ, dâng quà cúng dường các chư tăng, những người có công đối với Phật pháp và chúng sinh (6).

Nói chung, các lễ hội của Phật giáo thường mang tính cởi mở đón nhận mọi người, kể cả những người ngoài Phật giáo. Trước khi ra về, mọi người tham dự đều có thể dùng một bữa chay miễn phí với nhau. Do đó, mọi lễ hội Phật giáo đều mang tính dân gian rất cao. V́ thế, lễ Vu Lan vốn chỉ là một lễ hội riêng của Phật giáo, nhưng rất phù hợp với tinh thần chung của quần chúng, nên đă trở thành một lễ hội dân gian, đă đi vào văn chương b́nh dân của người Việt. Thật vậy, trong ca dao Việt Nam có câu: «Tháng sáu buôn nhăn bán trâm, Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân», hay «Dù ai buôn bán đâu đâu, Cứ rằm tháng bảy mưa Ngâu là về».

Lễ hội Vu Lan không chỉ đề cao đạo hiếu, mà vào dịp này, các bài thuyết pháp tại các chùa c̣n nhắc nhở đến bổn phận của mọi người là phải biết ơn tất cả những người đă làm ơn cho ḿnh. Có 4 trọng ân được nhắc tới: (1) ơn cha mẹ, (2) ơn Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), (3) ơn quốc gia xă hội, (4) ơn thầy bạn. Ḷng biết ơn là một trong những đức tính quan trọng của đạo làm người, vốn tiềm tàng trong tâm hồn rất phong phú t́nh cảm của người Á Đông. Nhấn mạnh tới những yếu tố này sẽ làm cho người Á Đông cảm thấy đạo Phật rất gần gũi, rất hợp với ḷng ḿnh, với khuynh hướng của ḿnh.

Nhờ đưa giáo lư đạo hiếu và ḷng biết ơn của Phật vào ḷng dân tộc mà đạo Phật đă chiếm được cảm t́nh của dân Việt, v́ đạo hiếu và ḷng biết ơn đă tiềm tàng sẵn trong tâm thức người Việt. Khi Phật giáo sử dụng yếu tố văn hóa này để đưa Phật giáo vào ḷng dân tộc, th́ những giáo huấn của Phật giáo cũng làm cho ḷng hiếu thảo của người Việt Nam trở nên sâu sắc, vững chắc hơn, bám rễ sâu vào trong văn hóa Việt Nam hơn. Nhờ đó việc giáo hóa chúng sinh trở nên dễ dàng thuận lợi hơn. Từ đó, Phật giáo có thể ảnh hưởng sâu đậm trên văn hóa Việt Nam, và làm cho văn hóa Việt Nam mang rất nhiều sắc thái Phật giáo.

Đạo hiếu trong việc phúc âm hóa tại Việt Nam

Nói người th́ cũng phải nói ta. Truyền thống Kitô giáo dạy về đạo hiếu và nhấn mạnh tới đạo hiếu rất nhiều. Tuy nhiên, khi nh́n lại quá khứ, ta thấy thật đáng tiếc là trong quá tŕnh phúc âm hóa, Kitô giáo đă bị hiểu lầm là một tôn giáo đi ngược với Đạo Hiếu, thậm chí là một tôn giáo chủ trương bất hiếu, v́ đă từng cấm không cho người Kitô hữu Á Đông thờ cúng tổ tiên như mọi người Á Đông thường làm. Điều này đă khiến cho nhiều người Trung Hoa và Việt Nam bất măn và ác cảm với Kitô giáo, chẳng hạn như nhà nho Nguyễn đ́nh Chiểu đă biểu lộ sự bất măn rất lớn của ông qua câu thơ đầy mỉa mai:

«Thà đui mà giữ đạo nhà

«C̣n hơn có mắt ông cha không thờ».

Khi người ta chưa hiểu Kitô giáo là ǵ, đương nhiên người ta sẽ phán đoán theo nề nếp tư tưởng cũ của ḿnh. Do đó, chỉ cần nghe nói Kitô giáo cấm thờ cúng tổ tiên, th́ biết bao nhiêu người Việt – nhất là những người thấm nhuần tinh thần đạo Tổ Tiên, Khổng giáo, và Phật giáo, vốn coi chữ hiếu là quan trọng hàng đầu – đă coi Kitô giáo là tà đạo, không nên theo, thậm chí nên cấm. Rất nhiều người đă không thể gia nhập Kitô giáo cũng v́ lệnh cấm thờ cúng tổ tiên của Giáo Hội. Biết bao người hiểu Kitô giáo và muốn gia nhập Kitô giáo, nhưng không thắng nổi áp lực tâm lư của những người trong gia đ́nh hay gia tộc cho rằng theo Kitô giáo là bỏ cha bỏ mẹ, là bất hiếu với tổ tiên, và một người như thế th́ không xứng đáng là người nữa.

Đây quả là một sự hiểu lầm giữa các vị lănh đạo Công giáo thời đó và người Á Đông trong việc thờ cúng tổ tiên. Đây là chuyện đáng tiếc gây ra do sự khác biệt về văn hóa và tập tục giữa Đông và Tây, đặc biệt giữa quan niệm của Kitô giáo và của các dân tộc Á Đông.

Theo giáo lư, người Kitô hữu chỉ thờ phượng duy nhất một ḿnh Thiên Chúa là chủ tể dựng nên muôn loài vạn vật, và không được phép thờ phượng bất kỳ ai khác. Ngoài Thiên Chúa ra, th́ tất cả đều là thụ tạo, cũng được Thiên Chúa dựng nên như chúng ta. Chúng ta có thể tôn kính những bậc thánh, những vĩ nhân, các vị minh quân, các anh hùng dân tộc, những ân nhân của ḿnh hay của dân tộc, hoặc ông bà tổ tiên ḿnh, chứ chúng ta không được tôn thờ họ.

Phân biệt giữa Đấng tạo dựng (Créateur) và những ǵ được tạo dựng (créés), để rồi từ đó phát sinh ra hai thái độ phân biệt đối với hai phạm trù đó th́ thật là hợp lư. Điều đó c̣n hợp lư hơn sự phân biệt giữa vua và quan, giữa cha mẹ và người anh cả. Có người dân trung thành nào lại tôn kính vua làm sao th́ cũng tôn kính các quan khác như vậy không? Có người con hiếu thảo nào lại tôn kính người anh hay chị cả ḿnh ngang với cha mẹ ḿnh không? Đối xử một cách b́nh đẳng với hai người vốn không b́nh đẳng như thế là một sự xúc phạm đối với người lớn hơn. Điều này bất cứ người Đông Phương hay người Việt nào cũng đều chấp nhận.

Thật ra, người Việt hay người Á Đông nào cũng phân biệt Trời, Đấng sinh ra vạn vật, và những vật do Trời dựng nên. Nhưng theo văn hóa của họ, về mặt lễ nghi, việc thờ Trời là dành cho vua, vua có nhiệm vụ đối với Trời, c̣n người dân có nhiệm vụ đối với vua. Đối với Trời, người dân chỉ có nhiệm vụ sống thuận ư Trời: «Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong». V́ thế, Trời tuy cao nhất, nhưng người dân không được phép thờ Trời theo lễ nghi, mà chỉ có vua tức Thiên Tử (Con Trời) được phép thờ mà thôi (7). Đấy cũng là một cách biểu lộ sự tôn kính cao cả nhất đối với Trời: điều này xem ra không hợp lư đối với năo trạng văn hóa của người Tây Phương, nhưng lại rất hợp lư theo năo trạng văn hóa Đông Phương, và để hội nhập văn hóa, chúng ta phải đặc biệt tôn trọng sự khác biệt về văn hóa.

Quan niệm về sự kính trọng của người Á Đông là «kính nhi viễn chi»: càng kính trọng th́ càng phải giữ một khoảng cách. Vua cũng chỉ là người thôi, thế mà ở Á Đông, người dân phải kính trọng vua đến độ không được phép nh́n, ngay cả các quan cũng không được phép nh́n trực diện, tâu cái ǵ th́ cũng phải quay mặt đi chỗ khác mà tâu. Đối với vua mà c̣n phải giữ một độ xa như thế, huống ǵ đối với Trời, c̣n cao hơn vua hàng ngàn bậc (8). V́ không được thờ Trời, nên những lễ nghi tỏ sự tôn kính nhất đáng lẽ dành cho Trời, nếu không được dùng cho Trời nữa, th́ đương nhiên phải được dành cho tổ tiên hoặc người đă khuất là những người xứng đáng nhất (9).

Việc thờ cúng tổ tiên hay người chết với những lễ nghi như thế không có nghĩa là coi tổ tiên ngang bằng với Trời. Việc thờ cúng đó theo tập tục văn hóa cổ truyền thực ra là một h́nh thức kính nhớ nhiều hơn là thờ phượng hiểu theo nghĩa Tây Phương (adorer hay worship), là sự thờ phượng mà người Kitô hữu chỉ dành cho Thiên Chúa. Việc thờ cúng tổ tiên vừa mang tính văn hóa vừa mang ít nhiều tính tôn giáo. Việc thờ cúng trong đạo tổ tiên có thể phần nào tương tự như việc thờ kính Đức Mẹ, các thánh, các thiên thần … trong Kitô giáo, trong đó, có sự cầu nguyện, xin ơn, v́ tin tưởng các ngài có khả năng phù hộ hay ban ơn cho ḿnh cách nào đó, chứ không coi các ngài là Chúa Tể Tối Cao của muôn loài.

Nhưng dưới con mắt các thừa sai Tây Phương, th́ việc thờ cúng đó là một h́nh thức tôn thờ mà đúng ra chỉ được phép dành cho Thiên Chúa. Chính v́ thế, các vị giáo hoàng thời đó đă nghiêm cấm việc thờ cúng tổ tiên là v́ các ngài hiểu đó là một lễ nghi tôn giáo mang tính thờ phượng, nhưng thực ra sự thờ kính ấy chỉ là một tập tục mang tính văn hóa dân tộc nhiều hơn là tôn giáo. Nếu có tính tôn giáo th́ sự thờ cúng ấy hoàn toàn không cùng một loại với việc thờ phượng đặc biệt mà người Kitô hữu dành riêng cho Thiên Chúa.

Về sau, khi Giáo Hội hiểu được như thế, th́ việc thờ kính ấy đă được Giáo Hội chấp nhận như trong huấn dụ Plane Compertum ngày 8-12-1939, cho phép Giáo Hội Trung Hoa và các Giáo Hội lân cận được phép thờ kính tổ tiên. Như vậy, sự việc đáng tiếc trên đă được giải quyết một cách êm thắm, tốt đẹp.

Bây giờ, thiết tưởng người Kitô hữu nên sửa lại những đáng tiếc trong quá khứ, không phải chỉ bằng việc cải chính hay biện hộ cho những hiểu lầm đă xảy ra, mà c̣n bằng một cái ǵ tích cực hơn về đạo hiếu. V́ thế, chúng ta cần nhấn mạnh về đạo hiếu trong việc truyền giáo và mục vụ.

Cần nhấn mạnh đạo hiếu trong việc truyền giáo và mục vụ

Hiện nay, nền tảng gia đ́nh trên thế giới đang bị lung lay và đe dọa trầm trọng. Chẳng hạn tại Âu châu, có tới 50% các gia đ́nh đă thành lập nhưng bị tan ră v́ đi đến ly dị. Để tránh vấn đề này, người ta đă đưa ra nhiều giải pháp không hợp luân lư: cứ sống độc thân nhưng lại thoải mái trong quan hệ t́nh yêu và tính dục, hôn nhân thử, sống chung với nhau không hôn nhân v.v… Gia đ́nh tan ră đưa đến nhiều bất hạnh trong xă hội, nhất là về phía các trẻ em không được chăm sóc đầy đủ v́ không đủ cả cha lẫn mẹ. V́ thế, Giáo Hội đang chủ trương củng cố lại nền tảng gia đ́nh này.

Tại Việt Nam, khủng hoảng về gia đ́nh cũng đang bắt đầu. V́ thế, Giáo Hội Việt Nam cũng cần củng cố nền tảng gia đ́nh, nhưng nên bắt đầu từ đâu? Tôi nghĩ ở Việt Nam, chúng ta có một thuận lợi rất lớn để bảo vệ và củng cố nền tảng gia đ́nh, đó là tinh thần đạo hiếu trong tâm thức dân tộc. Chúng ta có thể bắt đầu củng cố gia đ́nh bằng việc phát triển đạo hiếu, v́:

+ khi làm tṛn phận sự đối với cha mẹ, người ta sẽ có một nền tảng giúp họ làm tṛn phận sự đối với gia đ́nh họ tạo lập, nghĩa là đối với vợ / chồng, con cái họ. Việc đối xử hợp lư và đầy t́nh thương với cha mẹ là một kinh nghiệm và cũng là bài thực tập cho mọi người trẻ sống hợp lư và yêu thương trong gia đ́nh mà ḿnh thành lập.

+ sống hiếu thảo với cha mẹ, người ta sẽ tập được một số đức tính cần thiết để sống đời sống gia đ́nh: t́nh yêu chân thật, vị tha, hy sinh, kiên nhẫn, nhịn nhục, tôn trọng người khác, hy sinh ư riêng, v.v… Ngược lại, nếu không hiếu thảo đối với cha mẹ, người ta sẽ khó có thể thật sự yêu thương và hy sinh cho vợ con hay chồng con ḿnh, và khó có được những đức tính cần thiết trên. Thật vậy, cha mẹ là người yêu thương, hy sinh cho ḿnh và có công với ḿnh nhất mà ḿnh không yêu thương th́ làm sao có thể yêu thương và hy sinh cho người khác một cách chân thật được?

+ khi con cái thật sự hiếu thảo với cha mẹ, việc giáo dục của chúng trong gia đ́nh sẽ đạt được kết quả tốt đẹp: nhờ sự hướng dẫn đầy kinh nghiệm của cha mẹ, con cái biết vâng lời sẽ bước vào đời sống gia đ́nh một cách tốt đẹp, và dễ thành công và hạnh phúc trong đời sống gia đ́nh. Thật vậy, cha mẹ là người có rất nhiều kinh nghiệm trong đời sống gia đ́nh, và có thể đă từng gặp nhiều cay đắng thất bại trong đời sống gia đ́nh. V́ thế, cha mẹ có thể chia sẻ kinh nghiệm, dạy cho con cái những bài học ḿnh đă học được bằng đau khổ và nước mắt, và chỉ dẫn cho con cái con đường tốt nhất để thành công trong hôn nhân, và tránh được những thất bại. Những đứa con hiếu thảo, nghĩa là biết vâng lời, biết coi trọng lời dạy dỗ của cha mẹ, chắc chắn sẽ dễ thành công trong đời sống gia đ́nh hơn.

Như vậy, củng cố đạo hiếu chính là củng cố nền tảng gia đ́nh, và đó cũng là một cách hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo của chúng ta vào ḷng dân tộc. V́ thế, chúng ta nên đề cao đạo hiếu như một phương cách nền tảng để sống đời Kitô hữu. V́ bản chất của Kitô giáo là đạo hiếu: hiếu với Cha trên trời, và thể hiện ḷng hiếu thảo ấy qua sự yêu thương anh chị em đồng loại. Đó là cấp độ vĩ mô của đạo hiếu. C̣n cấp độ vi mô là thảo hiếu với cha mẹ dưới đất và yêu thương anh chị em ruột thịt của ḿnh. Cấp độ vi mô hữu h́nh phản ánh cấp độ vĩ mô vô h́nh, nghĩa là ḷng hiếu thảo với cha mẹ dưới đất là h́nh ảnh ḷng hiếu thảo với Cha trên trời.

Thật vậy, nếu cha mẹ hữu h́nh dưới đất là người yêu thương ḿnh và hy sinh cho một cách cụ thể trước mắt mà ḿnh không hiếu thảo, th́ làm sao ḿnh có thể hiếu thảo thật sự với người Cha vô h́nh ở trên trời mà sự hy sinh của Ngài đối với ta phải nh́n bằng đức tin mới thấy được? Tương tự như lời của thánh Gioan tông đồ: «Nếu ai nói: «Tôi yêu mến Thiên Chúa» mà lại ghét anh em ḿnh, người ấy là kẻ nói dối; v́ ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, th́ không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1 Ga 4, 20). V́ thế, có thể nói không sai rằng t́nh yêu đối với tha nhân, đặc biệt ḷng hiếu thảo đối với cha mẹ dưới đất, chính là phản ảnh hay thước đo của t́nh yêu hay ḷng hiếu thảo đối với Cha trên trời. Do đó, ai càng yêu mến Thiên Chúa, th́ t́nh yêu ấy càng phải được chứng tỏ qua ḷng hiếu thảo đối với cha mẹ ḿnh, và qua sự hy sinh cho tha nhân là con cái của cùng một Cha trên trời.

Kết luận

Để kết luận, chúng ta thử đưa ra một số những việc làm cụ thể để có thể đưa tinh thần đạo hiếu của Kitô giáo vào trong ḷng dân tộc, và để cùng ḥa nhập với các tôn giáo khác trong tinh thần đạo hiếu.

1. Thanh Minh và Vu Lan (10) là những lễ hội mang tính văn hóa dân tộc nhấn mạnh đến ḷng thảo hiếu đối với cha mẹ hay tưởng nhớ đến những vị tổ tiên đă khuất bóng. V́ thế, tuy chúng ta đă có cả tháng 11 để kính nhớ và cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà tổ tiên đă khuất, nhưng chúng ta nên đồng hành cùng với dân tộc ḿnh trong tinh thần đạo hiếu này bằng cách:

+ phát động nơi người Kitô hữu ḷng hiếu thảo và sự tưởng nhớ cầu nguyện cho tổ tiên vào những lễ hội dân tộc ấy, và vào ngày cuối năm là dịp đa số người Việt tưởng nhớ đến cha mẹ c̣n sống và ông bà tổ tiên đă khuất bóng một cách đặc biệt.

+ có những nghi thức phụng vụ và á phụng vụ thích hợp song song với những nghi thức của Phật giáo và đạo thờ cúng Tổ Tiên vào những dịp lễ hội này (11).

2. Khuyến khích làm bàn thờ gia tiên trong gia đ́nh. Đây là một cách làm cho người Kitô hữu gần gũi với đồng bào ḿnh ở trong các tôn giáo. V́ trong các gia đ́nh người Việt, thường có bàn thờ tổ tiên. Vả lại, qua dấu hiệu này, các tín hữu các tôn giáo khác cũng cảm thấy gần gũi với người Kitô hữu trong việc hiếu thảo này.

3. Tưởng nhớ đến công ơn tổ tiên của dân tộc Việt Nam cùng với các anh hùng dân tộc vào dịp giỗ tổ Hùng Vương ngày 10-3 âm lịch mỗi năm. Nếu mỗi gia đ́nh đều có tổ tiên để kính nhớ, th́ cả dân tộc cũng thế. Thiết tưởng chúng ta cũng nên tưởng nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên dân tộc ḿnh đặc biệt trong thánh lễ ngày giổ tổ. Chẳng lẽ chúng ta chỉ dành bổn phận cúng giỗ tổ tiên dân tộc cho những anh em tôn giáo khác làm, c̣n ḿnh th́ không sao?

4. Làm bàn thờ tổ tiên của dân tộc trong các nhà thờ. Nếu mỗi gia đ́nh nên có một bàn thờ gia tiên, th́ tại mỗi nhà thờ, nên có một bàn thờ kính nhớ tổ tiên của cả dân tộc ở một chỗ nào đó thuận tiện, thích hợp và danh dự, nhất là tại những nhà thờ lớn có tầm quan trọng quốc gia (12). Khuyến khích tinh thần thảo hiếu đối với tổ tiên cả nước là một cách gợi lên ư thức dân tộc, củng cố ḷng yêu nước thương ṇi, bày tỏ được ḷng biết ơn đối với tiền nhân. Nếu chúng ta biết tôn kính những vị thánh ở tận đâu đâu, nhưng tổ tiên của dân tộc rất gần gũi với chúng ta mà chúng ta lại quên không nhớ đến, th́ làm sao đồng bào của chúng ta cảm phục chúng ta được?

5. Lễ Vu Lan cũng là dịp các chủ chăn nhắc nhở giáo hữu về ḷng biết ơn đối với những ân nhân của ḿnh: ơn Thiên Chúa, ơn Giáo Hội, ơn tổ quốc, ơn xă hội, v.v… Đồng thời khuyến khích có những hành vi cụ thể biểu lộ ḷng biết ơn ấy.

PHẦN ĐỌC THÊM

Nguồn gốc lịch sử của lễ hội Vu Lan

Vu Lan hay Vu Lan Bồn là phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, dịch sang tiếng Hán Việt là Giải Đảo Huyền, nghĩa là cởi trói cho người bị treo ngược. Đảo Huyền là h́nh phạt đau khổ nhất cho loài ngạ quỉ (quỉ đói). Người bị treo ngược không hề được ăn uống nên bị đói khát giày ṿ suốt ngày rất đau khổ. V́ thế, Ullambana hay Giải Đảo Huyền có nghĩa cứu vớt những vong hồn đang phải chịu những h́nh phạt đau đớn v́ nghiệp chướng do ḿnh gây nên khi c̣n ở trần gian. V́ thế, lễ Vu Lan c̣n gọi là lễ Xá Tội Vong Nhân.

Tương truyền, lễ Vu Lan có nguồn gốc từ Đức Phật, khi Ngài chỉ cho đệ tử của Ngài là Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) cách cứu mẹ ḿnh khỏi h́nh phạt của kiếp ngạ quỉ. Về sau, các Phật tử cũng áp dụng phương cách đó để cứu những vong hồn thân nhân của ḿnh.

Kinh Vu Lan (Ullambanapatra-sutra) chép rằng:

Mục Kiền Liên, một trong những vị đại đệ tử của Phật, nổi tiếng nhất về ḷng hiếu thảo và về thần thông, sau khi chứng quả La Hán, bèn nhớ đến công ơn cha mẹ và muốn báo đền. Nhờ có đạo nhăn, ông thấy mẹ ḿnh đang bị đọa làm loài ngạ quỉ, thân thể ốm gầy, da bọc xương, bụng lớn đầu to, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, ông bèn vận thần thông, bưng chén cơm đang ăn đến chỗ mẹ ở để dâng mẹ. Bà mẹ v́ quá đói khát, nên khi được cơm, ḷng tham nổi lên, sợ người cướp giật, lấy tay trái che giấu chén cơm, c̣n tay mặt bốc ăn. Bởi ḷng tham độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên vừa đưa cơm vào miệng, th́ cơm hóa thành lửa, bà chẳng ăn được chút nào.

Mục Kiền Liên hết sức đau khổ, khóc lóc thảm thiết. Ông trở về bạch Phật, thuật lại câu chuyện và cầu Phật chỉ dạy phương pháp cứu độ thân mẫu. Phật dạy rằng:

«Này Mục Kiền Liên, mẹ của ông do ḷng tham lam độc ác đă tạo ra tội lỗi nặng nề trong nhiều kiếp, nay sinh trong ác đạo làm loài ngạ quỉ, nên không thể một ḿnh ông cứu độ được. Dẫu ḷng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác ǵ chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng tăng trong mười phương, «thập phương chúng hội» đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ ông được giải thoát. Ta sẽ chỉ cho ông phương pháp cứu độ mẹ ông.

«Này Mục Kiền Liên, ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ (13) của chư tăng khắp nơi, sau ba tháng an cư kiết hạ (14), các chư tăng tiến bộ rất nhiều trên đường tu học. Nhân ngày ấy, ông hăy làm lễ Vu Lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông.

«Ông hăy sắm sửa đủ các món ăn chay, năm thứ trái cây, cùng hương dầu đèn nến, giường chơng chiếu chăn, mùng mền quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay … Tóm lại, là đủ bốn món cúng dường quí báu trên đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị đại đức trong mười phương, hoặc những vị thiền định trong núi rừng chứng được bốn quả thánh, hoặc các vị bồ tát thị hiện làm thầy tỳ kheo … Ông phải thành tâm kính lễ trai tăng cúng dường và thỉnh cầu chư tăng chú nguyện (15) cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện, vong linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, nhưng có nhiều người khiêng th́ dời đi đâu cũng được».

Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy làm lễ Vu Lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư tăng đến cúng dường, nên vong mẫu của ông thoát khỏi kiếp ngạ quỷ sinh về cảnh giới lành. Sau đó, Mục Kiền Liên hỏi Phật xem những Phật tử khác muốn cứu độ cha mẹ ḿnh có thể dùng phương pháp đó không. Phật trả lời:

«Quí lắm! này Mục Kiền Liên, đời sau, nếu có ai v́ ḷng hiếu thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện tại hay quá khứ, th́ cứ ngày rằm tháng bảy làm lễ Vu Lan này để cúng dường trai tăng. Nhờ công đức của chư tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng phúc thọ, khỏi những điều tai họa khổ năo, c̣n cha mẹ bảy đời trước th́ khỏi bị khổ ngạ quỉ, được sinh trong cơi Nhân hay Thiên, hưởng phúc vui vẻ không cùng».

Từ đó về sau, cứ đến ngày rằm tháng bảy, các hàng Phật tử chí hiếu đều làm lễ Vu Lan để đền đáp công ơn cha mẹ dẫu c̣n sống hay đă mất. Ngoài ra, họ c̣n tưởng nhớ và chú nguyện cho cửu huyền thất tổ, các ân nhân, thân nhân, bạn bè, những người quen biết đă quá cố sớm được văng sinh nơi Phật Quốc.

Phật giáo chân truyền dạy như thế. Nhưng tín ngưỡng nhân gian có pha trộn nhiều điều khác. Chẳng hạn, do ảnh hưởng của Đạo giáo, quần chúng cho rằng ngày ấy, ở âm phủ, quỉ sứ mở cửa địa ngục cho các vong hồn bay về dương thế để tha hồ ăn hưởng, rồi sau đó lại phải bay về âm phủ. V́ thế, họ nảy sinh ḷng thương xót đối với các vong hồn. Dần dà tục cúng cô hồn tháng bảy trở thành một tập tục dân gian.

Mô tả lễ hội Vu Lan

Đầu tháng 7 âm lịch, Phật tử cũng như nhiều người ngoài Phật giáo, bắt đầu tưởng nhớ tới tổ tiên, cha mẹ, những người thân quen đă khuất bóng, một cách đặc biệt hơn b́nh thường. Nhiều người ăn chay, niệm Phật, làm phúc, đến chùa nghe thuyết pháp. Để chuẩn bị cụ thể hơn, người ta để dành tiền, quần áo, thực phẩm, thuốc men để cúng dường (= kính biếu) chư tăng ni vào ngày lễ, đồng thời để mua những đồ cúng tổ tiên trên bàn thờ suốt hai tuần cuối tháng 7.

T ngày áp lễ (ngày 14-7), bầu khí các chùa chiền đă bắt đầu nhộn nhịp tưng bừng hẳn lên. Nhiều Phật tử đă đến chùa để đảnh lễ Phật cầu nguyện. Chung quanh chùa, người ta bày bán la liệt nhang hương, kinh Phật (nhất kinh Vu Lan), các lồng chim (để phóng sinh), v.v… Bầu khí lễ lạc các chùa càng lúc càng làm cho tâm hồn người Phật tử lâng lâng, sốt sắng, như tiếp xúc được với thế giới h́nh.

Ngày rằm, chùa càng lúc càng đông người. Tới khoảng 11 giờ trưa, chùa đầy người: lễ Vu Lan bắt đầu cử hành. Ngoài sân cũng như trong chùa, các trường phương bảo cái (= cờ Phật giáo dạng phướn lọng che) rải rác khắp nơi. Các cột trong chùa cũng treo cờ. Bàn thờ Phật, bàn thờ các Tổ đèn nến sáng chưng, hoa quả, nhang khói nghi ngút.

Một hồi trống bát nhă nổi lên báo hiệu lễ Vu Lan bắt đầu, mọi người im lặng. Trong chùa, ngoài các Phật tử đứng đối diện với tượng Phật chính điện, c̣n nhiều tăng ni bận lễ phục trang trọng được mời ngồi trên ghế trước mặt các Phật tử. Vị trụ tŕ đứng ra nói vài lời khai lễ, rồi mời một vị thượng tọa trong số các tăng ni mặt tại đó khai pháp. Vị này giảng ư nghĩa của lễ Vu Lan. Sau thời pháp thời kinh: mọi người đều cùng nhau tụng kinh Vu Lan nói về công ơn cha mẹ bổn phận phải hiếu thảo đối với cha mẹ một cách nhịp nhàng theo nhịp mơ.

Tụng kinh Vu Lan xong, các tăng ni được mời sang pḥng Thọ Trai ăn một bữa cơm chay. Bất kỳ ai mặt tại đó, không phải Phật tử, nếu muốn, đều thể cùng dùng bữa với các tăng ni (16). Sau lễ thọ trai, nghi thức cúng dường c̣n gọi lễ Tạ Pháp cũng tại pḥng đó. Các tăng ni được các Phật tử cúng dường mỗi người một gói. Trong gói đó thể quần áo, mùng mền, thuốc men, thực phẩm, tiền bạc, hay những đồ vật thường dùng. Sau khi vị thượng tọa đại diện cho các tăng ni được cúng dường cám ơn các Phật tử, lễ Vu Lan chấm dứt. Tất cả mọi người ra về trong bầu khí tưng bừng vui vẻ. Buổi lễ kéo dài từ 11g00 đến 12g30 hay tới 1g00 trưa.

 Những tăng ni được cúng dường thường những vị uy tín, được các Phật tử yêu mến, những vùng chung quanh, cũng khi những tỉnh xa được mời tới. Những quà tặng đó do các Phật tử tùy ḷng hảo tâm đóng góp. Ư nghĩa của việc cúng dường để tỏ ḷng biết ơn đối với Tam Bảo (Phật–Pháp–Tăng) các vị đại diện. Tại các chùa lớn, số các tăng ni được mời thể lên tới hàng trăm. Tại các chùa nhỏ, thể khoảng 20, 30 vị.

Sau lễ, các Phật tử đi văng cảnh chùa, hết chùa này tới chùa khác. Họ thể đi theo đoàn thể do chùa tổ chức để tham quan các cảnh chùa xa. Đó vừa một cuộc hành hương, cầu nguyện, vừa một cuộc giải trí mang tính cách hội hè.

K từ ngày rằm tháng 7 cho đến cuối tháng, các Phật tử ngày nào cũng đọc kinh Vu Lan tại bàn thờ gia đ́nh hay tại chùa, đồng thời ăn chay niệm Phật, làm phúc bố thí, để tưởng nhớ, chú nguyện, hồi hướng công đức cho cha mẹ ông tất cả những người quá cố khác, kể cả những vong linh mồ côi vất vưởng đó đây (gọi hồn). Trong nửa tháng này, bàn thờ Phật trong nhà lúc nào cũng trưng bày nhang đèn, bông hoa ngũ quả (5 loại trái cây). Theo phong tục, gia chủ tùy nghi chọn riêng một ngày nào đó trong nửa tháng này để làm lễ cúng hồn phía trước nhà. Cúng xong, họ thường tung gạo, muối, trái cây, bánh kẹo, tiền bạc vừa được dùng làm lễ vật để cúng ra bốn phương với ư nghĩa để các hồn hưởng dụng.

Phần chú thích

(1) Một số câu Kinh Thánh nói

 – về việc thảo kính cha mẹ: Xh 20,12; Lv 19,3.32; Đnl 5,16; Cn 1,8-9; 6,20-23; 23,22; Mt 15,4; Mc 10,19; Lc 18,20; Ep 6,1-3; Cl 3,20; 1 Tm 3,4;

 – về việc nghe những giáo huấn khôn ngoan của cha mẹ: Cn 4,1-11, 20-22; 5,1-2; 8,21-33; 27,11;

 – về bổn phận vâng lời cha mẹ: Tv 119,9; Cn 3,1-3; 6,20-25.

 – về gương thảo hiếu đối với cha mẹ của Chúa Giêsu: Ga 19,26-27; của bà Rút: R 1,16-18; v.v…

(2) Thần học «Tam Phụ» được nói đến lần đầu tiên trong cuốn «Phép Giảng Tám Ngày» (1651) của Alexandre de Rhodes, với những từ như «Ba Đấng Bề Trên», «Ba Đấng thưởng phạt», đi kèm với ba điều «phải» hay ba nghĩa vụ. Thần học này c̣n được nói đến trong «Hội đồng Tứ giáo» (không rơ tác giả, thế kỷ 18), trong thơ văn của linh mục Đặng đức Tuấn (1806-1874) và trong một số bản văn của Nguyễn trường Tộ (1830-1871). Các tác giả trên không viết nên một thần học về Tam Phụ, nhưng đă có những ư niệm chung về bộ ba những người cha này.

(3) Thượng Phụ là Cha ở trên, tức Ông Trời, hay Thiên Chúa. Trung Phụ là Cha ở giữa, tức Cha của đất nước, hay Vua hoặc Hoàng Đế cai trị nước. Hạ Phụ là Cha ở dưới, tức Cha Mẹ sinh ra ta ở dưới đất.

(4) THÍCH THIỆN HOA, Phật học Phổ thông, Thành Hội Phật giáo TP. Hồ chí Minh ấn hành 1992, quyển hai, trang 53-54.

(5) Xin đọc phần nguồn gốc lễ hội ở phần đọc thêm cuối bài.

(6) Xin đọc phần mô tả lễ hội ở phần đọc thêm cuối bài.

(7) Tại Việt Nam, vua thờ Trời tại Đàn Nam Giao, hiện vẫn c̣n di tích tại Huế.

(8) Đức Kitô đến làm cho khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người gần hẳn lại bằng cách dạy người ta gọi Thiên Chúa là «Cha», điều này có thể bị người Do Thái xưa – cũng là người Đông Phương – coi là một xúc phạm đối với Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Ngài c̣n cho biết Thiên Chúa ngự ngay trong thâm cung tâm hồn con người.

(9) Tương tự như có hai món quà biếu cho hai người. Cứ b́nh thường th́ món quí hơn dành cho người lớn hơn, và món ít quí dành cho người nhỏ hơn. Nhưng nếu người lớn hơn không nhận, th́ món quà quí nhất kia đương nhiên được chuyển xuống người nhỏ hơn. Biếu món quà quí hơn cho người nhỏ hơn trong trường hợp này không có nghĩa là coi thường người lớn hơn.

(10) Lễ Vu Lan là một lễ hội tuy có nguồn gốc Phật giáo, nhưng nay đă trở thành một lễ hội dân gian, mang tính văn hóa dân tộc

(11) Chẳng hạn vào ngày rằm tháng 7 âm lịch:

– tại nhà thờ, có thánh lễ trọng thể cầu nguyện cho cha mẹ c̣n sống, và ông bà tổ tiên đă khuất, với những panô hay biểu ngữ về ḷng hiếu thảo

– tại nhà thờ hay tại mỗi gia đ́nh (hoặc liên gia đ́nh), có buổi đọc kinh chung ban tối đặc biệt cầu nguyện cho cha mẹ tổ tiên.

– tại các gia đ́nh, nên trưng hoa đèn một cách đặc biệt tại bàn thờ gia tiên.

– v.v…

(12) Nếu thấy không thuận lợi trong nhà thờ, th́ có thể trong khuôn viên nhà thờ.

(13) Ngày Tự Tứ: Ngày chư tăng phê b́nh sửa lỗi cho nhau.

(14) An Cư Kiết Hạ: Thời gian (ba tháng) Phật qui định chư tăng ở mỗi địa phương phải hội về một nơi thuận tiện để chuyên tu mỗi năm, từ 16-4 đến 15-7 âm lịch.

(15) Chú nguyện: Chú = chú ư, tập trung tư tưởng hay năng lực tinh thần vào việc ǵ; Nguyện = cầu mong, ước muốn. Chú nguyện là tập trung hết năng lực tinh thần của ḿnh để ước muốn điều ǵ.

Chú nguyện khác với cầu nguyện ở chỗ: chú nguyện là dùng chính sức mạnh tinh thần của ḿnh để thực hiện hay đạt được điều ḿnh muốn; c̣n cầu nguyện là xin Thiên Chúa hay thần linh thực hiện điều mong ước ấy.

(16) Đây là một đặc điểm rất hay của Phật giáo: vào những ngày mùng 1 và ngày rằm mỗi tháng, mọi người tới tham dự các lễ hội – dù không phải là Phật tử – đều có thể dùng cơm chay trong chùa trước khi ra về. Đây là một điều gây rất nhiều thiện cảm nơi người dân, khuyến khích cả những người ngoài tôn giáo đến dự các lễ hội, nhờ đó họ được nghe những điều hay lẽ phải trong Phật giáo, và giáo lư của Phật ảnh hưởng trên đời sống họ.


Mục Lục