LỜI CHÚA

TRONG VIỆC THÁNH HÓA BẢN THÂN

 

 

1. Lectio divina

Chúng ta nói về lời Chúa như con đường thánh hóa bản thân, hoặc nói chung, lời Chúa trong đời sống người tín hữu.

Đây là một chủ đề thường xuyên được đề cập trong truyền thống tu đức của Giáo hội. Thánh Ambrôsiô nói: “Lời Chúa là yếu tố sinh tử của linh hồn chúng ta. Lời ấy nuôi dưỡng, bảo trì và cai quản linh hồn. Không gì ngoài lời Chúa có thể làm cho linh hồn được sống”.

Công đồng Vaticanô trong Hiến chế tín lý về mạc khải nói thêm: “Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo hội” (MK 21).

“Đặc biệt, việc lắng nghe lời Chúa phải trở thành một cuộc gặp gỡ sống động, theo truyền thống xưa nay về việc đọc lectio divina, một hành động cho phép kín múc trong bản văn Kinh thánh lời sống động chất vấn, định hướng, tạo thành cuộc sống của ta” (Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Ngàn năm thứ ba đang đến, 39).

“Việc miệt mài đọc Kinh thánh có cầu nguyện đi kèm, thực hiện cuộc đối thoại thân mật, trong đó, khi đọc như vậy, người ta lắng nghe Thiên Chúa nói, và khi cầu nguyện, người ta đáp lại Ngài với lòng tín thác mở rộng” (Đức Bênêđitô XVI, Diễn từ trong Đại hội Quốc tế về Kinh thánh, 16/9/2005).

Tuy vậy, chúng ta hãy khởi đi từ Kinh thánh. Trong thư Giacôbê, chúng ta đọc được những lời này về lời Chúa: “Người đã tự ý dùng lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thụ tạo của Người…Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em, lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối mình. Thật vậy, ai lắng nghe lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, mà quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo – luật mang lại tự do – ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm” (Gc 1,18.21-25).

Từ bản văn Giacôbê trên đây, chúng ta rút ra một lược đồ về lectio divina trong ba giai đoạn hoặc hoạt động liên tiếp nhau : đón nhận lời Chúa, suy niệm lời Chúa và thực hành lời Chúa.

2. Đón nhận lời Chúa

Hoạt động đầu tiên là lắng nghe lời Chúa. “Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em”. Hoạt động đầu tiên này bao gồm mọi hình thức và phương tiện được người Kitô hữu sử dụng để tiếp xúc với lời Chúa : nghe lời Chúa trong phụng vụ, việc này tương đối dễ, vì các bản văn nay đã được dịch sang tiếng địa phương, và đã được lựa chọn cũng như phân bố trong cả năm phụng vụ ; học hỏi về Kinh thánh, đọc các sách viết về Kinh thánh, cá nhân đọc Sách thánh (một việc làm không thể thay thế). Với những người dạy Kinh thánh thì ngoài những việc trên đây, còn phải nghiên cứu thêm về Kinh thánh qua các khía cạnh chú giải, phê bình văn bản, thần học Kinh thánh, học ngôn ngữ gốc.

Trong giai đoạn này, có hai nguy hiểm cần phải tránh:

Nguy hiểm đầu tiên là dừng lại quá lâu ở bước này, biến việc cá nhân đọc lời Chúa thành một cách đọc “vô ngôi”. Đây là nguy hiểm rất thực tế hôm nay, nhất là trong các môi trường đào tạo đại học.

Thánh Giacôbê nói rằng đọc lời Chúa cũng giống như nhìn ngắm mình trong gương. Thế nhưng, như triết gia Kierkegaard nhận xét, người nào chỉ nghiên cứu các nguồn hay dị bản, các văn thể Thánh kinh, mà không làm gì khác, thì giống như người mất giờ nhìn chiếc gương, cẩn thận xem xét hình dáng, chất liệu, kiểu mẫu của chiếc gương, mà lại không nhìn mình trong đó. Chiếc gương không có tác dụng gì với người đó. Lời Chúa được ban để chúng ta đem ra thực hành, chứ không phải chỉ để chúng ta mổ xẻ, giải thích những điểm tối nghĩa. Người ta thấy một hiện tượng lạm phát về chú giải, và tệ hại hơn, liên hệ đến Kinh thánh, có người tưởng chú giải là điều quan trọng nhất, chứ không phải thực hành.

Nghiên cứu phê bình lời Chúa là cần thiết. Phải hết sức biết ơn những người suốt đời khó nhọc san bằng các lối đi, giúp chúng ta ngày càng hiểu biết đúng và rõ hơn các bản văn Sách thánh. Điều này là cần, nhưng chưa đủ.

Nguy hiểm thứ hai là chủ thuyết duy căn, hiểu Kinh thánh theo mặt chữ, không cần đến khoa chú giải. Những ai bảo vệ cách đọc theo nghĩa đen phần Sáng thế ký (thế giới được tạo dựng cách đây mấy ngàn năm, trong sáu ngày) gây thiệt hại nặng nề cho đức tin.

Nhà khoa học Francis Collins, một người trở lại, giàm đốc dự án nghiên cứu về ‘gen’ người, và đã khám phá ra bộ gen này, đã viết: “Những người trẻ lớn lên trong các gia đình và các Giáo hội nhấn mạnh hình thức này của chủ thuyết sáng tạo, sớm muộn gì cũng khám phá ra bằng chứng khoa học cho thấy vũ trụ xuất hiện xưa hơn nhiều, cũng như khám phá ra sự liên kết giữa mọi sinh vật qua quá trình tiến hóa và chọn lọc tự nhiên. Những người trẻ ấy lại phải đứng trước một sự lựa chọn kinh khủng và vô ích. Không nên ngạc nhiên nếu có nhiều người trẻ quay lưng lại với đức tin, khi chúng quả quyết không thể tin vào một Thiên Chúa đòi chúng phải từ bỏ điều khoa học dạy chúng rất rõ ràng về vũ trụ tự nhiên”.

Chủ thuyết phê bình nghiêm khắc và chủ thuyết duy căn đều là những chủ thuyết thái quá, có vẻ chống đối nhau ngoài mặt, thực sự có điểm chung là dừng lại ở mặt chữ mà bỏ qua Thần Khí.

2. Chiêm niệm lời Chúa

Hoạt động thứ hai mà thư Giacôbê gợi ra là “cắm cúi”  vào lời Chúa, đứng lâu trước gương, nói tắt là suy gẫm hoặc chiêm niệm lời Chúa. Về điểm này, các Giáo phụ dùng kiểu nói “nhai đi nhai lại”. Theo Guigo II, lý thuyết gia của lectio divina, “việc đọc đem lại cho môi miệng một lương thức căn bản, còn suy gẫm thì ‘nhai đi nhai lại’ hoặc ‘nghiền tán cho nhỏ’ lương thực ấy”. Thánh Augustinô nói: “Khi nhớ lại điều đã nghe, và dần dần nghĩ lại trong lòng, người ta giống như người suy đi nghĩ lại”.

Người ngắm mình trong gương lời Chúa sẽ khám phá ra tâm hồn mình, học cách biết mình, thấy mình không giống với hình ảnh của Thiên Chúa, của Đức Kitô. Đức Giêsu nói: “Tôi không tìm vinh quang cho mình” (Ga 8,50) : kìa, chiếc gương đang ở trước mặt bạn, và bạn thấy ngay mình khác xa Đức Giêsu biết bao. “Phúc thay những ai có tinh thần nghèo khó” : chiếc gương lại ở trước mặt bạn, và bạn thấy mình còn dính bén nhiều sự vật, với của cải thừa mứa. “Đức ái thì nhẫn nhục”, và bạn thấy mình còn bất nhẫn, ghen tương, vị kỷ.

Đây không phải là chuyện nghiên cứu Kinh thánh (x. Ga 5,39), nhưng là để Kinh thánh dò xét chúng ta. Thư Do thái viết: “Lời Thiên Chúa xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của con người” (Dt 11,12-13). Lời kinh hay nhất để bắt đầu chiêm niệm lời Chúa là lặp lại cùng với tác giả Thánh vịnh: “Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con. Xin thử cho con biết những điều con cảm nghĩ. Xin Ngài xem con có lọt vào đường gian ác, thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời” (Tv 138/139, 23-24).

Tuy vậy, trong chiếc gương lời Chúa, chúng ta không chỉ thấy mình, mà còn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa, hoặc đúng hơn, thấy tấm lòng của Thiên Chúa. Thánh Grêgoriô Cả nói: “Thánh kinh là một lá thư của Thiên Chúa toàn năng gửi cho tạo thành. Người ta học được ở đó tấm lòng của Thiên Chúa qua lời Chúa”. Lời Đức Giêsu nói: “Lòng có đầy miệng mới nói ra” (Mt 12,34), cũng có giá trị đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với ta trong Sách thánh về những gì có đầy trong lòng Ngài. Và điều có đầy trong lòng Ngài chính là tình yêu.

Như vậy, việc chiêm niệm lời Chúa cho ta biết hai điều quan trọng nhất trên đường đi tìm sự khôn ngoan đích thực. Đó là biết mình và biết Chúa. Thánh Augustinô thưa với Chúa : Noverim me, noverim Te, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con biết con để con hạ mình, xin cho con biết Chúa để con yêu Chúa.

Thư gửi giáo đoàn Laođikêa trong sách Khải huyền (3, 14-20) là một ví dụ lạ lùng cho thấy hai việc biết mình và biết Chúa có được là nhờ lời Chúa. Quả là hữu ích nếu thỉnh thoảng suy niệm về nó. Trước hết, Đấng Phục sinh cho thấy rõ tình hình thực sự của người tín hữu kiểu mẫu của giáo đoàn này: “Ta biết các việc ngươi làm: người chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi. Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta”. Điều người tín hữu nghĩ về mình và điều Thiên Chúa nghĩ về anh ta tương phản đến độ đáng kinh ngạc: “Ngươi nói : tôi giầu có, tôi đã làm giầu, tôi chẳng thiếu thốn chi, nhưng người không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng”.

Một bản văn cho thấy sự cứng lòng khác thường lập tức biến đổi do một trong những lời lẽ cảm động nhất mô tả tình yêu của Thiên Chúa: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta”. Một hình ảnh diễn tả ý nghĩa thực tiễn của nó, chứ không chỉ là một ẩn dụ, và như bản văn gợi ý, nó được đọc lên khi nghĩ tới bữa tiệc Thánh thể.

Bản văn sách Khải huyền này không chỉ giúp chúng ta xác minh tình trạng cá nhân của linh hồn chúng ta, mà còn bóc trần tình trạng thiêng liêng của phần lớn xã hội hiện đại trước mặt Thiên Chúa. Giống như khung cảnh trong một bức hình chụp bằng tia hồng ngoại từ một vệ tinh hoàn toàn khác với khung cảnh thông thường nhìn qua ánh sáng tự nhiên.

Thế giới hôm nay thấy mình hùng mạnh nhờ các thành tựu khoa học và kỹ thuật (như người Laođikêa thấy mình như vậy nhờ vào một nền thương mại thịnh vượng). Nó cảm thấy thỏa mãn, thấy mình giầu có, chẳng cần đến ai, ngay cả Thiên Chúa. Phải có người nào đó chẩn đoán đúng tình trạng của nó, nói với nó rằng : ngươi bất hạnh, đáng thương, nghèo nàn, đui mù, trần truồng. Cần một ai đó kêu lên cho nó biết, như em bé trong một truyện ngụ ngôn của Anderson đã dám nói là vua không mặc quần áo! (Trong khi các cận thần, vì nịnh hót, khen đức vua vận cẩm bào đẹp đẽ, thì chỉ có đứa bé kia dám nói lên sự thật là vua đang trần truồng). Dĩ nhiên người lên tiếng ở đây là người yêu thế giới, như Đấng Phục sinh vì yêu mà đã nói với người Laođikêa.

Đối với những linh hồn đang khao khát Thiên Chúa, lời Chúa bảo đảm cho họ một sự linh hướng nền tảng, tự nó không thể sai lầm. Sự linh hướng này giúp họ nhận ra điều Thiên Chúa muốn, trong những tình huống khác nhau thường bắt gặp trong đời sống. Đây là sự hướng dẫn được bảo đảm bằng việc suy niệm lời Chúa, kèm theo sự xức dầu bên trong của Thần Khí, qua đó lời Chúa linh hứng một quyết định thực tiễn. Đó là điều được diễn tả trong một Thánh vịnh rất quen thuộc đối với những ai yêu mến lời Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).

Có người thích mở tình cờ Kinh thánh, để bắt gặp câu nào thích hợp với vấn đề của mình. Hành vi này khá tế nhị, có làm thì cũng cần có sự phân định trong bầu khí đức tin, và không làm nếu đã không cầu nguyện lâu trước đó. Khi đáp ứng được những điều kiện trên, cách làm này thường mang lại những kết quả đáng ngạc nhiên, được nhiều vị thánh chấp nhận.

Thánh Phanxicô Assisi khám phá ra lối sống nghèo khó cũng bằng cách ba lần tình cờ mở sách Phúc âm, sau khi đã nhiệt thành cầu nguyện. Thánh Augustinô giải thích lời Tolle, lege (Hãy cầm lấy và hãy đọc), mà ngài nghe thấy từ nhà bên cạnh, như một mệnh lệnh của Chúa. Ngài đã mở sách thư Phaolô đang cầm và đọc câu đầu tiên đập vào mắt ngài.

Có những người sống thánh chỉ nhờ lời Chúa hướng dẫn, chẳng hạn Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Thánh nữ viết: “Trong Phúc âm, tôi tìm được tất cả những gì cần thiết cho tâm hồn bé nhỏ đáng thương của tôi. Tôi luôn tìm thấy ở đó những ánh sáng mới, những ý nghĩa ẩn giấu và mầu nhiệm…Nhờ kinh nghiệm, tôi hiểu và biết rằng “Nước Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (Lc 17,21). Đức Giêsu không cần sách vở, cũng không cần các tiến sĩ để dạy dỗ các tâm hồn. Chính Ngài là vị tiến sĩ lớn nhất, Ngài giảng dạy không cần những lời ồn ào”. Khi lần lượt đọc các chương 12 và 13 của thư thứ nhất Corintô, thánh nữ đã khám phá ra ơn gọi sâu xa, và vui mừng thốt lên là mình sẽ trở thành tình yêu trong Nhiệm thể Đức Kitô.

Kinh thánh cho ta thấy một hình ảnh tóm lược tất cả những gì đã nói về việc suy niệm lời Chúa : hình ảnh một cuốn sách được ăn trong sách Edêkien: “Tôi nhìn thì kìa có bàn tay đưa về phía tôi, bàn tay đã cầm một cuộn sách rồi mở ra trước mắt tôi; sách được viết cả mặt trong lẫn mặt ngoài, trong đó có viết những khúc ai ca, những lời than vãn và những câu nguyền rủa. Đức Chúa phán với tôi: Hỡi con người, thấy gì cứ việc ăn. Hãy ăn cuộn sách này rồi đi nói với nhà Israel. Tôi mở miệng ra, và Người cho tôi ăn cuộn sách ấy. Người lại phán với tôi: Hỡi con người, hãy ăn cho no bụng và nuốt cho đầy dạ cuộn sách Ta ban cho ngươi đây. Tôi đã ăn cuộn sách, và nó ngọt như mật ong trong miệng tôi” (Ed 2,9-3,3 ; x. Kh 12,10).

Một cuốn sách chỉ thuần túy được đọc hay nghiên cứu rất khác với một cuốn sách được nuốt hay ngấu nghiến. Trong trường hợp sau, lời thực sự trở thành “bản chất của linh hồn ta”, theo kiểu nói của thánh Ambrosiô, cái làm nên những tư tưởng, lên khuôn ngôn ngữ, xác định hành động, tạo ra con người “thần thiêng”. Lời được nuốt là lời được con người tiêu hóa, cho dù đây là một sự tiêu hóa thụ động (như trong trường hợp Thánh Thể), nghĩa là được lời tiêu hóa, được lời chiến thắng và thống trị, vì lời là nguyên lý sống mạnh hơn.

Trong việc chiêm niệm lời Chúa, chúng ta có mẫu gương là Đức Maria. Người cẩn thận gìn giữ mọi sự mọi lời, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2,19). Nơi Người, ẩn dụ về cuốn sách được nuốt trở thành một thực tại ngay cả về thể lý. Lời Chúa đã tràn đây lòng dạ Người.

3. Thực hành lời Chúa

Chúng ta tiến tới giai đoạn ba như thư Giacôbê đề nghị: đem lời Chúa ra thực hành. Ai nghe mà không thực hành thì…Ai thực hành…thì sẽ tìm được hạnh phúc.

Đây cũng là điều được Đức Giêsu rất quan tâm. Ngài nói: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). Không thực hành thì tất cả chỉ là ảo tưởng, là xây dựng trên cát. Thậm chí không thể nói là đã hiểu lời Chúa, vì như thánh Grêgoriô Cả đã viết, người ta chỉ thực sự hiểu lời khi bắt đầu đem ra thực hành.

Một cách cụ thể, giai đoạn ba này chủ yếu ở chỗ vâng phục lời Chúa. Theo nghĩa đen, chữ hy lạp dùng trong Tân ước để chỉ sự vâng phục có nghĩa là “cho sự nghe” hay “ở trong sự nghe”, theo nghĩa thi hành điều mình đã nghe. Trong Kinh thánh, Thiên Chúa đã than phiền: “Nhưng dân Ta đã chẳng nghe lời, Israel nào đâu có chịu” (Tv 81,12).

Trong Tân ước, khi muốn tìm xem bổn phận vâng phục hệ tại đâu, người ta khám phá ra một điều đáng ngạc nhiên: vâng phục hầu như luôn được coi là vâng phục lời Chúa. Phaolô nói về sự vâng phục giáo huấn (Rm 6,17), vâng phục Phúc âm (Rm 10,18 ; 2 Tx 1,8), vâng phục chân lý (Gl 5,7), vâng phục Đức Kitô (2 Cr 10,5). Chúng ta cũng bắt gặp thứ ngôn ngữ này trong những chỗ khác : sách Công vụ nói về sự vâng phục đức tin (Cv 6,7) ; thư Phêrô I nói về sự vâng phục Đức Kitô (1 Pr 1,2), vâng phục chân lý (1 Pr 1,22).

Chính sự vâng phục của Đức Kitô cũng thể hiện đặc biệt qua sự vâng phục lời Sách thánh. Trong câu truyện Chúa bị cám dỗ nơi hoang địa, Ngài luôn nhắc lại lời Thiên Chúa và trung thành với lời đó: “Có lời chép”. Ngài cũng thực hiện những lời viết về Ngài và cho Ngài “trong các sách luật, tiên tri và Thánh vịnh”. Với tư cách là con người, Ngài khám phá ra những lời đó khi càng hiểu biết và thực hiện sứ mệnh của mình. Khi có môn đệ ngăn cản, không muốn Ngài bị bắt, Ngài đã nói: “Nhưng như thế thì lời Kinh thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó mọi sự phải xẩy ra như vậy” (Mt 26,54).

Cuộc đời của Đức Giêsu như được một vệt sáng hướng dẫn mà người khác không thấy. Vệt sáng này bao gồm những lời được viết cho Ngài. Khi Ngài nói mình phải thế này, phải thế kia, một điều chi phối tất cả cuộc đời của Ngài, thì đó là lời rút ra từ Kinh thánh.

Dưới hoạt động hiện nay của Thần Khí, lời Chúa diễn ta ý muốn sống động của Thiên Chúa đối với chúng ta, vào một lúc nhất định.

Vâng phục lời Chúa là điều chúng ta luôn có thể thực hành. Người ta chỉ thỉnh thoảng (khoảng ba hay bồn lần trong suốt cuộc đời) vâng phục những mệnh lệnh hay quyền bính hữu hình, nếu là một sự vâng phục nghiêm túc. Nhưng người ta có thể vâng phục lời Chúa bất cứ lúc nào. Đây cũng là sự vâng phục mà mọi tín hữu phải thực hành, bất kể người trên hay người dưới, giáo sĩ hay giáo dân. Trong Giáo hội, giáo dân không có một bề trên để vâng phục, bù lại, họ có một Chúa để vâng phục. Họ có lời của Ngài.

Chúng ta kết thúc bài suy niệm bằng cách lặp lại cho  mình lời kinh mà thánh Augustinô dâng lên Thiên Chúa, để xin ơn được hiểu biết lời Chúa:

“Xin làm cho lời Chúa nên nguồn vui thanh khiết cho con. Xin đừng để con bị lừa lọc trong đó hay lấy đó mà lừa lọc người khác…Xin nhìn đến linh hồn con và nghe tiếng con kêu lên từ đáy vực sâu…Xin cho con biết dành nhiều thời giờ để suy niệm các điều kín nhiệm của luật Chúa ; và đừng đóng luật Chúa cho những người gõ tìm…Ôi, lời Chúa là niềm vui của con, tiếng Chúa êm dịu hơn sự lôi cuốn của các lạc thú. Xin ban cho con điều con yêu thích…Đừng khước từ thứ cỏ rả của Chúa khi con đang đói khát. Con gõ cửa cung điện chứa lời thánh của Chúa, xin Chúa thương mở nó ra cho con…Con nài xin Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô Con Chúa…nơi Người ẩn giấu mọi kho tàng của “khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2,3). Chính Người mà con tìm kiếm trong các sách thánh của Chúa” (Confessions XI, 2, 3-4)

(lấy ý trong Raniero Cantalamessa, Bài giảng thứ ba Mùa Chay năm 2008, tại Phủ Giáo hoàng)

Lm Micae Trần Đinh Quảng

 


Mục Lục Tĩnh Tâm Giáo Triều