DI SẢN VĂN HÓA CỦA MỘT NGƯỜI CHA
“TRỞ NÊN VIỆT NAM VỚI
NGƯỜI VIỆT NAM”
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Tổng Giám
Mục:
Những Người Lữ Khách Trên Đường Hy Vọng.
Spes-Divine
Compassion Publications
(A Collaboration
Ministry of Spes & The Sisters of The Divine Compassion)
(22 Crane Ave, White
Plains, N.Y. 10603. ISBN: 0-9629104-0-6), 1990, 15x26cm.]
Nương theo tinh thần và phương pháp của sứ đồ Phaolô khi bị giam cầm
xưa kia, trong nhà tù, Đức Cha P.X. Nguyễn Văn Thuận nhắn nhủ để chia sẻ, nâng
đỡ và hướng dẫn giáo dân của ngài sống Tin Mừng trọn vẹn trong giây phút hiện
tại. Ôn lại những tâm tình thánh thiện để áp dụng trong mọi ngõ ngách của cuộc
sống Kitôhữu là một cách kỷ niệm có ý nghĩa thiết thực nhất, tập trung vào chủ
đề Lòng Mến Chúa Yêu Người bằng trái tim Dân Tộc Việt Nam.
Chân Phước Charles Cornay đã từ bỏ gia đình theo tiếng
Chúa gọi. Một hôm trên đường truyền giáo, lúc xe lửa dừng lại ở một ga gần làng
của ngài, cha mẹ và tất cả anh chị em ngài đều ra đó để đón thăm. Vì quá thương
con, cha mẹ ngài đã ngã lăn trên đường, ngăn cản không cho ngài đi tiếp. Cornay
can đảm bước qua mình cha mẹ mà ra đi. Ngày 22.9.1837, ngài đã chịu Tử Đạo với
án lăng trì tại Sơn Tây, Bắc Việt (t.10)
(2) Cha Benoît Lên Núi Phước Sơn.
Ra đi là một sự lột xác, hy sinh cả nếp sống cũ. Ngày lễ Đức Mẹ Lên
Trời 15.8.1918, cha Benoît (Cố Thuận) cùng với một số anh em linh mục mở
một bữa tiệc gia đình cuối cùng, có đầy đủ thịt, cá, rượu. Sau bữa ăn đó, ngài
từ biệt nếp sống cũ ra đi cùng với một người bạn, tiến lên thẳng núi Phước Sơn,
Quảng Trị, khai phá một đám rừng đang có cọp ăn mồi ở trong. Đêm ấy, hai người
che lều ngủ tạm, và sáng mai bắt đầu một nếp sống mới: không ăn thịt, không
uống rượu, hút thuốc, chỉ biết lấy hy sinh hãm mình, cầu nguyện và xay lúa, giã
gạo, tự lực cánh sinh. Ngài đã thu hút nhiều kẻ đến sống, cầu nguyện và hy sinh
như ngài. (t.11).
(3) Quyết Không Giả Vờ.
Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1857) quê ở Nhu Lâm, Thừa Thiên,
là một giáo dân đạo đức, bác ái, một vị quan thanh liêm, chính trực, được thăng
đến hàng tam phẩm, trông coi mọi việc trong đền vua.
Cuối năm 1856, một số quan triều bị ngài ngăn chặn trong việc làm bất
chính, đã tố cáo ngài với vua Tự Đức. Ngài bị bắt với một lý do duy nhất: Theo
Đạo Giatô, trái lệnh triều đình. Trong chốn ngục tù, ngài bị hành hạ tra tấn
quá sức, khiến nhiều vị quan đồng nghiệp vốn đã quí mến đức độ của ngài giả vờ
chối đạo để được tha, rồi sau đó lại tiếp tục sống đạo…
Hồ Đình Hy cương quyết không giả vờ. Ngày 22.5.1857, ngài
đã đổ máu đào chết vì đạo Chúa tại An Hòa, Huế (t. 13)
2. BỔN PHẬN LÀM NGƯỜI KITÔ
(1) Đức Cha Seitz Và Bổn Phận.
Đức Cha Phaolô Seitz (Kim) luôn hiện diện giữa giáo dân. Vào
năm 1972, khi những trận đánh giải phóng Kontum bùng nổ ác liệt, ngài vẫn lái
xe đi cứu thương dưới làn bom đạn. Một phóng viên ngoại quốc phỏng vấn ngài
trên cảnh đổ nát hoang tàn:
“Đức Cha không sợ sao?”
“Tôi không sợ”, ngài trả lời.
Nhưng ngẫm nghĩ một lát, ngài nói tiếp:
“Không, tôi chưa nói đúng sự thật. Tôi sợ lắm chứ! Nhưng vì bổn
phận, tôi sẵn sàng sống chết với giáo dân của tôi”. (t.15).
(2) Bác Sĩ Longet
Bác sĩ Longet là một bác sĩ người Pháp đã
từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom
Dooley người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các
bệnh nhân trong bệnh viện mình, bất kể giai cấp tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng
như đêm (ông thánh hóa bổn phận). (t. 17)
Được hỏi:
“Vì sao ông quý bệnh nhân đến thế?” “Vì sao ông
có thể bỏ ăn, bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết?”
Ông đáp:
“Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh.” (ông
thánh hóa mình trong bổn phận)
Mỗi sáng, khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo ai muốn đi, ông đều cho
đi. Mỗi chiều Chúa nhật, ông lại cho các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này,
nơi nọ. Và mỗi tối, ông lần chuỗi chung với bệnh nhân Công giáo. Vì là người
Pháp, ông chỉ thuộc các kinh Lạy Cha, Kính Mầng, Sáng Danh đủ để lần hạt
chung với họ là những người khác quốc tịch (ông thánh hóa người khác nhờ bổn
phận).
Ít lâu sau, Longet trở về lại Pháp, vào Chủng viện dâng mình
làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ nhất ở giáo phận
Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi
tới nơi mong ước. (t.18)
3. BỀN CHÍ TIẾN TỚI
(1) Đức Cha François Pallu
Vào thế kỷ XVII, Tòa Thánh đã phong hai vị Giám mục là Đại diện Tông
tòa đầu tiên; Đức Cha Lambert de la Motte, phụ trách Đàng Trong kiêm Campuchia,
Lào Thái Lan, và Đức Cha François Pallu, phụ trách Đàng Ngoài, kiêm
Trung Quốc, Triều Tiên. Thật là một khu vực rộng lớn không thể tưởng tượng:
Dưới quyền Đức Cha F. Pallu, chỉ có một ít vị thừa sai, không có một vị linh
mục Việt Nam nào, xứ sở lại đang ở trong tình trạng cấm cách khốc liệt. Từ
Pháp, Đức Cha từ giã gia đình ngày 3.1.1662, dùng tàu buồm vượt qua Trung Hải,
rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, vịnh
Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến Bắc Việt, lúc đi ngang
qua Huế, thuyền của ngài bị đánh giạt vào Philippin, ngài bị người Tây Ban Nha
bắt. Sau ba tháng, lại bị đày vòng qua Thái Bình Dương, vượt cả Đại Tây Dương,
đến Tây Ban Nha. Tuy gian khổ ê chể, nhưng tim ngài vẫn chói sáng một niềm hy
vọng:
“Tôi phải (t.26) mang Phúc Âm đến tận Trung quốc.”
Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách để đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân
xác ngài được chôn vùi tại đây theo như người tôi trung của Chúa hằng mơ ước.
Một câu hỏi của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ:
“Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một
cầu tới Bắc Việt và tới Trung quốc!” (t. 27)
4. SIÊU NHIÊN THEO ÁNH SÁNG LƯƠNG TRI
(1) Dàn Xếp Lương Tâm.
Trước kia, Giáo hội Việt Nam có luật buộc ngày thứ sáu phải
kiêng thịt. Ông nọ vào quán, biết quán có cá, nhưng ông thích ăn thịt hơn.
Vừa kéo ghế ngồi, ông gọi một loạt tên các thứ cá mà ông biết chắc chắn chẳng
bao giờ có:
“Cho tôi đĩa cá sấu! Cho tôi đĩa cá voi!”
Chủ quán luôn miện đáp:
“Không có! Không có!”
Thế rồi ông tự nhủ:
“Lạy Chúa, Chúa biết cho con. Con đã làm hết sức, để gọi nhiều thứ
cá mà chẳng có. Thôi! Con đành phải gọi một tô phở thịt bò tái mà ăn trong ngày
thứ sáu kiêng thịt vậy!”
Cầu nguyện xong, ông ta thi hành liền “theo đúng sự dàn xếp của
lương tâm” (t. 47)
5. HY SINH ĐẾN TẬN CÙNG
(1) Hy Sinh Để Cám Ơn Chúa.
Hôm đó, trên chuyến bay từ Ý qua Mỹ, mang theo một số Giám mục mới đi
dự Công đồng Vatican II về, (t. 63), có một cô chiêu đãi viên rất đẹp.
Sau chuyến bay, cô rất bực mình vì một đôi mắt cứ nhìn chòng chọc vào cô, và
đôi mắt đó không là của ai khác hơn là Đức Cha Fulton Sheen, vị tông đồ lừng
danh của nước Mỹ. Khi phi cơ hạ cánh, và đợi cho các hành khách xuống hết, vị
Giám mục mới tiến đến trước mặt cô, nói nửa nghiêm trang nửa bông đùa:
”Cô đẹp lắm! Cô hãy cảm ơn Chúa vì đã cho cô đẹp!”
Vài hôm sau, có tiếng gõ cửa văn phòng của Đức Cha Fulton Sheen, cô
chiêu đãi viên hôm nọ xuất hiện. Nàng vào đề liền:
“Câu nói của Đức Cha làm con suy nghĩ mãi. Con phải cám
ơn Chúa thế nào?”
“Cô biết Trại Cùi Di Linh ở Việt Nam chứ?”
“Vâng! Con đọc báo có nghe đến!”
Chúa đã lấy hết sắc đẹp của những người cùi ở đó mà ban cho cô. Cô hãy
qua bên đó mà an ủi họ.
Chỉ từng ấy! Cô chiêu đải viên sau đó trút bỏ cả tương lai huy hoàng,
khoác bộ áo nữ tu, và sau một thời gian tập sự học hỏi, đã tình nguyện sang
Việt Nam phục vụ, ngay giữa những người cùi Di Linh, để cám ơn Chúa vì đã
ban cho mình sắc đẹp. (t.64)
5. ĐỨC TIN ANH DŨNG CỦA TỔ TIÊN
(1) Đức Tin Tiên Tổ.
Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1533, Phúc Âm của Chúa đến Việt Nam
cùng với Thánh giá Chúa. Biết bao tín hữu Chúa bị lưu đầy, bị chiếm đoạt tài
sản, lẩn lút trong rừng sâu nước độc, cam chịu mọi đau khổ để trung thành với
đức tin. Cho đến cuối thế kỷ XIX, ta có thể tính được trên 130.000 đấng thuộc
mọi thành phần đã được diễm phúc Tử Đạo. Trong số đó có 117 vị đã được các Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X và Đức Piô XII phong lên bậc Chân phước. Và ngày
19.6.1988 Đức Giáo Hoàng Gion-Phaolô II đẽ tôn phong các ngài lên bậc Hiển
thánh. Chúng ta có thể chia ra như sau:
Đời Trịnh Doanh: 02 vị
Đời Trịnh Sâm: 02 vị
Đời Cảnh Thịnh: 02 vị
Đời Minh Mạng: 57 vị
Đời Thiệu Trị: 03 vị
Đời Tự Đức: 51
vị.
Thành phần các Thánh ấy:
08 Giám muc
50 Linh mục
16 Thầy giảng
01 Chủng Sinh
42 Giáo dân. (t.111)
Giáo Hội Việt Nam ta nghèo nàn không sánh được với các Giáo hội Âu Mỹ,
nhưng chúng ta cũng hãnh diện về lòng trung thành sắt son với Đạo Chúa của Tổ
tiên ta: Ba thế kỷ bắt bớ, tù đày và trên 130.000 Đấng Tử Đạo.(t. 112)
(2) Gương Sống Đạo Của Tiền Nhân Chúng Ta.
Trên đây cha đã nhắc sơ đến sự hy sinh vỉ đức tin của ông bà tổ tiên
chúng ta, nói đến số lượng và thành phần của các thánh Tử Đạo. Nay mô tả chi
tiết các hình khổ đã dành cho các ngài. Như nào là có những giáo xứ (ở
Quảng Trị) bị lính lùa vào nhà thờ, rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả.
Nào là cả Nhà Dòng Mến Thánh Giá Phan Rang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống
đi. Nào là có những thiếu nữ Công giáo non yếu bị đưa về Huế phạt gia hiệu,
phơi nắng ngày này sang ngày khác, rồi chặt một ngón tay trước khi đánh đập và
tha về. Nào là gương 12 vị Chánh trương, Trùm trưởng khắp nơi bị (t.116) đưa về
Huế, giam trên Thành Lồi (bức thành người Chàm xưa đắp lên để đánh với người
Việt Nam, xa thị xã độ 10 cây số). Các ông phải bứt cỏ nuôi voi cho nhà vua cho
đến khi chết dần chết mòn tất cả; nay 12 ngôi mộ của các ông vẫn còn nguyên vẹn
dưới chân thành ấy.
Và sau đây, cha xin ghi lại vắn tắt gương sống của một vài vị
để soi chiếu cho chúng ta:
·
Thánh Micae Hồ Đình Hy, ngài làm quan Thái Bộc tới
hàm tam phẩm và đã chịu trảm quyết thời Tự Đức tại Huế ngày 22.5.1857.
·
Thánh Phaolô Tống Viết Bường, chức Thị vệ. Đã chịu
trảm quyết ngay trước cổng nhà người con gái ngài, ngày 23.10.1833, tại Huế,
triều vua Minh Mạng.
·
Thánh Phanxicô Trần Văn Trung, Cai Đội. Đã chịu
trảm quyết tại Huế ngày 6.10.1858, dưới triều vua Tự Đức.
·
Thánh Giuse Lê Đăng Thị. Cũng là Cai đội. Chịu xử
giảo tại Huế ngày 24.10.1860, dưới triều vua Tự Đức.
·
Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, một lý trưởng gương mấu
liêm khiết. Ngài bị xử trảm tại Nam Định, ngày 12.8.1838.
·
Các vị này là những công dân tận tụy với chức vụ, trung
thành với Tổ quốc và nhân dân, nhưng chỉ vì không bỏ đạo mà phải chịu án tử
hình. (t. 117)
Những người giáo dân lãnh trách nhiệm tông đồ trong
hội đồng giáo xứ như:
·
Thánh Giuse Nguyễn Văn Lựu trùm họ Mặc Bắc. Ngài đã
giúp đỡ giấu ẩn cha Thánh Philipphê Minh trong nhà, nêm bị bắt, giải về Vĩnh
Long. Vì già yếu và với lại chịu lám khổ hình, ngài đã chết rũ tù ngày
2.5.1854.
·
Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, trùm xứ và thầy
thuốc. Ngài đã bị giam cùng với Đức Cha Cao, cha Điểm, cha Khoa, thầy Phêrô Từ
và đã chịu tử hình ngày 10.7.1840, tại Đồng Hới.
·
Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, trùm cả Bình Định, một
trợ tá Đắc Lực của Đức Cha và hàng giáo sĩ. Ngài đã bị bắt và phát lưu vào Mỹ
Tho, nhưng vì quá gian khổ nên đã từ trần lúc vừa đến Mỹ Tho ngày 15.7.1855.
·
Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Câu Phủ Họ Đầu Nước,
tỉnh An Giang, rất nhiệt thành và quí mến hàng linh mục. Ngài đã bị bắt cùng
với cha Đoàn Công Quý và hy sinh vì Chúa tại Châu Đốc, ngày 31.7.1859.
·
Thánh Antôn Nguyễn Đích, thường gọi là ông trùm
Đích. Ngài rất đạo đức, yêu người nghèo và tận tụy giúp đỡ hàng giáo sĩ. Ngài
đã bị bắt cùng với con rể là Thánh Micae Lê Mỹ, vì cho linh mục Thánh Giacôbê
Mai Năm trú ngụ tại nhà. Cả ba đã trung kiên đến củng và đã bị xử trảm tại
Nam Định ngày 12.8.1938.
·
Thánh Mathêu Nguyễn Văn Phượng, một người nổi tiếng
đạo đức thông minh, được bầu làm trùm họ Sáo (t. 118) Bùn, Quảng Bình. Ngài bị
bắt vì tội chứa chấp cha Thánh Gioan Hoan và oa trữ đồ lễ cùng sách vở Công
giáo. Ngài đã bị xử trảm ngày 26.3.1861, tại Đồng Hới cùng với cha Hoan.
Những phụ nữ Công giáo Việt Nam đã anh
dũng tuyên xưng đức tin, như:
Thánh Anê Lê Thị Thành, một bà mẹ Công giáo gương mẫu. Vì sốt
sắng giúp đỡ các linh mục trong buổi cấm đạo, nên bà đã bị bắt và chịu quá
nhiều cực hình, thân thể đầy thương tích, lại không ăn uống được, nên kiệt sức
và chết rũ tù ngày 12.7.1841.
Những anh hùng vô danh mà từ Nam chí Bắc, ai đã sống trong những tháng
năm đầu thế kỷ 20 này đều có thể gặp. Đó là các cụ ông, cụ bà trước đây bị bắt
bớ, giam cầm, tra tấn, rồi bị người ta rạch mặt lấy mực tàu xâm lên má hai chữ
“Tả Đạo” để dù đi đến đâu, nhân dân ai cũng nhận ra đây là những người
ttheo đạo tả; nhưng đối với giáo dân, đây là biểu tượng của đức tin kiên cường
sáng chói.
“Chúng ta hãy ca tụng những bậc vĩ nhân, những bậc tiền bối của
chúng ta” (Giảng viên 44, 3) (t. 119)
6. TÔNG ĐỒ TRONG MỌI TÌNH HUỐNG
(1) Tông Đồ Hớt Tóc Dạo.
Lắm kẻ ở thành phố HCM quen biết một cụ già hớt tóc dạo theo đạo Tin
Lành, người rất vui vẻ, dù vợ đã chết, con cái ở xa, có đứa đi nghĩa vụ. Cụ
sống trong một căn nhà lụp xụp nhưng cảm thấy hạnh phúc. Mỗi khi khởi sự hớt
tóc là cụ nói ngay đến Phúc Âm, đến Chúa Jésus-Christ. Nhiều người khó quên
được câu nói của cụ: “Tôi không ham giàu gì; kiếm được đủ ăn và lo “hầu
Chúa”hằng ngày là tôi sung sướng thỏa mãn!”
Cụ hân hoan về sứ mạng Chúa Kitô trao cho cụ và đã lợi dụng nghề hớt
tóc của mình để triệt để thi hành sứ mạng ấy. (t. 124)
(2) Cha Gánh Nước Thuê.
Thời Tự Đức cấm đạo gắt gao, có một linh mục tên “cụ Thanh” cải
trang đi gánh nước thuê tại chợ Đông Ba, Huế. Ban ngày làm việc lam lũ, tối về
trú ngụ nhà bà Tham, thuộc xứ Gia Hội. Nhờ gánh nước thuê mà cụ Thanh tiếp xúc
được với nhiều giáo dân, cho họ chịu các phép Bí tích, giải tội cho các tín hữu
bị giam ở khám đường, nhất lá cho (t. 124) nhưng ai sắp ra pháp trường lãnh
phúc Tử Đạo. Cụ thường trà trộn trong dân chúng, làm dấu sao đó để các giáo hữu
nhận ra mình.
Lúc linh mục Đặng Đức Tuấn bị bắt đưa ra Huế để xử, ngài
được tự do tạm một thời gian để làm bản điều trần nổi tiếng về đạo Công giáo.
Trong những tháng ngày ấy, thỉnh thoảng ngài ghé thăm nhà bà Tham ở Gia Hội.
Trong nhà bà có tên đầy tớ hầu hạ cơm nước rất lễ phép, kính cẩn. Sau đôi ba
lần thăm viếng, cha Đặng Đức Tuấn để ý suy nghĩ:
“Anh này sao thấy có vẻ quen quen”.
Một hôm đang nồi ở bàn ăn, cha Tuấn đam đăm nhìn vào mắt tên đầy tớ ớ
gốc phòng, rồi bạo dạn hỏi:
“Phải mày không Thanh?”
“Thưa phải!”
“Trời đất! Vậy mà bao nhiêu tháng nay tao nhìn không ra!”
Nói đoạn cha Tuấn ôm choàng lấy cụ Thanh, nước mắt chảy ròng ròng… Thì
ra hai anh em đã học cùng nhau một trường ở Penang (Malaysia), sau bao nhiêu
năm dài xa cách giờ đây mới gặp nhau lại!
Cụ Thanh vẫn tiếp tục nghề gánh nước thuê như cũ … Cho đến một hôm,
sắc tha đạo được triều đính ban bố, Đức Cha Bình (Sohier) bấy giờ mới ra mắt
công khai và chọn ngày làm lễ tạ ơn trọng thể tại Kim Long, nơi có Tòa Giám
Mục. Giáo dân khắp nơi tựu về mừng lễ thật đông đảo. Cả những vị quan trong
triều và người bên lương ở Kinh đô cũng đến xem. Trong lễ hát trọng thể ấy, vị
chủ tế không phải là Đức Cha Bình mà là … Cụ Thanh. Giáo dân xôn xao, người bên
lương thì ngạc nhiên khen ngợi và trầm trồ bảo:
“Ngỡ là ai, hóa (t.125) ra cụ Thanh gán nước tuê ở chơ Đông
Ba. Không ngờ ông ta giữ chức vụ to đến thế. Ông ca La tinh thật hay mà cả ông
Tây cũng phải quỳ chầu nữa…”
Cụ Thanh đã tìm ra phương pháp tông đồ cho thời đại mình
dưới ánh sánh soi dẫn của Chúa Thánh Linh. (t.126)
(3) Tre Tàn, Măng Mọc.
Thánh Gioan Đoàn Trinh Hoan sinh năm 1798 tại Kim Long, tỉnh
Thừa Thiên. Ngài là một linh mục thánh thiện gương mẫu, đã can đảm hy sinh vì
Chúa tại Đồng Hới ngày 26.5.1861. Mặc dù thời buổi cấm cách ngặt (t.130) nghèo,
ngài không quên nhiệm vụ to lớm và quan trọng cho tương lai là lo chuyển bó
đuốc tông đồ sang tay các thế hệ trẻ. Ngài đã huấn luyện được 12 người con làm
linh mục. Vì thế, tuy máu ngài đã đổ ra vì Chúa, 12 người con ấy vẫn tiếp tục
sứ mạng anh dũng của ngài cho đến ngày tàn của cuộc đời. Và họ cụ thể, “tre
tàn măng mọc”, lớp này ngã xuống, lớp khác đứng lên! (t.131)
(4) Cha Của Người Cùi. (t. 133)
Sau 15 năm làm Giám mục địa phận Sàigòn, Đức Cha Gioan Cassaigne đã
tình nguyện về sống giữa những bệnh nhân cùi thân yêu ở Di Linh, trong một ngôi
nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không giữ một địa vị nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật
là một chứng nhân tình yêu Thiên Chúa, một con người của bác ái vị tha. Mười
tám năm trời ngài sống trong thinh lặng giữa rừng núi thâm u, với những bệnh
nhân quê mùa chất phác, không mấy ai biết rõ, nhưng khi quả tim của vị anh hùng
ấy ngừng đập, thì quả tim của của dân Việt cũng như của toàn thể thế giới đều
rung cảm lên. Ai nấy đều cảm phục tấm gương chứng nhân anh dũng của ngài.
(t.134)
7. THANH BẦN, MỘT MỐI PHÚC THẬT
(1) Linh Mục “Ba Xu”.
Cách đây 40 năm, có một cha Việt Nam sống rất nghèo khó và đạo đức.
Đặc biệt với số tiền tiết kiệm từng xu năm này sang năm khác, ngài đã cùng hai
người thợ dần dân xây xong một ngôi nhà trang an, sáng sủa.
Mỗi ngày ngài ăn hai bữa, mỗi bữa ba xu va tự nấu ăn lấy: một xu gạo,
một xu mắm tôm và một xu tráng miệng bằng một mẩu bánh hình ông Phật mà dân địa
phương vẫn gọi là bánh “Tam ích”. Lúc nào cũng có người dâng cúng dư
tiền mua vật liệu thì công việc tiến hành mạnh hơn, đến lúc sạch túi thì tạm
đình chỉ. Tiền bổng lễ mỗi ngày mấy hào ngài cũng dành để trả công thợ.
Lúc mới khởi công ai cũng nói:
“Biết bao giờ mới xong được!”.
Đến ngày khánh thành, mọi người đều hoan hỉ, cảm phục và tặng cho vị
linh mục một biệt hiệu đơn sơ nhưng nói lên tất cả lòng thương mến biết ơn: “Cha
Ba Xu”. Vì quá lao lực và cam khổ, chỉ vài năm sau, “Cha Ba (169) Xu”
qua đời giữa sự thương tiếc của mọi người. Trước lúc nhắm mắt lìa trần, ngài
nói:
“Tôi sung sướng vì đã hy sinh tất cả để làm việc Chúa, tử lao bất
tử lao”.
Ngày, ngôi thánh đường vẫn còn sừng sững trước mặt mọi người như tấm
gương phản chiếu đức thanh bần và hồn tông đồ sáng chói của vị linh mục. (t.
170)
8. TRONG TRẮNG ĐỂ XỨNG ĐÁNG GẦN CHÚA
(1) Lời Cầu Nguyện Của Một Linh Mục
Cha Michel Quoist là một linh mục thánh thiện đã viết rất nhiều sách
báo giúp các linh hồn, trong số đó có cuốn “Prières” mà lắm người quen
thuộc. Riêng trong bản Pháp ngữ, tác phẩm ấy đã in tới 350.000 cuốn. Gần đây,
nó đã được dịch sang Việt ngữ dưới một nhan đề rất thi vị “Lời Kinh Thắp
Sáng Cuộc Đời”:
Bài “Lời Cầu Nguyện Của Một Linh Mục Chiều Chúa Nhật” trong tác
phẩm ấy nói lên tất cả tâm hồn ngài, tâm hồn nhiều anh em linh mục, với sự yếu
đuối lẫn sự cao cả của một cuốc đời hiến dâng. Có thể nói đây là lời kinh diễn
tả một cuộc đấu tranh, một đời quyết chiến:
“Lạy Chúa, chiều nay một mình trơ trụi. Những tiếng đồng hồ trong nhà
thờ lịm tắt dần. Những ngưòi đi chấu đi lễ đã ra hết cả rồi. Và con cũng lủi
thủi trở về nhà xứ, một thân một bóng.
“Con đã gặp những kẻ đi dạo chơi về. Con đã đi ngang qua rạp hát vùa lúc
đám đông đổ xô ra. Con đi dọc thềm các quán càphê ở đó có nhiều người đi dạo,
dáng vẻ đã mệt mỏi, đang ngượng ngạo kéo dài cuộc vui của ngày Chúa Nhật. Con
đụng phải những đứa trẻ đang (t. 181) đi chơi trên vỉa hè. Những đứa trẻ, lạy
Chúa, những đứa trẻ của người khác, chứ không bao giờ là của con.
“Lạy Chúa, này con đây. Một bóng một thân. Yên lặng làm con ngạt thở.
Cô đơn làm con bực nhọc. Lạy Chúa, năm nay con được 35 tuổi… với một thân thể
như bao người khác, với những bàn tay chắc chắn để làm việc, với một quả tim
được dành để yêu đương. Nhưng con đã hiến dâng tất cả cho Chúa, vì thật ra Chúa
đang cần những cái đó. Con đã hiến dâng tất cả cho Chúa. Nhưng Chúa ơi, dâng
như vậy thật là đau khổ.
“Thật là đau khổ, khi con phải dâng thân xác cho Chúa: vì thân xác đó
cũng tận hiến cho một người khác.
Thật là đau khổ, khi con phải yêu mọi người mà không được giữ lại
riêng ai.
Thật là đau khổ, khi con bắt một bàn tay mà không được muốn cầm giữ
lại.
Thật là đau khổ, khi con vừa gây được một tình cảm, đã phải vội dâng
cho Chúa.
Thật là đau khổ, khi con không cho mình chút nào, mà phải hoàn
toàn sống cho tha nhân.
Thật là đau khổ, khi con phải sống như những người khác, giữa những
người khác, mà phải là một người khác.
Thật là đau khổ, khi con phải luôn luôn ban phát mà không được tìm
cách nhận lãnh.
Thật là đau khổ, khi con phải đến với những người khác mà chẳng hề có
một kẻ tìm đến với con.
Thật là đau khổ, khi con phải đớn đau vì tội lỗi của tha nhân,
nhưng lại không có quyền từ chối nhận lãnh và gang chịu chung.
Thật là đau khổ, khi con biết những kín nhiệm mà không được thổ lộ chi
ai.
Thật là đau khổ, khi suốt đời con phải luôn luôn lôi kéo tha nhân mà
không để một ai kéo lôi, dù chỉ trong chốc lát.
Thật (t.182) là đau khổ, khi con phải luôn ra tay nâng đỡ những người
yếu đuối, còn chính mình lại không thể nương tựa một kẻ mạnh hơn.
Thật là đau khổ, vì phải cô đơn, cô đơn trước mọi người, trước cái
chết, trước tội lỗi.
“Này con, con không cô đơn. Ta đang ở với con.
Vì ta cần một nhân tình thứ hai để tiếp tục màu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Từ
muôn thuở, ta đã chọn con. Ta cần đến con.
“Ta cần đến con, đề tiếp tục chúc phúc. Ta cần
đến môi con, để tiếp tục rao giảng. Ta cần đến thân con, để tiếp tục đau khổ.
Ta cần đến tim con, để tiếp tục yêu thươg. Ta cần đển con, để tiếp tục cứu độ.
Con ơi, hãy ở lại với Ta.
“Lạy Chúa, này con đây.
Này thân xác con đây. Này trái tim con đây. Này linh hồn con đây.
“Xin cho con được cao thượng đủ, để vượt lên khỏi thế gian.
Xin cho con được mạnh mẽ đủ, để nâng đỡ thế gian.
Xin cho con trong sạch đủ, để ôm ấp thế gian vào lòng mà không hề muốn
giữ lại nó.
Xin cho con trở nên một nơi gặp gỡ tạm thời thôi.
Xin cho con trở nên một con đường không dừng lại ở bản thân, bởi vì nó
có thể tiếp nhận một ai, chỉ là để dẫn đưa họ về cùng Chúa.”
“Lạy Chúa, chiều nay, khi vạn vật đều im tiếng và khi trái tim con cảm
thấy đau nhói vì cô quạnh. Khi ai nấy đang ngấu nghiến tâm hồn con, mà con lại
bất lực không thể làm họ thỏa mãn. Khi bao nhiêu khốn nạn về (t. 183) tội
lỗi của thế gian là cả một khối nặng đang đè trên vai con. Thì con nói lại với
Chúa tiếng “Xin Vâng”, không phải một trong tiếng cười vang, như là chầm chậm
khiêm tốn, sáng suốt, một mình trước mặt Chúa, giữa cảnh chiều tà êm ả”.
(2) Vấn Đề Độc Thân Của Các Linh Mục.
Nhiều lần chúng tôi đã nghe đề cập đến vấn đề sống độc thân của các
linh mục. Đối với giáo dân Việt Nam và đại đa số giáo dân trên thế giới, thì đó
là điều được mọi người tự nhiên chấp nhận và đòi hỏi: Người tận hiến cho Chúa,
thì phải dâng tất cả cuộc đời để làm chứng tình yêu vô hạn của Chúa, và để đủ
điều kiện phục vụ dân Chúa cách tích cực, hữu hiệu hơn.
Trước tiên cần xác định như sau: Sống độc thân không chỉ là một giá trị
thuần siêu nhiên, mà cả trong địa hạt nhân bản nữa. Người sống độc thân không
trực tiếp nhằm đến việc từ chối hôn nhân, nhưng coi độc thân là điều kiện để
qui hướng con tim về một đích điểm khác hẳn một thiếu nữ, tức là Nước Thiên
Chúa. Họ tìm thực (t. 185) hiện bản ngã, và điều ấy làm họ sung sướng, thỏaq
mãn con tim trong Chúa Kitô. Một thái độ rất “người” với một nguyên do siêu
việt! Khi nói rằng đời độc thân thánh hiến là dấu chỉ cuộc sống vĩnh cửu, điều
ấy không ám chỉ một sự trốn thoát cuộc sống hiện tại. Vì cuộc sống vĩnh cửu,
chính là Nước Thiên Chúa, là sự hiện diện của hồng ân Thiên Chúa ngay trong đời
sống hiện tại, một sự hiện diện thúc đẩy con người mong ước hiến trọn tính yêu.
Độc thân và hôn nhân là hai tiếng gọi, hai ngả đường khác nahu để thực
hiện lời mời gọi của Chúa Kitô:
“Hãy nên hoàn hảo như Cha các con ở trên trời là Đấng hoàn hảo.”
Nhưng sở dĩ truyền thống vẫn cho bậc độc thân thánh hiến là cao trổi
hơn bậc sống đôi bạn, vì là truyền thống không xét đến phương diện cá nhân: mỗi
người đều hoàn hảo nếu thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa Kitô, nhưng xét đến bỉnh
diện thực hiện cuộc sống vĩnh cửu giá trị hơn cuộc sống trần gian rất mực. Do
đó sứ mạng của đời sống độc thân là ôm trọn đời sống
vĩnh cửu và đem tỏ lộ cho trần gian.
Đời sống độc thân có ý nghĩa là sứ mệnh tuyệt vời như thế, nhưng không
thiếu những tranh luận, chống đối xảy ra trong lòng Hội Thánh, nhất là trong
thời đại hậu Công đồng Vatican II và sau ngày Thông điệp “Sacerdotalis
Coelibatus” của Đức Phaolô VI (24.6.1967) ra mắt. Nhiều linh mục đã bỏ ra
đi. Nhiều giáo dân lên tiếng đề nghị:
“Cứ làm như bên giáo hội Tin Lành và giáo hội Chính Thống: chấp
nhận cho Mục sư và (t.186) linh mục của họ được tự do sống độc thân hay lập gia
đình. Như thế có phải là đơn giản hơn không!”
Thay vì tranh luận với kiểu luận lý sơ sài như trên, ta hãy nghe đôi
lời tâm sự của các bậc có uy tín trong vấn đề độc thân nói lên kinh nghiệm của
họ.
Mục sư Jungmann nói:
“Quí vị đừng có chỉ nghĩ Giáo hội Công giáo của quí vị gặp khủng
hoảng. Bên Tin lành chúng tôi còn gặp khủng hoảng hơn bên quí vị rất nhiều!”
Trong một cuộc họp mặt giữa các linh mục Công giáo và các Mục sư Tin
lành, một Mục sư đã nói cảm tưởng của mình về đời sống độc thân như sau:
“Tôi bắt đầu hiểu giá trị đời sống độc thân trong Giáo hội Công
giáo. Tôi cảm thấy các cha là anh em với nhau và tạo nên một gia đình thực sự.
Chúng tôi không thể nói như thế đối với chúng tôi… Nếu một mục sư nào đó thành
công, tôi không sung sướng gì; nếu một Mục sư nào đó đau khổ, tôi không đau khổ
với họ… Giữa chúng tôi không có bàu không khí gia đình, họa chăng chỉ có giữa
vợ chồng chúng tôi thôi!”
Dịp Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971, trong đó hai vấn đề
chính là thừa tác vụ của linh mục và công bình trên thế giới, Đức Tổng Giám Mục
Công giáo ở Beyrouth (Liban) đã tâm sự những lời sau đây:
“Các Đức Cha hãy cố giữ lấy kho tàng quí báu của Giáo hội La Mã,
từc là luật độc thân linh mục. Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này, vì
giáo phận tôi, giáo phận theo nghi thức Đông phương, có những linh mục độc thân
và những linh mục lập gia đình. Lắm vấn đề phức tạp mà quí vị không thể tưởng
tượng được!” (t. 187)
Các giáo phận Công giáo chúng tôi, cũng như bên Chính thống, luôn luôn
ở Toà Giám mục mấy cha độc thân để dự phòng sau này làm Giám mục kế vị chúng tôi,
vì Giáo luật đòi buộc các Giám mục phải độc thân, không có gia đình.
Lại còn phức tạp do luật buộc linh mục chỉ được kết hôn một lần trước
khi chịu chức thánh, có những trường hợp linh mục mới 30 tuổi, 35 tuổi mà đã
góa vợ, tay bồng tay bế, lũ con nheo nhóc, không ai nuôi dưỡng. Thực là nan
giải!
Đối với các giáo phận có một linh mục qua đời để lại một
gia đình neo đơn, con thơ vợ dại thì thực là một gánh nặng tài chánh rắc rối.
Bên Giáo hội Latinh, một linh mục chết rồi chẳng phải giải quyết gì cho gia
đình cả!
Trong lãnh vực mục vụ càng phức tạp hơn: mặc dù tập quán linh mục đã
có từ xưa truyền lại, giáo dân vẫn quí mến linh mục độc thân hơn: các ngài có
thể ở xa hoặc đi đến đâu, họ cũng tìm cách gặp gở để xin lễ, xưng tội.
Linh mục có gia đình chỉ phục vụ trọn vẹn trong ngày Chúa nhật, còn
những ngày khác thì đi làm ăn để chu cấp cho gia đình. Như thế làm sao mà tiếp
xúc được với đồng đạo giáo dân? Thuyên chuyển một linh mục có gia đình thật là
một vấn đề khó khăn. Được lệnh ông sẽ bảo:
“Con sẵn sàng đi, nhưng nhà con đang mắc làm việc ở công sở kia,
các cháu lại còn đang theo học ở trường nọ, gia đình con không nhất trí đến địa
phương ấy!”
Lắm lúc vị linh mục ấy thì tốt, nhưng bà vợ hoặc con cái
chưa nói là xấu, chỉ nói là (t.188) giáo dân không có thiện cảm, thì cũng đủ để
họ ghét luôn ông linh mục, rồi dần xa việc đạo; trường hợp xảy ra sự thù hằn
thì họ mất đức tin luôn! Mà nếu thuyên chuyển vị linh mục ấy không được, thí
cha truyền con nối, tiếp tục giữ nhà xứ phải chịu sự áp bức của một gia đình,
nên đời sống đạo hạnh sa sút không thể tưởng. (t. 189).
9. GIA ĐÌNH CHUNG THỦY, MÔI TRƯỜNG SỐNG THÁNH
Ngày 17.9.1798, thời vua Cảnh Thịnh, Tây Sơn, một người anh hùng xứ Huế
gục ngã: Thánh Emmanuel Nguyễn Văn Triệu. Pháp trưởng in vết máu đỏ của ngài.
Trước đó, trên quãng đường từ khám đường đến nơi hành quyết, người ta thấy một
bà cụ già đi bên cạnh (t. 192) phạm nhân để an ủi, động viên, khích lệ con can
trường chết vì đạo Chúa.
Khi lý hình vừa hoàn tất phận sự: đầu của Emmanuel Triệu vừa rụng
xuống, thì giáo dân nhất loạt ùa ra lấy bông và vải thấm máu của ngài. Bà mẹ
của ngài tiến thẳng đến trước mặt quan:
“Bẩm quan, khi con tôi còn sống thì thuộc quyền của quan, nay con
tôi đã chết, xin quan cho tôi được lĩnh xác mang về chôn cất, hay ít nữa được
chiếc đầu.”
Quan truyền binh lính mang ngay chiếc đầu phạm nhân cho bà. Bà mẹ già
bình tĩnh lấy vạt áo trước bọc đầu con lại, ôm siết vào ngực, giữa đôi bàn tay
xương xẩu và đi bộ trên 10 cây số để trở về nhà. (t.193)
10. HỌC MÃI, HỌC SUỐT ĐỜI LÀ KHIÊM TỐN
(1) Cha Đẻ Tiếng Việt.
Không người Việt Nam chính hiệu nào mà lại không biết đến tên cha Đắc
Lộ, một giáo sĩ người Pháp mà danh tính gắn liền với chữ quốc ngữ của dân tộc
(t.277) ta; nhưng thật rất ít người biết trong hoàn cảnh nào ngài đã làm nên
một công trình vĩ đại như thế.
Ở đây, thiết tưởng ta nên nhắc lại những lời nói đầu tiên ngài ngỏ với
dân bản xứ khi tàu vừa cập bến Cửa Bạng ngày 19.3.1627:
“Đây là tàu của người Bồ Đào Nha, những người danh tiếng lừng lẫy
khắp phương Đông… Hiện giờ tàu của họ có chở một thứ hạt trai tuyệt đẹp và quí
giá, ai muốn mua thí cả đời được giàu có hạnh phúc muôn thuở. Không nên sợ giá
cao, vì chẳng ai nghèo đến nổi không đủ tiền để mua trai ấy.”
Tổ tiên chúng ta mới khấp khởi vui mừng, xin ngài ít là cho xem qua
đôi ba hạt. Ngài trả lời:
“Hạt trai ấy mắt xác thịt không thể xem thấy được, chỉ có trí khôn
hiểu được mà thôi. Hạt trai ấy chính là lề luật Thiên Chúa, một cái gì quí
trọng hơn trân châu và hàng hóa Ấn Độ. Chúng tôi sẵn sàng giảng luật đó cho anh
chị em, nên không ngại vượt biển băng ngàn đến đây.”
Lúc đó vào thời hai chúa Trịnh Nguyễn, một thời vừa có
chiến tranh vừa có cấm cách, bắt đạo Chúa. Sự đi lại vô cùng khó khăn, nhất là
đối với một ông Tây “da hồng mũi lõ”! Vì thế thường cha Đắc Lộ phải giảng dậy,
làm lễ, cử hành các bí tích ban đêm. Còn ban ngày, ngài di chuyển bằng cáng:
hai người gánh một chiếc võng, ngài nằm trong đó, lấy chiếu che lại. Dạo ấy, từ
sông Gianh đến Phan Thiết chỉ có lưa thưa một vài giáo sĩ. Lắm lúc cả địa hạt
rộng lớn ấy chỉ có một mình cha Đắc Lộ tung hoành. Ngài phải lẩn trốn nhiều
vùng, phải âm thầm đi đi lại lại để củng cố giáo đoàn Đàng Trong. Mỗi lần ra
đến Huế, ngài lại còn lo cho cả giáo dân thuộc (t.278) địa phận Đàng Ngoài nữa.
Các đại diện của giáo dân bên kia sống Gianh vào gặp ngài, chịu các phép bí
tích, nhận chỉ thị để rồi trở về củng cố cuộc sống đức tin của các giáo hữu
vắng bóng chủ chăn.
Khắp Đàng Trong, không chỗ nào mà không in dấu cha Đắc Lộ. Ba lần ngài
bị phát giác phải đuổi về Macao, và mỗi lần như thế, đợi bàu khí hơi hơi lắng
dịu ngài lại sắm sửa lễ vật sang dâng cho Chúa Nguyễn, đi theo ghe thuyền nhà
buôn trở lại Việt Nam.
Không có văn phòng, quạt điện, máy điều hòa, thư viện, thiếu hẳn mọi
tiện nghi tói thiểu, thế mà cha Đắc Lộ soạn thảo thành công cuốn “Phép giảng
8 ngày cho những người muốn chịu phép Rửa Tội mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời”
và cuốn tự điển: “Ba Thứ Tiếng Việt-Bồ-La” gồm cả văn phạm tiếng Việt,
cách dùng chữ Latinh thay cho chữ Nôm, lối phát âm… Ngài đã mang về ấn loát tại
nhà in Vatican vào khoảng năm 1651, làm nền tảng cho tiếng Việt ngày nay.
Dĩ nhiên, ngài đã căn cứ vào công trình của nhửng người
tiền phong như cha Buzomi chẳng hạn. Nhưng ngài đã có công lớn trong việc tổng
hợp, phân tách từ ngữ, xác định văn phạm, phát âm và đưa tất cả đến tình trạng
hoàn chỉnh để phục vụ Hội Thánh. Ngài đã thâm tín rằng: ngôn ngữ là khí cụ
thiết yếu để đưa Tin Mừng đến cho mọi dân tộc, không phải chỉ trong chốc lát mà
còn cho muôn vàn thế hệ mai sau. Chắc chắn phải có một tâm hồn hiếu học, một
tinh thần tông đồ nồng cháy mới có thể kiên trì nghiên cứu, bảo quản và hoàn
thành (t.279) một công trình khó khăn như thế, giữa bao thử thách gian nan.
(t.280)
11. PHÁT TRIỂN MUÔN MẶT, PHỤC VỤ ĐÍCH THỰC
(1) Kinh Tế Phục Vụ Con Người
Cha Louis-Joseph Lebret (1897-1966), cựu sĩ quan
Hải Quân, là một tu sĩ dòng Đaminh, đã có công khởi xướng và cùng với nhà
chuyên môn giàu thiện chí khác (như cha: Th.Suavet, H.Quoist) lập nên một học
thuyết, đồng thời cũng là một nhóm mang tên “Kinh (t.291) Tế và Nhân Bản”
(Économie et Humanisme) nhằm mục đích phát động một nền kinh tế phục vụ con
người!
Sau khi nghiên cứu và đúc kết thành một học thuyết, một hệ
thống thực sự, ngài đã cùng với các đồng chí cho xuất bản nhiều sách báo, vạch
ra một đường hướng phục vụ thế giới mới mẻ, ai muốn hưởng ứng thì cứ vận dụng
cách sáng tạo vào hoàn cảnh của địa phương mình.
Cha Lebret được mời du hành khắp thể giới (từ nhiều làng
bên nước Pháp tới những xứ kém mở mang, từ trụ sở Liên Hiệp Quốc tới Hội Trường
Công Đồng Vatican II) để trình bày đường lối của ngài về “Kinh Tế và Nhân
Bản”. [ Chú của người tổng hợp: NGÀI ĐÃ TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH NÀY
TẠI VIỆT NAM HAI NĂM 1958-1959, THỜI CHẾ ĐỘ VNCH I].
Ngài nhấn mạnh rằng:
“Phải làm sao để vừa phát triển nền kinh tế, vừa phát
triển con người toàn diện, vật chất cũng như tâm linh, và phát triển đồng đều
trên mọi miền khắp thế giới.”
Ngài đã để lại lời cầu nguyện sau đây thật đáng cho chúng
ta suy niệm:
“Lạy Chúa, lỗi tại con,
Tại con không chân thành yêu anh chị em con,
Tại con không cảm thấy đau khổ trước những khốn cùng của
anh chị em con,
Tại con hay thờ ơ lãnh đạm bên cạnh người xấu số,
Tại con đã khinh dể nhiếu người, nhất là những người nghèo
hèn, những người có địa vị kiến thức kém hơn con,
Tại con không giữ đúng như lời cam kết, (t.292)
Tại con không ăn ở d6ẽ dãi với kẻ khác, không sẵn sàng với
kẻ khác,
Tại con không biết tìm hiểu hoàn cảnh của người ta,
Tại con đã từ chối một sự giúp đỡ, theo tính ích kỷ của
con,
Tại con không ra tay xoa dịu một vết thương mà lẽ ra con
phải làm,
Tại con chỉ tới lui kết nghĩa với những người mà con mong
sẽ đem lại lợi ích cho con,
Tại con đã làm tổn thương người ta nhiều vì lời ăn tiếng
nói của con,
Tại con đã hạ bệ những kẻ đối nghịch với con,
Tại con đã láo xược và ăn ở bất công,
Tại con đã làm gương xấu quá nhiều …,
Nên anh chị em con đã bị tổn thương nhiều vừa hồn vừa xác.
Lạy Chúa, lỗi tại con!!! Xin Chúa tha thứ cho con.
Và con cũng xin Chúa tha thứ cho những anh chị em
vì lỗi con mà đã sống bất xứng” (t.293)
12. DẤN THÂN QUÊN MÌNH VÌ NGHĨA CẢ
(1) Thí Mạng Cho Người Hủi Việt Nam.
Trong nước Việt Nam cũng như trên thế giới, ngườì ta nghe nói niều đến
nhà phung Quy Hòa, ở ngoại ô thị xã Qui Nhơn, nhưng thử hỏi mấy ai biết đến vị
sáng lập nhà phung ấy! Vị đó là cha Paul Maheu, một linh mục người Pháp
đã từ giã quê hương thân yêu với cuộc sống tiện nghi, để chôn đời mình giữa đám
người xa lạ, mắc phải thứ bệnh khủng khiếp nhất trong loài người.
Thật thế, bệnh phung cùi là một thứ bệnh khủng khiếp nhất.
Ai mắc nó phải chịu một cơn hấp hối trường kỳ, dai dẳng. Thân thể họ luôn luôn
nhức nhối, lở loét, xông mùi thối tha nồng nặc. Dung nhan thì dần dần bị tàn
phá, đặc biệt là khuôn mặt và chân tay, ai trông cũng xa lánh và nhờm tởm. Xã
hội quá khiếp sợ họ nên thường tìm cách xua họ vào một nơi khuất mặt và như
muốn lãng quên đi kẻo mất vui cuộc sống. (t.296)
Paul Maheu thì lại khác. Là một linh mục Công giáo, ngài đã dấn thân
vào nếp sống của người cùi, chọn họ làm con cái quý yêu cật ruột, sống trong
một ngôi nhà bé nhỏ ngay giữa làng phung để đêm ngày săn sóc họ, lo cho họ đầy
đủ vật chất cũng như tinh thần.
Phía sau nhà có một cái kẻng. Mỗi lần nghe tiếng kẻng đánh, cha vội đi
ra và dịu dàng hỏi:
“Có việc gì vậy con? Vào đây!”
Ngày nào cũng thế. Điệp khúc ấy cứ ang lên đều đặn, và con tim
của những người phung hủi hân hoan đón lấy. Rồi đến lượt họ, họ cũng cất lên
những lời tâm sự, vì trong cảnh cô đơn buồn tủi ấy, chỉ mình cha Maheu là người
thân tín duy nhất của họ thôi.
“Thưa cha, con đau buồn quá! Đêm nay con mới rụng thêm một đốt ngón
tay nữa. Con đã lượm được, nè đây cha xem!”
Cha Maheu cầm lấy đốt lóng tay, thương tiếc như chính một phần thân
thểcủa mình. Ngài ôm choàng lấy bệnh nhân, ngẹn ngào thốt lên những lời an ủi
động viên tinh thần họ:
“Tội nghiệp con quá! Ta hãy cứ chiến đấu với bệnh tật, cứ dùng thêm
thuốc để chặn đứng cơn bệnh đi…”
Đối với cha Maheu, không gì quí bằng các người phong hủi.
Ngài không thể rời họ một ngày, không thể không tìm cách khen lao họ khi có dịp.
Mỗi khi khách từ xa tới thăm, ngài thường mời ở lại dùng bữa. Trong lúc ăn,
miệng ngài liên tiếp giới thiệu: (t.297)
“Mời dùng trứng này, do gà của người phung nuối đấy! Mời dùng cá
này cũng của người phung mới câu hồi sáng; còn đây là xà-lách cũng do tay người
phung trồng đấy! Tốt lắm!”
Vừa mời, ngài vừa ăn một cách ngon lành trong lúc khách
thì quá khiếp sợ, chẳng dám dùng một tí gì, chứ đừng nói chuyện ăn với uống.
Không mấy năm sau, cha Maheu đã trở thành người phung thực sự. Càng
đau đớn càng có dịp để chia sẻ cuộc đời của họ, họ càng yêu mến trọng kính
ngài. Và rồi một hôm, người hùng dấn thân đã nằm xuống, xác ngài được chôn cất
ngay giữa làng cùi bên cạnh những người con thân yêu nhất. (t.298)
(2) Hóa Nên Người Trung Hoa Để Chinh Phục Người Trung Hoa.
Tuy là người Bỉ, cha Vincent Lebbe (1877-1940) đã tình nguyện
dấn thân sang truyền giáo ở Trung quốc. Suốt bao năm ngày, ngài luôn miệt mài
thao thức, suy tư và cầu nguyện trước vấn đề khó khăn: Làm sao để dấn thân
truyền giáo và phục vụ xã hội Trung Hoa cho đắc lực. Thế rồi, dưới ánh sáng soi
dẫn của Chúa, câu trả lời đã đến với cha:
“Muốn đến với người Trung Hoa phải trở nên người Trung Hoa thực sự.”
Cha Vincent Lebbe đã triệt để dấn thân theo đường hướng ấy, từ lối cắt
tóc, để râu, ăn mặc cho đến cách suy tư, cử hành phụng vụ, giảng dậy giáo lý
(ngài xin nhập tịch Trung Hoa và lấy tên Lôi Minh Viễn), tất cả đều nhắm một
mục đích là làm sao để vừa phù hợp với tâm hồn người Trung Hoa, vừa bảo tồn căn
nguyên bản chất Kitôgiáo. Và trong tinh thần ấy, ngài đã thành lập một hội dòng
lấy tên “Anh em hèn mọn của Thánh Gioan Tẩy Giả” để vận dụng cách sáng tạo nếp
sống khổ tu vào (t.300) hoàn cảnh cụ thể của xã hội và tâm hồn người Trung Hoa
và áp dụng nguyên tắc truyền giáo của ngài.
Tại nước Bỉ, quê hương ngài cũng có rất nhiều người sung mộ tinh thần
ấy. Họ đã lập nên một Tu hội truyền giáo cho các linh mục viết tắt là S.H.H.
tạm gọi là “Hội Trợ Tá của các xứ truyền giáo”. Họ cũng lập một Tu Hội cho nữ
giới viết tắt là A.F.I. (Nữ Trợ Tá Quốc Tế)
Tinh thần cốt yếu của cha Lebbe là gì?
Đó là không đi theo phương pháp bấy lâu: đến một quốc gia, nhận trách
nhiệm coi sóc một giáo phận hoặc một giáo xứ, đứng đầu hàng giáo sĩ địa phương…
mà là theo một phương pháp mới: đến một quốc gia, một giáo phận do hàng giáo phẩm
bản xứ quản trị v àlàm những trợ tá phục vụ dưới quyền họ, cho dù họ kém khả
năng hơn mình. Đối với những năm đầu của thể kỷ XX này, chủ trương trên thật là
mới mẻ, độc đáo có tình chất cách mạng. Vì trước đây, tại các xứ truyền giáo,
hầu như chẳng có một vị Giám mục bản xứ nào, huống nữa là sự kiện các linh mục
thừa sai đi làm trợ tá cho hàng giáo sĩ bản xứ. Quả là táo bạo!
Và còn táo bạo hơn nữa là sự việc sau đây: Trong một chuyến trở về
công tác ở châu Âu, cha Lebbe đã sang Roma xin yết kiến Đức Thánh Cha Piô XI,
vị Giáo Hoàng được mệnh danh là “Giáo Hoàng của Công Giáo Tiến Hành” và
“Giáo Hoàng của Truyền Giáo”.
Trong buổi triều yết, ngài đã trình bày với Đức Piô XI: (t.301)
“Xin Đức Thánh Cha đặt các Giám mục bản xứ cho người Trung quốc.”
Đức Thánh Cha vui vẻ trả lời:
“Đó là điều cha mong muốn. Con thấy hàng giáo phẩm Trung quốc hiện
nay có đủ khả năng nhận trách nhiệm lãnh đạo nhận các giáo phận không?”
“Thưa Đức Thánh Cha, con tin chắc là có. Với ơn Chúa họ sẽ chu toàn
tốt trách nhiệm… Con thấy Tòa Thánh cần giao trách nhiệm cho hàng giáo sĩ bản
xứ càng sớm càng tốt.”
Đức Thánh Cha hỏi ngay:
“Con có biết rõ linh mục Trung quốc nào xứng đáng được tấn phong
làm Giám mục không?”
“Thưa Đức Thánh Cha có!”
“Biên tên cho cha ngay đi!”
Cha Lebbe liền lấy giấy bút ra, viết ngay liền một danh sách gồm tên
10 linh mục Trung quốc và đệ trình lên Đức Thánh Cha.
“Tốt lắm! Cha sẽ xúc tiến ngay việc này!”
Thật là một bất ngờ ngoài sức tưởng tượng. Cha Lebbe ra về, tâm hồn
cảm động hân hoan. Đức Piô XI quả là một vị Giáo Hoàng đây nhiệt tình và sáng
suốt!
Ngày lễ Chúa Kitô Vua, 28.10.1926, chính Đức Piô XI chủ sự phong chức
cho 6 Giám mục Trung quốc đâu tiên tại đền thờ Thánh Phêrô, trong số đó hầu hết
đều nằm trong danh sách của cha Lebbe đề nghị. Lúc ấy tại một góc đền thờ,
người ta thấy ngài quì gối âm thầm cảm tạ Chúa, vì đã cho ngài chứng kiến tận
mắt điều ngài mong ước từ lâu. Sau Thánh Lễ, Đức Piô XI tiếp các Tân Giám mục
Trung quốc tại phòng khác, (t.302) tặng cho mỗi vị một chiếc dồng hồ quả lắc và
truyền các ngài trước khi về nước, hãy đi khắp Âu châu để cho mọi người thấy
được hang Giám mục bản xứ. Thề rồi, tiếp sau các Giàm mục Trung Quốc ngày
30.10.1928, Đức Piô XI cũng tự tay phong chức cho các Giám mục Nhật Bản tiên
khởi địa phận Nagasaki, rồi các Giám mục Ấn Độ, Indonêsia…
Ngày 11.6.1933Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng cũng được chính tay
Đức Piô XI tấn phong làm Giám Mục Việt Nam tiên khởi.
Sau những tháng năm dấn thân phục vụ cho công cuộc truyền giáo, cha
Vincent Lebbe đã nằm xuống (1940). Dân tộc Trung quốc coi ngài như một vị anh
hùng quốc gia. Hội Thánh coi ngài như vị tiên phong của những công cuộc truyền
giáo hiện đại. Thân xác ngài được chôn vùi ngay tại lòng đất Trung Hoa, để lại
tấm gương sáng cho Kitôhữu thuộc đủ mọi thời. (303)
13. CANH TÂN CHÍNH MÌNH VÀ QUANH MÌNH
Hoạt Động Canh Tân Của Đức Phaolô VI.
… Riêng đối với Việt Nam, Đức Phaolô VI đã gọi là một “ngày
đáng ghi nhớ” lúc ông Xuân Thủy, đại diện chính phủ của Việt Nam đến
Vatican ngày 14.2.1973. Ba tháng sau, Đức Phaolô tiếp kiến ông (t.329) Nguyễn
Văn Hiếu, trưởng phái đoàn của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Chủ Nghĩa Xã Hội
Việt Nam ở Hội nghị La Celle-Saint-Cloud. Trước đó vào tháng 2.1971, Vatican đã
tiếp bà Nguyễn Thị Bình, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời
và à Trưởng phái đoàn của Chính Phủ này tại Hội Nghị Paris. Đức Phalô VI chỉ
nói cách khiêm tốn về “một cuộc dấn thân theo sức chúng ta” để vãn hồi
hòa bình chính đáng và lâu dài, bảo đảm cho con người được sống trong tự do
hạnh phúc xứng với mọi dân tộc. (t. 331)
14. CUộC SốNG MớI MUÔN ĐỜI TRONG CHÚA
(1) Bức Thư Trước Giờ Hành Quyết.
Linh mục Trochu đã viết một cuốn sách rất công phu về Chân Phước Ven
(Thánh Théophane Vénard). Trong sách đó có ghi lại rằng: đang lúc bị án tử hình
vì đức tin và bị giam tại Hà Nội chờ ngày trảm quyết, thánh Ven đã viết nhiều
bức thư nhờ giáo dân chuyển về cho gia đình. Trong số các thơ ấy, có máy dòng
sau đây, được thánh nữ Têrêxa Hài Đồng (là người bảo trợ tinh thần cho thánh
nhân) chọn làm như của chính mình vậy:
“Thế gian chẳng còn gì làm vui sướng đời con nữa. Tâm
hồn con đã được cởi mở rộng rãi. Những cái được người ta kêu là hạnh phúc ở
trên đời, con cho là rơm rác hết. Lòng trí con đang bay về cõi thiên thai. Thời
gian sắp mãn cuộc. Hồn con bình lặng như mặt hồ lặng lẽ hay như vòm trời xanh
dịu. Con chẳng còn tiếc xót gì ở kiếp phù trần, chỉ khát khao mong mỏi về uống
nước trường sinh cõi phúc…
“Không lâu đâu! Linh hồn con sắp được từ giã thế gian rồi. Cuộc đầy
đọa sắp qua, những ngày giao chinh sắp hết. Con lên Thiên Đàng! Con đi đến chốn
an nghỉ đời đời của các thánh, nghe những nhạc điệu du dương tai chưa từng
nghe, ngắm những sự tốt đẹp nhất chưa từng ngắm, vui hưởng hoan lạc trái tim
chưa từng hưởng… Nay con sắp đến giây phút ai ai cũng thiết tha mong đợi. Quả
thật Chúa đã chọn kẻ bé mọn để mỉa mai những kẻ quyền hành thế gian. Con không
dám cậy sức riêng con, một chỉ cậy sức Đấng đã đứng trên thánh giá mà
chiến thắng mọiquyền hành hỏa ngục.
Con là hoa xuân, nay chủ vườn muốn hái đem về làm cảnh. Chúng ta hết
thảy là hao Chúa vun trồng trong vườn thế gian, sẽ có ngày Chúa hái về hết, nay
hoa này, mai hoa khác, chày kíp gì cũng xong cả. Thân con là đóa hoa phù dung,
dám xin mạn phép hồi hương trước. (t. 359)
Hẹn một ngày kia chúng ta sẽ cùng gặp nhau, tay bắt mặt mừng trên
Thiên đàng, hân hoan trong vinh phúc trường cửu.”
Ngày 2.2.1861, thánh Ven gục ngã dưới lưỡi gươm của đao phủ tại pháp
trường Cầu Giấy (Hà Nội) lúc vừa 34 tổi. Dầu ngài bị ném xuống sông mãi hai
tuàn sau ngư phủ mới tìm thấy. Ai tin được trên đây là bức thơ tạm biệt gia
đình của một tử tội! (t. 360)
15. GIAN KHỔ GẮN LIỀN VỚI VINH QUANG
(1) Nghệ Thuật Sống An Bình Trong Gian Khổ
Một tâm hồn thánh thiện nọ, sau khi trải qua bao ngày
tháng gian khổ cũng như những giây phút thành công, đã để lại những lời nhắn
nhủ, đồng thời cũng là những kinh nghiệm sống rất đơn sơ và hữu ích sau đây.
Nghệ thuật điều khiển lưỡi.
Thánh kinh có nói:
“Miệng lưỡi người khôn ngoan cất trong con tim.
Trái tim kẻ dại bày ra ngoài miệng” (Huấn đạo 21, 26)
Hãy thường nghe hơn là nói, vì im lặng quí hơn nói. Nói ít
thì khôn hơn nói nhiều. Nói ít mà nói đúng thì hay hơn nói nhiều nhưng nói bậy.
Hãy chú ý: Nóí đúng vấn đề thì hay hơn nói luôn miệng.
Những luật sau đây giúp điều khiển lưỡi chúng
ta:
Suy nghĩ trước khi nói.
Biết nói bằng sự im lặng.
Cầm giữ miệng lưỡi khi trái tim đang xao
xuyến.
Im lặng khi mình quá ưa nói.
Nói sau kẻ khác.
Đừng bao giờ nói chống đối kẻ khác.
Bao giờ cũng nói tốt kẻ khác.
Đừng bao giờ tìm cách tự bào chữa.
Lúc nào cũng nói năng khiêm tốn.
Không bao giờ nói trái sự thật.
Luôn luôn thận trọng trong lời nói. (t.367)
Đừng bao giờ nói theo hứng.
Im lặng đừng nói những lời chua cay, khi trái
tim bối rối và bị kích thích.
Trong câu chuyện, “khi gió thổi bốc lên
thuận chiều”,
Hãy cầm hãm khuynh hướng “trút hết gan ruột
ra”.
Cầm mình đừng nói những sai sót của bản thân.
Biết giới hạn như vậy sẽ tạo được một nguồn
hạnh phúc mới mẻ.
Hãy kiểm soát giọng nói của bạn.
Đừng tìm biết tin tức vì tò mò.
Hãy nhớ lấy điều này là đừng phàn nàn về
chuyện gì,
Đừng chỉ trích ai,
Đừng than trách hoàn cảnh nào,
Cũng đừng phê bình sự vật gì hết.
Dừng nói về mình, cũng đừng nói về những việc
riêng của mình.
Nếu muốn nói về mình, thì chỉ tâm sự với một
số rất ít người thôi.
Im lặng là bài học hay nhất.
Im lặng khi tức bực.
Im lặng khi bị chỉ trích.
Im lặng lúc bị từ chối.
Im lặng lúc thất vọng.
Im lặng lúc gặp cảnh vô ơn.
Im lặng khi cảm thấy lòng ghen ghét.
Im lặng lúc bị phản bội.
Im lặng khi được thỏa mãn.
Im lặng lúc đau khổ mọi nỗi. (t.368)
Hình như không có thực hành nào giá trị bằng
sự im lặng.
Im lặng cho ta thấy một sức mạnh tiềm tang.
Im lặng thu hút được sự tín nhiệm.
Im lặng bảo đảm cho ta được sự kính trọng.
Người dè dặt đúng múc là người có dáng huyền
bí, biểu lộ một vẻ tuyệt đẹp của tâm hồn.
Im lặng còn có một tính cách tích cực nữa.
Nhiều khi im lặng không nói lại là câu trả lời
hữu hiệu nhất, thuyết phục lòng người hơn trăm bài hùng biện.
Cố gắng hơn tí chút.
Nhẫn nại hơn tí chút, để chấp nhận một người
không hợp với tôi chút nào, nhưng tôi lại bó buộc sống với.
Kiên quyết hơn tí chút, để tiếp tục công việc
này mà bổn phận đời tôi làm tôi cảm thấy chán ngấy.
Khiêm nhường hơn tí chút, để ở lại nơi Chúa
dẫn dắt tôi tới, nhưng không mảy mai phù hợp với ước vọng và chương trình của
tôi.
Biết lẽ phải hơn tí chút, để chấp nhận người
khác cùng với bản tính họ, thay vì đòi hỏi họ rập theo khuôn khổ tôi thích.
Khôn ngoan hơn tí chút, để đừng làm phiền lòng
người khác và ít nhúng tay vào công việc của họ.
Can đảm hơn tí chút, để chịu đựng một biến cố
đột ngột làm tôi mất bình an cách thâm sâu.
Tươi tỉnh hơn tí chút, để không tỏ ra tôi bị
trái ý.
Bỏ mình hơn tí chút, để cồ gắng tìm hiểu tư
tưởng và cảm nghĩ của người khác. Trên hết mọi sự, cầu nguyện hơn tí chút, để kết hợp với Chúa trong trái tim tôi và
bàn hỏi với Ngài. (t.369)
16. LÃNH ĐẠO LÀ PHỤC VỤ CAO CẢ NHẤT
(1) Lãnh Đạo Là Phục Vụ Công Lý Tạo Tác Hòa Bình.
Năm 1965, giữa lúc Johnson cho chiến tranh leo thang tại Việt Nam, thì
Đức Phaolô VI được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, qua vị Chủ Tịch Amintore
Fanfani và vị Tổng Thư Ký U Thant, mời sang Nữu Ước (4.10.1965). Trước sự hiện
diện của Tổng Thống Johnson, Đức Phaolô VI không ngần ngại nói thẳng đến vấn đề
hòa bình, nhắc lại lời của một vị Tổng Thống mà ông Johnson đang kế nghiệp:
“Từ nay đừng còn cảnh người này chống lại người kia, vâng, đừng ba
giờ nữa! Chẳng phải vỉ chính mục đích này mà Liên Hiệp Quốc được thành lập sao?
Xin hãy lắng nghe lời nói sáng suốt của một vĩ nhân quá cố, ông John Kennedy,
đã nói cách đây bốn năm:
‘Nhân loại phải chấm dứt chiến tranh, bằng không, chiến tranh sẽ
chấm dứt nhân loại…’
Xin quí vi nhớ cho rằng máu của hằng triệu con người, những nỗi thương
đau chưa từng thấy, những cuộc tàn sát dã man và những tàn phá kinh khủng đang
phê chuẩn cái hiệp ước đã liên kết quí vị lại trong một lời thề khiến lịch sử
thế giới mai hậu phải đổi thay:
‘Đừng chiến tranh, đừng bao giờ còn chiến tranh (t.449) nữa. Mà
chính là hòa bình. Hòa bình phải hướng dẫn các dân tộc và toàn thể nhân loại.’”
Ngài luôn có những hoạt động nhằm chấm dứt chiến tranh và
lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Với các Giám mục Việt Nam đến Rôma, ngài thường nói:
“Tôi đã làm tất cả những gì có thể được để vãn hồi hòa bình ở Việt
Nam. Việt Nam có một chỗ đặc biệt trong trái tim và lời cầu nguyện của tôi. Mỗi
tối trước khi ngủ, tôi mở cửa sổ hướng về Việt Nam, cầu nguyện và chúc phúc lành
cho Việt Nam.”
Các đoàn hành hương biết chỗ “ngứa”của ngài, nên trong các buổi triều
yết chung, mỗi khi ngài nhắc đến “Việt Nam” thì họ vỗ tay vang dội cả đền Thánh
Phêrô. Họ biết làm thế ngài rất vui thỏa. Không danh xưng một quốc gia, dân tộc
nào được Đức Phaolô nhắc đến bằng hai chữ Việt Nam. Ngài đã có 92 diễn từ về
Việt Nam.
Mặc cho thế lực nào phản đối, mặc cho chế độ nào phiền
trách, Đức Phaolô VI vẫn ý thức sáng suốt sứ mệnh rao truyền chân lý, hòa bình,
công chính của ngài và đã can đảm thực hiện sứ mệnh ấy. Lịch sử tôn vinh ngài,
bao nhiêu quả tim trên thế giới yêu mến ngài. Ngài đã kiên cường lãnh đạo Hội
Thánh đi theo con đường Công lý Hòa bình vậy. (t. 450).
(2) Thập Đại Bại Và Thập Đại Thắng.
Một thanh niên nọ có dịp học hỏi nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Trong
các anh hùng người Việt, vị mà ông khoái nhất là ông Nguyễn Trãi, vì tinh thần
ông rất dũng cảm, khí thế ông rất kiêu hùng. Anh ta tuộc lòng cả bài “Bình
Ngô Đại Cáo” của ông.
Khi đọc xong bức thư của ông gởi cho Tướng lãnh Trung quốc, khuyên bảo
họ nên rút quân xâm lược về, nếu không sẽ thảm bại nhục nhã; anh ta khoái nhất
là chỗ vị quân sư của vua Lê Lợi đã phân tích sự việc dưới tiêu đề: “Lục Đại
Bại Và Lục Đại Thắng”, nghĩa là sáu nguyên do bất lợi khiến cho Trung quốc
xâm lược phải thua và sáu nguyên do về thiên thời, địa lợi, nhân hòa, chính
nghĩa, ái quốc khiến quân ta sẽ thắng.
Chàng thanh niên ấy đêm ngày cứ trầm ngâm suy nghĩ về “Lục đại bại
và lục đại thằng” mãi cho đến một hôm anh nảy ra một sáng kiến về thuật
lãnh đạo, mà rồi, vì thấy hay hay, anh bèn bắt chước Nguyễn Trãi đặt tên cho
là: “Thập Đại Bại Và Thập Đại Thắng.” Anh lấy làm thích chí và vui vẻ
đem ra giải thích cho các bàn mười lý (t.469) do khiến người lãnh đạo thất bại
và ngược lại mười lý do khiến người lãnh đạo thành công. Các bạn anh nghe qua
cũng tạm được bèn tặng cho anh một biệt hiệu khiêm tốn nhưng cũng rất oai “ Nguyễn
Trãi Tí Hon.” Tuy là sáng kiến của một “cậu bé tí hon”, nhưng cũng
đáng cho chúng ta suy nghĩ:
Thập Đại Bại (của lãnh đạo):
1.Kiêu căng, xem người như máy móc, độc đoàn, chẳng chịu nghe ai, bảo
thủ ý kiến.
2.Băn khoăn, bi quan, khiến cho người khác cũng hoang mang.
3.Không biết dùng người, không chọn người, không biết huấn luyện, không
hòa mình, không khoan dung, sống cách biệt, giữ óc địa phương.
4. Đa nghi đối với mọi người, mang bệnh “do dự mãn tính”, sợ
mất lòng, thay đổi ý kến như chong chóng.
5.Tự mình ôm đồm bao quát tất cả, lạc lõng trong những
chuyện vụn vặt, phiền toái không phân biệt đâu là chính yếu đâu là phụ thuộc.
6.Miệng nói rất khéo, nhưng làm thì khác, cuối cùng chẳng ai tin.
Tuyên bố rùm beng, nhưng sống và hành động không ra gì. Gặp khó khăn thì buông
xuôi nản lòng, Thành công thì huênh hoang tự đắc và cướp công, vô ơn đối với kẻ
thành tâm giúp mình.
7.Dấn thân nửa vời, thịnh thì xu thời, “xông pha cứu trợ người
thắng trận” trước ai hết; suy thì rút lui nhẹ nhàng không chịu trách nhiệm
và đổ lỗi cho kẻ khác.
8.Không có chương trình và kế hoạch, hăng tiết theo cảm hứng, thích
tấn công, khó chịu khi nghe sự thật mất lòng.
9. Ích kỷ, chỉ tìm danh lợi cho bản thân mình, giấu kỹ
những kinh nghiệm của mình.
10.Không cầu nguyện, chỉ tin vào tài năng và mưu mô, thủ
đoạn trần tục, trông cậy vào quyền thế.
Thập Đại Thắng:
1.Khiêm tốn, trọng nhân phẩm của mỗi cá nhân, uyển chuyển, linh động,
lắng nghe sáng kiến mọi người, rồi suy nghĩ lượng giá.
2.Ý thức, tin tưởng sứ mạng của mình như một ơn Chúa, bình tĩnh trước
mọi biến cố.
3.Có thuật dùng người, chấp nhận đối thoại tìm hiểu từng người, tâm
hồn quảng đại, biết quên bỏ những lầm lỗi của kẻ khác, lắng nghe bạn bè khuyên
bảo, mà nhất là biết nghe kẻ thù chỉ trích.
4.Tín nhiệm cộng sự viên: xem, xét, làm. Quyết định sáng suốt, thực
hiện cho kỳ được.
5.Chia sẻ trách nhiệm với các cố vấn, chuyên viên, cộng sự viên, luôn
học hỏi, trau giồi thêm khả năng.
6.Nói ít, làm nhiều, luôn luôn trọng kỷ luật, đi tiền phong, nêu gương
sống trong mọi lãnh vực, nhìn thẳng thực tế, khách quan, khiêm tốn lúc thành
công, (t. 472) chia sẻ niềm vui với cộng sự viên, kiên trì và nhẫn nại, không
bao giờ thất vọng.
7.Sẵn sàng hy sinh tất cả vì sứ mệnh, can đảm nhận trách nhiệm, cùng
thành công cùng thất bại, không bao giờ làm tổn thương tình huynh đệ. Tình
nguyện nhận điều khó cho mình, để cái dễ cho cộng sự viên.
8.Trước mỗi việc đều có chương trình, kế hoạch; sau mỗi việc đều kiểm
điểm chân thành, phê bình và tự phê, sợ tâng bốc thích nghe nói thẳng nói thật.
9.Chỉ tìm phục vụ, quên mình đi vì đại cuộc, xác tín rằng mình chỉ là
khí cụ trong tay Chúa, nên chỉ tìm thánh ý Chúa, giữ vững lập trường, thấy ai
hơn mình thì vui mừng, chuẩn bị cho tương lai, dọn đường và trao hết kinh
nghiệm cho người kế vị mình.
10.Trước mọi công việc, trong mọi khó khăn, biết cầu nguyện, tìm ánh
sáng và sức mạnh nơi Chúa, bàn hỏi với Chúa trước hết, phó thác cho Chúa trọn
vẹn. Hy vọng trong thất vọng, cứ vui vẻ tiến lên, ngày mai có Chúa lo.
Chắc các bạn cũng cảm nghiệm cái lý thú của “Thập Đại
Bại và Thập Đại Thắng” rồi chứ gì? Hoan hô “Nguyễn Trãi Tí Hon”! (t. 473)
17. MẸ MARIA, TRUNG GIAN MUÔN HỒNG ÂN
(1) Tận Hiến Cho Mẹ
Theo Thánh Montfort, lòng thành thực sung kính Mẹ phải đi
đến tột đỉnh là tận hiến cho Mẹ.
Ngài viết:
“Tôi đã n:Điểm chính của đời tận hiến là làm mọi việc với
Mẹ, trong Mẹ, nhờ Mẹ và vì Mẹ. Vào hội tận hiến, mỗi ngày đọc đôi kinh, việc đó
không có chi là khó cả; đi sâu vào tinh thần tận hiến mới là khó. Ta phải thực
tâm tùy thuộc, làm nô lệ của Mẹ và nhờ Mẹ làm nô lệ Chúa Giêsu. Tôi đã gặp
nhiều người nhiệt thành tận hiến nhưng chỉ bề ngoài: Người có tinh thần tận
hiến thật ít có, người bền đỗ sống đời tận hiến lại càng hiếm hơn”.
Ngài giải thích:
1.Với Mẹ: Nghĩa là khi làm bất cứ việc gì, người
tận hiến phải lấy Đức Maria làm mẫu gương trọn hảo nhất để theo.
2.Trong Mẹ: Khi làm việc gì, ta tạo trong trí khôn
hình ảnh Mẹ Maria như nhà nguyện nhỏ ta vào trong đó cầu xin, Chúa Cha sẽ không
bao giờ từ chối… Ta hoạt động là hoạt động trong Mẹ, không bao giờ theo ý mình
trong bất cứ việc gì.
3.Nhờ Mẹ: Bao giờ đến với Chúa Giêsu cũng phải đều
nhờ Mẹ, nhờ Mẹ can thiệp với Chúa. Không xin gặp riêng Chúa để thưa một việc
gì.
4.Vì Mẹ: Đã làm nô lệ của Mẹ, thì việc gì cũng làm
vì Mẹ, trước là làm vinh danh Mẹ, sau là nhờ Mẹ mà làm cho danh Chúa cả sáng.
Trong mọi hoạt động của con, hãy loại trừ con người của con, bởi vì tình tự
cao, tự đại, tự mãn, vị kỷ… nó xâm nhập lúc nào cũng không thấy được.
Tâm hồn tận hiến, theo thánh Montfort, phải phục vụ Chúa
như người nô lệ của tình thương. Ngài giải thích đơn sơ rõ ràng:
“Tôi xin nói ra là chúng ta phải lệ thuộc và phục vụ
Chúa Giêsu không như người làm thuê có tiền, nhưng như nô lệ của tình thương,
mà vì hết lòng quí mến Chúa nên hién mình làm nô lệ để phục vụ Chúa, coi việc
được nô lệ Chúa là một vinh dự rất cao cả…”
“Xưng mình là nô lệ Maria, có nghĩa là nhờ Mẹ mà làm nô
lệ của Chúa một cách hoàn hảo hơn. Maria là (t. 523) phương tiện Chúa dùng để
đến với ta, ta cũngphải nhờ Maria mà đến với Chúa (Thánh Augustinô)”.
(t.524)
18. HY VỌNG, ĐỈNH ĐIỂM CUỘC SỐNG
Ơn Chúa Và Ý Chí Con.
Cậu Phaolô Bột, tiểu chủng sinh làng Sơn miêng, phủ Ứng
Hòe, tình Hà Đông, bị bắt cầm tù vị theo đạo Giatô. Cậu bị tra tấn dữ dằn, và
vì còn trẻ, non gan yếu dạ nên cậu đã bước qua thập tự giá theo lệnh quan.
Người ta thả cậu về. Mẹ cậu đuổi cậu ra khỏi nhà vì không muốn một đứa con chối
Chúa. Phaolô bèn đi tìm một linh mục để xưng tội rồi lại trở về xin lỗi mẹ. Mẹ
cậu tha lỗi và khuyên cậu:
“Hãy vững vàng tuyên xưng lại đức tin, cò Chúa giúp con.”
Nhờ ơn Chúa soi sáng, cậu Bột lấy lại ý chí, và với một
tâm hồn can trường quả cảm, cậu chạy thẳng đến dinh Thương Nam Định và lớn
tiếng:
“Tôi đã dại dột bước qua thập giá, giờ đây tôi đến xưng
đạo, tôi sẵn sàng chết vì Chúa”.
Lính đuổi cậu ra và quát bảo:
“Đồ ngu dại, đi đi, về nhà ngay kẻo chết! Bèn mảng đên
đây (t.378) làm gì!”
Nhưng cậu Bột vẫn can đảm đứng lì tại đấy, miệng không
ngớt tuyên xưng đức tin.
Sau khi lãnh bản án của quan phê chuẩn, cậu bị voi chà nát
bét cả thân mình. Linh hồn cậu bay thẳng về nơi Vinh hiển (1858) (t. 579)
19. CON CÓ MỘT TỔ QUỐC ĐỂ YÊU MẾN VÀ PHỤC VỤ
(1) Hai Nhà Ái Quốc Công Giáo Việt Nam.
Tiếng chuông ngân trầm,
Việt Nam nguyện cầu.
Tiếng chuông não nùng, Việt Nam buồn thảm.
Tiếng chuông vang lừng, Việt Nam khải hoàn
Tiếng chuông thanh thoát,
Việt Nam hy vọng (t.582)
Là người Công giáo Việt Nam chúng ta luôn luôn hãnh diện
đã góp phần xây dựng đất nước từ khi đạo Công giáo đến Việt Nam. Chúng ta đặc
biệt hãnh diện vì có lắm khuôn mặt yêu nước chân chính đã được ghi công trong
liỊh sử: Hai khuôn mặt nổi bật nhất, trong số đó là ông Nguyễn Trường Tộ và
Linh Mục Đặng Đức Tuấn.
Nguyễn Trường Tộ (1827-1871)
Ông người thôn Bùi Châu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An,
theo học chữ Nho từ thuở nhỏ, tuy có tài về thơ văn, nhưng vì chán lối học từ
chương và có khuynh hướng về lối học thực dụng, nên ông không theo đường cử
nghiệp. Nhờ có đạo, nên một nhà dòng ở Tân Ấp mời ông làm thầy dậy chữ Hán, do
đó ông gặp được một giáo sĩ thừa sai là Đức Giám mục Gaulthier (Ngô Gia Hậu).
Vị Giám mục này dạy ông học tiếng Pháp và các khoa học phổ thông, rồi sau đó
đưa ông qua Ý, qua Pháp một thời gian để ông quan sát học tập thêm nữa.
Khi về nước, giữa lúc người Pháp đang đánh Gia Định
(1859), ông có giúp việc cho Soái Phủ Nam Kỳ trong ít lâu, chủ tâm vào viêc
giảng hòa hai chính phủ Pháp và Việt. Rồi ông về quê, đem các điều đã sở đắc
giúp người đồng hương khẩn đất, lập ấp và kiến trúc, đồng thời viết nhiều bản
điều trần để xin Triều đình canh cải mọi việc.
Năm 1866 (Năm Tự Đức thứ 19), ông được cử đi tìm mỏ ở Nghệ
An, Hà Tĩnh. Tháng Sáu năm ấy ông được Quan Tổng Đốc Hoàng Tố Viêm giao cho
việc cắm lối để đào sông thiết cảng, một công trình thủy lợi quan (t.583) trọng
thời bấy giờ. Đến tháng 9, ông lại cùng với Đức Giám mục Gaulthier sang Pháp để
mướn chuyên viên kỹ thuật và mua máy móc. Nhưng vì việc giao dịch giữa Triều
đình Việt Nam với Soái Phủ Nam Kỳ trở nên gay go, nên khi ông đang lo các việc
ở Pháp thì nhận được lệnh đình chỉ việc mước chuyên viên và mua máy móc mà về.
Đến năm 1868, vua Tự Đức lại phái ông sang công tác bên
Pháp, nhưng ông đau không đi được. Năm 1871, vua lại triệu tập ông vào Kinh
(Huế) để đem học sinh sang du học Pháp, nhưng ông cũng đau nên phải từ chối.
Giữa năm ấy thì ông mất, thọ 44 tuổi. Trước khi mất, ông còn viết nhiều bản
điều trần nữa.
Nội dung của các bản điều trần đó (viết từ năm 1863-1971)
là trình bày những điều ông đã xem thấy, hiểu biết, về thế giới văn minh khoa
học, kỹ thuật cho Triều đình hay và thảo ra một chương trình cải cách để giúp
cho việc phát triển Quốc gia và đối phó với hoàn cảnh đương thời. Những bản
quan trọng nhất là về chính sách Tôn giáo (1863), về việc phái học sinh du học
ngoại quốc (1866), về việc giao thiệp với nước ngoài (1868), về cải cách nông
nhiệp, về việc tu chính võ bị (1871), đào tạo nhân tài (1871), vế việc phát
triển kỹ nghệ, về việc Quốc văn (1867)…
Lời lẽ các bản điều trần cho thấy ông là một người học
thức rộng, kiến văn nhiều, lại có lòng nhiệt thành yêu nước, muốn đem những
điều sở đắc mà giúp vào việc canh tân đất nước cho giàu mạnh phú cường. Lúc
đầu, nhà vua thấy kế hoạch của ông có nhiều điều hay, cũng (t. 585) có ý muốn
đem ra thực hành, nên có lần giao cho việc đi tìm mỏ và phái ông sang Pháp mua
máy móc và tuyển chuyên viên (1866) Nhưng tiếc thay Triều thần bấy giờ phần
nhiều không hiểu thời cuộc, chỉ một mực thủ cựu, không tán thành các việc ông
xin, lại tìm cách bài bác công kích, nên chương trình hay ho của ông đành phải
bỏ dở.
Cha Đặng Đức Tuấn.
Cha Đặng Đức Tuấn cũng là người đồng thời với ông
Nguyễn Trường Tộ. Thời ấy, vua Tự Đức và Triều đình Huế, như hai triều vua
trước, đều xem đạo Công giáo là một dị đoan, là tà thuyết mê hoặc nhân tâm, xúi
dân phản quốc và chạy theo giặc Pháp, nên đã ra sắc chỉ cấm đạo (từ năm 1848).
Để sửa đổi những quan niệm sai lầm ấy, cha Đặng Đức Tuấn,
một linh mục địa phận Qui Nhơn, đã làm một bản điều trần bày tỏ mọi căn nguyên
rồì định ra Huế, để trình cho vua ngự lãm (khoảng 1860-1861). Đang khi đi
đường, thì ngài bị bắt và bị giải lên huyện Mộ Đức, tình Bình Định. Quan huyện
cho điệu ngài lên tỉnh. Ở đây nhân vua có hai vị quan ở Kinh vào kinh lý, nên
bản điều trần của cha Đặng Đức Tuấn được xem qua và rồi bị giải ra Huế để trực
tiếp cung khai với Triều đình đúng như lòng ngài sở nguyện.
Đến Huế, ngài được gặp đại thần Phan Thanh Giản và Thượng
Thư Lâm Duy Tiếp. Hai ông hỏi đạo Công giáo dạy những gì và vì sao “Tây Dương”
đến gây hán quấy rối. Cha Tuấn lien phân giải hai vấn đề quan trọng (t.585) đã
gây bào tai hại lớn lao trong thời kỳ ấy bằng những lơi lẽ như sau:
“Đạo Công giáo dạy phụng sự Thiên Chúa linh thiêng, tạo
thành thiên địa, cầm quyền sinh tử; phàm người thế có tinh linh vâng theo đường
chính tất hưởng trường sinh cõi thọ.
“Đạo cũng dậy phục quyền vua thay mặt Thiên Chúa trị dân;
đạo dậy hiếu kính phụ mẫu, đền ơn sinh thành.
“Các lý thật lẽ ngay bên đạo do ở pho sách Kinh Thánh rút
ra, thành thử xưa nay vẫn một mực, và tuy truyền giáo tứ phương nhưng tựu trung
đâu đó vẫn dưới quyền Đức Giáo Hoàng ngay tại Rôma.
“Nếu việc (gây hấn) do ở Roma, thì xin chịu Đạo phá rây,
nhưng không phải; chiến tranh mà có là do bởi ở nước ngoài vì đường danh lợi mà
tạo nên. Nếu truyền giáo mà hoành hành như thế, thì xin Triều đình xét năm tàu
kia lại, như đạo nội ứng cho giặc tất nhiên sẽ rủ nhau bỏ xứ chạy ùa theo giặc.
Nhưng bởi không có cái nhị tâm đó nên đâu đó vẫn ở yên giữ luật Nước Nhà…”
Sau đó, cha Đặng Đức Tuấn còn làm thêm vài bản điều trần
nũa và được chính vua Tự Đức đọc. Xem xong, nhà vua truyền mở gong giải xiềng
và ban thưởng cho ngài, rồi cha được tự do thăm viếng các giáo hữu đang bị giam
cầm vì đức tin trong ngục thất.
Đến thàng 3 năm 1862, cha Tuấn lại dầng thêm hai bản điều
trần nữa. Lần này vua Tự Đức thuận theo những lời yêu cầu của ngài nên hạ lệnh
cho tha các giáo hữu đang bị bách hại và bị tống ngục. (t.586).
Lúc đó miền Nam đã bị Pháp chiếm, miền Bắc lâm cảnh nổi
loạn và tàu Pháp đánh ra Huế, đợi ký kết hòa ước với Việt Nam. Triều đình bàn
tán xôn xao, không biết phái ai đi Đại sứ. Thương Thư Bộ Binh Lâm Duy Tiếp bèn
mời cha Tuấn đến dò ý kiến. Ngài đề nghị cụ Phan Thanh Giản cùng ông ta đi, và
ngài cũng xin tháp tùng làm cố vấn. Vua Tự Đức y theo lời xin. Từ ngày ấy cha
Tuấn được ra vào Tả Viện và Hoành Thành để bàn bạc chuyện thương thuyết với hai
ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp. Đến tháng 5 thì cả ba cùng phái bộ vào Sàigòn
ký hòa ước Nhâm Tuất.
Sau cha Đặng Đức Tuấn được về Bình Định và mỗi lần phải
tra hỏi, Vua Tự Đức lại ra chỉ triệu ngài về Huế. Nhờ ngài mà Triều đình bớt ác
cảm với Đạo và biết rõ quan niệm yêu nước chân chính của người Công giáo. Phần
ngài thì cũng được dịp góp phần vào việc chính sự quốc gia.
“Nếu là Hoa, tôi sẽ là
đóa hướng dương,
Nếu là Chim, tôi sẽ là bồ câu trắng,
Nếu là Dân, tôi sẽ chọn làm người Việt Nam,
Nếu là Tin, tôi sẽ nguyện theo Chúa hết lòng.”
Dayton, OH, ngày 16/9/2005.
Gs. Đỗ Hữu Nghiêm