22

SỰ THẬT VÀ TÌM KIẾM

 

Tiếp theo những gì đã trình bầy cho đến lúc này, chúng ta có thể xác định thái độ mà thánh Phaolô, ở đầu thư gửi tín hữu Rôma, coi là "vô đạo" và "bất công", ở chỗ nào? Câu trả lời là rõ ràng và như sau: ở một thời điểm nào đó, người ta hoàn toàn quên là không thể nói về Thiên Chúa mà không đồng thời uốn cong "đầu gối của trái tim", không tôn vinh Ngài, không tỏ lòng biết ơn Ngài, không nhận rằng Ngài vẫn là Thiên Chúa. Nói tóm lại, chúng ta đã không còn nói về Thiên Chúa vì vinh quang của Thiên Chúa, nhưng là vì vinh quang của con người.

Như vậy các vai trò đã bị đảo ngược. Thiên Chúa phải giúp bảo đảm sự thành công của nhà triết học và, như chúng ta sẽ thấy, đôi khi thậm chí của nhà thần học. Do đó mà có bầu khí tranh chấp giữa các nhân vật và trường phái, nơi mà chính Thiên Chúa hoàn toàn chuyển sang vị trí thứ hai. Ngài không còn là một ngôi vị nữa, nhưng là một luận chứng. Từ đó, không còn khen ngợi, không còn khiêm tốn tạ ơn, không còn tôn thờ, trong khi những thái độ này, dù không biểu lộ ra bên ngoài, luôn thấp thoáng nơi một tác giả có chúng trong lòng. Điều xấu này tái tạo điều xấu của thế giới ngoại giáo xưa: thiếu khiêm tốn. Người ta thường nói về sự bất ổn trong nền văn minh của chúng ta. Dựa vào ánh sáng lời Chúa, sự bất ổn này đến từ một nguồn ai nấy đều biết rõ, đó là kiêu ngạo.

Không khó để phân biệt một số nguyên nhân chính khiến thời kỳ hiện đại đánh mất ý thức về sự khác biệt vô biên về phẩm chất giữa Thiên Chúa và con người và thậm chí khiến một số Kitô hữu gác qua một bên việc ca ngợi và thờ phượng.

Trước hết, người ta sẽ ghi nhận việc nhấn mạnh một phía sự kiện nhập thể và tính nội tại của Thiên Chúa, như thể qua việc nhập thể và tính nội tại của mình, Thiên Chúa đã không còn là Thiên Chúa nữa, trong khi bằng cách nhập thể, Ngài "trở thành cái Ngài đã không là, mà vẫn còn là cái đã là” như người ta biết rất rõ.

Ở nguồn gốc của thái độ này, hơn cả sự nhập thể, tức là sự hạ mình của Thiên Chúa, trước hết phải đặt ảnh hưởng của sự tán dương con người quá mức, hình thức của chủ nghĩa nhân bản này được quan niệm như một hệ thống đặt con người ở trung tâm và đỉnh cao mọi sự. Tertullianô trả lời cho Marcion: "Nhờ nhập thể, Thiên Chúa đã lấy một cái gì đó của mình để ban cho con người[1]." Và con người đã làm ngược lại: đã lấy trộm cái gì đó của Thiên Chúa, và giữ nó để làm lợi cho mình.

Chúng ta lại còn đề cao việc tìm kiếm sự thật như là giá trị tối cao, quan trọng hơn chính sự thật. Lessing, người theo thuyết thiên cảm (illuministe), viết: "Nếu Thiên Chúa nắm trong tay phải tất cả sự thật và nắm trong tay trái chỉ là khát khao luôn sinh động muốn sự thật, và Ngài nói với tôi: "Hãy lựa chọn đi!", ngay cả có nguy cơ Ngài đánh lừa tôi mãi mãi đến muôn đời, tôi vẫn khiêm nhường phủ phục hướng về phía tay trái Ngài mà thưa: "Con chọn tay này, lạy Chúa! bởi vì sự thật thuần túy hiển nhiên chỉ thuộc về một mình Chúa[2]!" Niềm vui của cuộc đi săn lớn hơn nhiều so với niềm vui bắt được con mồi: niềm vui được biện minh ở cuộc đi săn đó. Như thể trong lãnh vực này, niềm vui đáng kể hơn bổn phận.

Dưới vỏ bọc khiêm tốn, và với lý do không bao giờ muốn “tin chắc ở mình”, quan điểm này che giấu sự kiêu căng lớn nhất của con người. Bao lâu việc tìm kiếm sự thật còn kéo dài, người hướng dẫn cuộc chơi là người tìm kiếm chứ không phải sự thật. Sự “chân thực" (véracité), tức là sự “thành thật" (sincérité) của nghiên cứu, sự lương thiện với chính mình khi đó thay thế cho sự thật. Kinh Thánh nói đến những người “học mãi mà chẳng bao giờ biết được chân lý” (2Tm 3,7). Chúng ta coi đây là một cố gắng tinh tế để làm cho Thiên Chúa phải lúng túng, vì với trạng thái tâm trí như vậy, con người có thể dành cả cuộc đời để nghiên cứu về Thiên Chúa mà không bao giờ thờ phượng Ngài. Gần giống như người đó đã mất hàng bao nhiêu năm mãi mãi tìm lại tài khoản của mình, để trì hoãn thời gian giải quyết các khoản nợ của mình. Tôi còn nhớ chuyện tâm sự, đượm nhiều hối tiếc vô hạn, mà tôi thu thập được bên giường bệnh của một người đã dành cả cuộc đời để viết và thuyết trình về Thiên Chúa: "Tôi đã dành cả đời nghiên cứu về Thiên Chúa, nhưng tôi đã không tìm kiếm Ngài!"

Bao lâu là vấn đề nghiên cứu, thì tôi xin nói: chính con người mới dẫn dắt cuộc chơi. Nhưng khi Chân Lý (viết hoa) đã được tìm thấy, thì khi ấy chính nó mới lên ngôi và ban hành luật. Người tìm kiếm phải là người đầu tiên quỳ gối trước nó. Nhiều người có học và có trình độ cố gắng trì hoãn lúc này càng lâu càng tốt, vô thời hạn. Người ta có thể áp dụng cho việc tìm kiếm này về Thiên Chúa một suy tư có tầm quan trọng tổng quát hơn của Dostoievski: "Con người quan tâm đến việc theo đuổi một mục đích, chứ không phải chính mục đích... Anh ta vượt qua đại dương và hy sinh mạng sống mình trong việc tìm kiếm này, nhưng đạt được mục đích của mình, tìm thấy thực sự, thì có thể nói anh ta sợ chuyện đó[3]."

Tôi nghĩ đó là điều giải thích ít nhất một phần thành công của rất nhiều tôn giáo ngoài Kinh Thánh. Một đặc điểm của hầu hết các tôn giáo mới này là đề ra một Thiên Chúa vô ngôi: Tinh Thần tuyệt đối, Thần Lực sống, Luật vũ trụ, Tất Cả, hoặc có thể là Không Gì, và những kiểu nói khác... Sự khác biệt chính giữa Thiên Chúa ngôi vị và Thiên Chúa vô ngôi là ở chỗ Thiên Chúa ngôi vị có một ý muốn mà người ta phải tính đến và phục tùng: đây không phải là trường hợp của Thiên Chúa vô ngôi. Cúi đầu trước một Thiên Chúa vô ngôi chẳng có giá trị gì, thực tế giống như cúi đầu trước chính mình. Con người không thích nghe những kiểu nói như: "Ngươi phải!", hoặc "Ngươi không được!", là những kiểu nói làm họ rất khó chịu. Nhưng họ cũng không nghe thấy nữa những lời như: "Ta đã yêu ngươi bằng một tình yêu vĩnh cửu", hoặc: "Hãy vào mà hưởng niềm vui của Chúa ngươi."

Một triết gia đã nói: “Đấng Tuyệt Đối giết chết sự tìm kiếm”. Và một triết gia khác: "Đấng Tuyệt Đối giết chết lương tâm." Một triết gia thứ ba thêm: "Đấng Toàn Năng dập tắt tự do." Bây giờ Đấng Tuyệt Đối giết chết sự kiêu căng của con người chứ không phải con người hay việc tìm kiếm của con người. Ngay cả khi đã tìm ra Sự Thật, việc tìm kiếm vẫn tiếp tục và hăng say hơn trước, vì nó đã khám phá ra một cánh đồng rộng lớn để hoạt động. Nhưng khi đó chính là một người tín hữu tiếp tục tìm kiếm.

Sự toàn năng của Thiên Chúa không dập tắt tự do. Ngược lại, nó tạo ra tự do và làm cho người ta có thể thi hành nó. Kierkegaard viết: “Điều vĩ đại nhất có thể làm cho một con người và vĩ đại hơn nhiều so với những gì một người có thể làm, là làm cho người đó được tự do. Để đạt được điều này, thì phải toàn năng. Điều này có vẻ kỳ lạ, bởi vì sự toàn năng sẽ khiến người ta phải tùy thuộc... Một người không bao giờ có thể làm cho một người khác được hoàn toàn tự do... Chỉ có sự toàn năng mới có thể lấy lại được chính mình khi tự hiến mình, và mối tương quan này chính xác tạo nên sự độc lập của người nhận. Mọi quyền năng hữu hạn đều làm cho người ta phải phụ thuộc; chỉ sự toàn năng mới có thể làm cho người ta độc lập mà thôi[4]." Nói cách khác, chỉ với Thiên Chúa, người ta mới có thể được tự do thực sự.

Chúng ta hãy dùng hai đoạn cuối cùng của bài thánh ca của thánh Grêgôriô mà cầu nguyện:

"Tất cả những gì tồn tại đều do Chúa mà tồn tại; sự chuyển động vũ trụ cũng tồn tại do Chúa. Chúa là cùng đích của mọi hữu thể; Chúa là tất cả hữu thể và không là hữu thể nào trong số đó. Chúa không phải là một hữu thể duy nhất, không phải là toàn bộ hữu thể. Chúa có tất cả các tên và con sẽ gọi tên Chúa thế nào? Phải chăng Chúa là Đấng duy nhất không thể gọi tên? Tâm trí nào sẽ có thể xuyên qua những đám mây bao phủ chính bầu trời? Trí khôn thiên thần nào có thể xâm nhập vào Chúa? "Xin xót thương, lạy Chúa, Đấng vượt lên trên mọi sự, đó không phải là tất cả những gì người ta có thể ca ngợi về Chúa sao[5]?"

 



[1]  Tertullien, Contre Marcion, II, xxvii, 6, cf SC 368, p. 165.

[2]  G. Lessing, Eine Duplik, I, dans Oeuvres 3, Zurich, 1974, p. 149.

[3]  F. Dostoievski, Notes d’un souterrain, 9; trad. L. Denys, Paris, Flammarion, 1992, p. 75.

[4]  Kierkegaard, Journal, VII, A 181.

[5]   Grégoire  de Naziance, Poèmes, 29. cf. Priere du Temps présent, Office des Lectures, Ier et IIIe Mercredi du Temps Ordinaire.


Mục Lục Tĩnh Tâm Giáo Triều