Bước đi trong
Thần Khí
(Galata 5,16)
Bài giảng của Đức cha
Nguyễn văn Khảm ngày lễ phong chức giám mục cho Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
tại Nhà thờ Chính tòa Giáo phận Ban Mê Thuột ngày 12.5.2009
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi
công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố năm hồng ân của Chúa.”
Giêsu đã dõng dạc đọc những lời này trong hội đường Nagiarét và sau đó,
Người công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc
4,18-21).
Thế nhưng tôi tự hỏi, có thực sự là lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm? Có thực
sự là mọi người mù được sáng mắt? Dĩ nhiên không thể phủ nhận rằng Chúa Giêsu
đã chữa lành một vài người mù như Phúc Âm kể lại, nhưng chẳng nhẽ trên cả đất
nước Israel lúc ấy, chỉ có vài người mù đó thôi sao? Còn cả trăm cả ngàn người
mù khác nữa, liệu họ có được sáng mắt không? Mà nếu chưa được thì sao có thể
gọi là ứng nghiệm?
Thế rồi, có thực sự là mọi kẻ giam cầm đều được tha và mọi kẻ bị áp bức đều
được trả lại tự do? Ngay cả Gioan Tẩy giả, người thân của Chúa Giêsu, lúc ấy
đang ngồi tù, cũng đã phải sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy
có thật là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3). Nghe
trong câu hỏi có nỗi nghi ngờ, nghi ngờ vì đợi mãi vẫn không được tha, nghi ngờ
vì chờ hoài vẫn không thấy tự do! Đã thế, liệu có thể nói là lời Kinh Thánh đã
ứng nghiệm không?
Đi xa hơn nữa đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, khi chính Người bị bắt, bị giam
cầm, bị áp bức… liệu chính Người có khả năng thoát khỏi xiềng xích ngục tù, khỏi
bàn tay áp bức chăng? Các sách Tin Mừng kể lại rằng Chúa Giêsu đã bị đánh đập
dã man, bị vác khổ giá và cuối cùng bị đóng đinh trên thập giá. Đến chính bản
thân Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi ngục tù thì lấy đâu ra tự do để ban tặng
cho các tù nhân? Đến chính Chúa Giêsu cũng bị áp bức thì lấy đâu ra sức mạnh để
giải thoát những người bị áp bức?
Nêu lên những vấn nạn như thế không nhằm khước từ lời khẳng định của Chúa
Giêsu, “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe”, nhưng là để đọc
lại những lời này trong một ánh sáng mới.
Mù loà không chỉ đơn thuần là khuyết tật thể lý nhưng có thể còn là khuyết tật
tri thức, tâm lý và tâm linh. Có những khi ta nhìn một sự kiện, một biến cố mà
không rõ ngọn nguồn sự việc vì thiếu hiểu biết, nghĩa là mù loà về mặt tri
thức. Có những khi ta mở mắt thật to để nhìn mà vẫn không thấy được cái tốt của
người khác chỉ vì ta cố chấp, đó là một thứ mù loà về tâm lý. Và nhiều khi ta
nhìn rõ thế giới vật chất này nhưng lại không thấy mối tương quan giữa thế giới
này và Đấng tạo dựng nên nó, tức là một thứ khuyết tật tâm linh, cho nên mới có
lời cầu nguyện: “Xin mở cho con đôi mắt, để thấy tình yêu Chúa khắp nơi”.
Cũng thế, có nhiều thứ ngục tù. Có những thứ ngục tù không giam hãm nổi tự do
của con người, và ngược lại, có những thứ tự do biến con người thành tù nhân.
Những nhà tù với hàng rào kẽm gai vây bọc chỉ có thể giam hãm thân xác con
người chứ không thể giam hãm tự do hiểu như một giá trị tinh thần, không thể
giam hãm suy tư và cảm xúc, tắt một lời, đời sống tinh thần của con người.
Ngược lại, có những hành động được gọi là tự do nhưng thực ra chỉ là cái vỏ bên
ngoài che đậy tình trạng nô lệ sâu xa bên trong, nô lệ những đam mê và ham muốn
trần tục, nô lệ những tính toán quyền lực và phe nhóm…
Hiểu về sự mù loà và ngục tù như thế, mỗi người – kể cả giám mục và linh mục –
bỗng khám phá ra mình cũng có những lúc sống trong tình trạng mù loà và mất tự
do. Và cũng hiểu rõ hơn lời Kinh Thánh ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu như thế nào.
Chúa Kitô và chỉ có Chúa Kitô là ánh sáng để trong ánh sáng đó, ta có thể nhìn
thấy chân tướng của sự vật và của đời người. Ánh sáng đó là ánh sáng chân lý
và chỉ khi sống trong chân lý, ta mới có tự do đích thực. Kinh nghiệm lịch sử
nói với ta rằng có những người bị giam giữ trong nhà tù với hàng rào kẽm gai
vây bọc, và chỉ mong được tự do. Nhưng khi đã được tự do rồi thì chính họ lại
dựng lên những nhà tù khác để giam giữ đồng loại của mình và để bảo vệ cái gọi
là tự do của mình. Ấy là vì họ mới chỉ được giải thoát khỏi thứ nhà tù vật
chất mà chưa được giải thoát khỏi ngục tù của những đam mê và ham muốn quyền
lực, của hận thù và ích kỷ. Nelson Mandela đã hiểu ra được điều đó nên khi bước
chân ra khỏi nhà tù đã giam giữ ông suốt 30 năm, ông tự nhủ: nếu tôi còn giữ
lòng hận thù với những tên cai ngục, thì tôi vẫn còn bị giam giữ, chưa trở
thành người tự do thực sự. Và chính điều đó khiến cho mọi người kính nể ông.
Chúa Kitô đến không phải để giải thoát con người khỏi những ngục tù bằng hàng
rào kẽm gai nhưng giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ và tha hoá sâu xa
nhất, và chúng ta cần đến ơn giải thoát đó. Chúng ta cần đến ơn giải thoát đó
ngay giữa lòng một thế giới tưởng chừng rất đỗi tự do. Chúng ta cần đến ánh
sáng đó ngay giữa một thời đại phát triển tri thức khoa học đến mức cao nhất.
Và giám mục cũng như linh mục là những người được trao cho trách nhiệm loan báo
ơn giải thoát đó, trách nhiệm tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, sứ mạng “loan báo
Tin Mừng cho người nghèo, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị giam cầm được
tha, trả tự do cho người bị áp bức”.
Thế nhưng chính ở đây lại xuất hiện một nghịch lý: xét như là con người, bản
thân giám mục và linh mục cũng có thể ở trong tình trạng mù loà và bị giam giữ
trong những ngục thất vô hình. Vậy làm sao có thể làm cho người khác sáng mắt
khi chính mình đang ở trong tình trạng mù loà? Làm sao loan báo tự do khi chính
mình đang bị giam trong ngục thất? Henri Nowen đã có lý khi gọi các thừa tác
viên trong Giáo Hội là wounded healer, nghĩa là những người có sứ mạng chữa
lành cho người khác nhưng chính mình lại đang mang thương tích. Tuy nhiên,
chính nghịch lý này thúc đẩy các giám mục và linh mục thi hành sứ vụ trong
khiêm tốn và cậy trông vào quyền năng của Thánh Thần. Khiêm tốn vì nhận biết
rằng tự thân mình không phải là ánh sáng và chân lý, nhưng chỉ đón nhận ánh
sáng và chân lý từ một Đấng khác. Cậy trông vì xác tín rằng mình không thể chu
toàn sứ vụ với sức riêng mình nhưng chỉ có thể chu toàn nhờ quyền năng của
Thánh Thần. Chính vì thế, nghi thức chính yếu trong việc phong chức giám mục là
việc đặt tay và lời nguyện phong chức. Đặt tay chính là cử chỉ nói lên việc
thông ban Thánh Thần, cùng với lời cầu nguyện xin Chúa ban Thánh Thần thủ lãnh
xuống trên vị tân giám mục.
Hơn ai hết, Đức Tân Giám mục xác tín điều đó, cho nên đã chọn khẩu hiệu cho đời
giám mục của mình là “Bước đi trong Thần Khí” (Spiritu ambulate) (Galata 5,16),
đồng thời ngài giải thích “bước theo Thần Khí” là “sống trong sự tự do mà Đức
Kitô đem lại chứ không quá lệ thuộc vào cách suy nghĩ của người đời… là sống theo
sự hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo quan điểm của xác thịt”. Chỉ khi giám
mục bước đi trong Thần Khí và hoạt động trong quyền năng của Thánh Thần thì
ngài mới có thể chu toàn sứ vụ giám mục hết sức cao cả nhưng cũng rất nặng nề
đã được trao phó.
Quyền năng của Thánh Thần chính là quyền năng của tình yêu, là sức mạnh thúc
đẩy vị giám mục bước theo Chúa Giêsu Mục Tử, hiến thân trọn vẹn cho đoàn chiên
đã được trao phó cho mình. Đây cũng là tâm tình của Đức Tân Giám mục. Nhớ lại
khi vừa nghe tin Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm cha Vinh Sơn Nguyễn Văn
Bản làm giám mục giáo phận Ban Mê Thuột, trang web của HĐGMVN đã lập tức phỏng
vấn ngài, và khi được hỏi “Lời đầu tiên Đức Cha muốn gửi đến cộng đồng Dân
Chúa Ban Mê Thuột là gì?”, ngài đã trả lời, “Tôi muốn nói với cộng đồng Dân
Chúa Ban Mê Thuột rằng tôi thuộc trọn về giáo phận và từ hôm nay, giáo phận Ban
Mê Thuột, từng cộng đoàn, từng người Kitô hữu trong giáo phận là chính cuộc
sống của tôi.” “Kể từ hôm nay, tôi thuộc trọn về giáo phận.” Nghe thật “mùi
mẫn”! Cứ như là chú rể đang nói với cô dâu, “Kể từ nay, anh thuộc trọn về em”!
Mà đúng như thế, lát nữa đây, sau lời nguyện phong chức, vị chủ sự sẽ xỏ nhẫn
vào tay của đức tân giám mục cùng với lời nhắn nhủ, “Hãy nhận chiếc nhẫn này
như ấn tín đức tin… hãy gìn giữ hiền thê của Chúa là Hội Thánh được vẹn toàn.”
Nhẫn cưới đấy! Theo một nghĩa nào đó, lễ phong chức hôm nay chính là lễ cưới,
cử hành cuộc hôn nhân thánh thiêng giữa Đức tân giám mục Vinh sơn Nguyễn Văn
Bản và Giáo Hội tại Ban Mê Thuột. Thế thì theo truyền thống văn hoá Việt Nam,
xin cầu chúc cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc.
+ Gm. Phêrô Nguyễn
Văn Khảm