Những bản văn pháp lý trong việc tuyên thánh 117 Vị Tử
Đạo Tại Việt Nam
(gxdaminh.net) 23 Tháng mười một 2013
Lời ngỏ: Ngày 24/11 hàng
năm, toàn thể Giáo hội cùng mừng lễ "các thánh tử đạo tại Việt
*****
Ngày 19/6 vừa qua, nhiều nơi đã mừng kỷ niệm 25 năm Đức Chân Phước
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh cho 117 vị chân phúc tử đạo tại Việt
Nam. Thiết tưởng không phải là muộn khi chúng ta nhắc lại biến cố ấy vào dịp
mừng kính lễ ngày 24/11 (năm nay phải dời
sang ngày thứ hai 25/11 vì trùng với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ). Bài này chỉ muốn trình bày vài điểm liên quan đến các bản văn pháp
lý xoay quanh việc phong thánh.
I. NHỮNG BƯỚC CHUẨN BỊ
1. Trước hết, thiết tưởng cần
xác định: đây là các thánh tử đạo tại Việt Nam (chứ không phải là thánh tử đạo Việt Nam),
bởi vì các ngài thuộc ba quốc tịch: Việt Nam (96 vị, trong đó có 37 linh mục),
Tây ban nha (11 vị dòng Đaminh: 6 giám mục và 5 linh mục), Pháp (10 vị thuộc
Hội Thừa sai Paris – MEP – gồm 2 giám mục và 8 linh mục). Chúng
ta đừng nên quên rằng trong thế kỷ XIX, việc truyền giáo tại Việt
2. Các vị đã được phong chân
phước vào bốn đợt khác nhau:
Ngày 27/5/1900, do tông thư (litterae apostolicae) Potissimum virorum, Đức thánh cha Lêô XIII tuyên phong
chân phước cho 77 vị tử đạo tại Trung Hoa và Việt Nam (theo ngôn ngữ thời ấy là
Sinensis, Tonchinum, Concicinam); trong số này có 64 vị tử đạo tại Việt Nam.
Đây là một lễ nghi rất đặc biệt, vì được cử hành nhân dịp năm thánh, do bốn hội
dòng đứng ra thỉnh nguyện: MEP, OP, OFM và CM (Vinh sơn). Các
chân phước Trung hoa sẽ được phong thánh ngày 1/10/2000.
Ngày 15/4/1906, do tông thư Martyrum purpurata
sanguine, Đức thánh cha Piô X phong chân phước cho 8 vị, tất cả
thuộc dòng Đaminh. Đặc biệt trong số này chúng ta gặp thấy bốn vị niên trưởng
(thuộc cuối thế kỷ XVIII): Francisco Gil de Federich và Mateo Alonso Leciniana
(1745), Jacinto Castaneda, Vicente Lê Quang Liêm (1773).[1]
Ngày 11/4/1909, do tông thư Martyrum purpurata
sanguine, Đức thánh cha Piô X phong chân phước cho 20 vị Việt Nam
chung với nhiều vị Trung Hoa. Điểm đặc biệt là văn thư
được đăng vào bộ số 1 củaActa Apostolicae Sedis. Vol 1 (1909),
452-458[2].
Ngày 29/4/1951, do tông thư Albae iam ad messem Đức thánh cha Pio XII phong
chân phước cho 25 vị. AAS 43 (1951) 305-310. Lần này chỉ có
các chân phước thuộc giáo phận Bùi Chu thuộc dòng Đaminh ở Việt
3. Tiến trình từ chân phước đến hiển thánh
Trong số 117 chân phước, vài vị đã được tôn kính đặc biệt (chẳng hạn như ở Việt
Do hoàn cảnh Chúa quan phòng, đức thánh cha Gioan Phaolô II rất
nhạy bén với các vụ tử đạo. Riêng tại Á đông, Giáo hội Đại
Hàn đã có 109 vị tử đạo được phong thánh tại thủ đô
Tổng hội Dòng Đaminh họp tại
Bộ Phong thánh đã chấp nhận luận cứ ấy. Do đó, mặc dù trên nguyên tắc, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
chuẩn miễn phép lạ cho vụ phong thánh, nhưng trên thực tế, sự miễn chuẩn ấy dựa
trên những cơ sở chắc chắn, cộng thêm tấm gương kiên trung của các tín hữu nhờ
lời chuyển cầu của các vị[4].
Quảng trường Thánh Phêrô ngày
đại lễ tuyên phong 117 Thánh Tử Đạo Tại Việt
II. ĐẠI LỄ PHONG THÁNH
Nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại (chẳng hạn
youtube) trên internet, chúng ta có thể xem lại cuốn phim lễ phong thánh diễn
ra tại quảng trường thánh Phêrô. Chúng tôi
muốn nghiên cứu cách riêng những văn bản trong và sau buổi lễ: a) Công thức
tuyên phong; b) bài giảng; c) bản văn phụng vụ; d) sắc phong; e) lễ kính.
A. Quan trọng nhất là công thức tuyên phong bằng tiếng Latinh (bản dịch tiếng Việt
của Đức ông Vinh-sơn Trần Ngọc Thụ):
Để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, để phát huy đức tin Công
Giáo và củng cố đời sống Kitô hữu, với quyền lực của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng
ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô và của riêng tôi, sau khi đã suy nghĩ
chin chắn, cũng như đã nhiều lần cầu xin ơn trợ giúp của Thiên Chúa, đã tham
khảo ý kiến của nhiều Chư huynh Giám mục, tôi quyết định tuyên bố:
Các Chân Phúc: Anrê Dũng Lạc, Linh mục,
Tôma Thiện và Emmanuelê Phụng, Giáo dân,
Girolamô Hermosilla và Valentinô Berriô – Ochoa, hai Giám mục Dòng
Đa Minh và 6 Giám mục khác,
Têophan Vénard, linh mục Hội Thừa Sai Ba lê và 105 Bạn Tử Đạo Việt
Nam, là những Vị Thánh và các ngài được liệt kê vào sổ các Thánh. Tôi cũng quyết định rằng giáo hữu trong toàn thể Giáo Hội sốt sắng
mừng kính các Ngài như các Thánh Tử Đạo. Nhân danh Cha
và Con và Thánh Thần. Amen.
Nên lưu ý về thứ tự các vị thánh trong danh sách. Trong các lần phong chân phước trước đây, đứng
đầu là các giám mục (Tây ban nha hoặc Pháp), rồi đến các linh mục và giáo dân.
Lần này vì muốn làm nổi bật các thánh Việt
B. Bài giảng lễ
(dựa trên các bài đọc Sách thánh Kn 3,1-9;
Tv 125; 1Cr 1,18-25; Mt 10,17-22) được đọc bằng 4 thứ tiếng: Italia, Pháp,
Tây-ban-nha và tiếng Việt (ở phần kết luận). Bản văn được
đăng trong Acta Apostolicae
Sedis 80 (1988),
1510-1516. Bản dịch dưới đây của Đức ông Vinh-sơn Trần Ngọc Thụ:
1. Tiếng Ý
Anh chị em thân mến,
“Chúng ta rao giảng Chúa Giêsu tử nạn Thập Giá” (1 Cr 1,23)
Mượn lời trên đây của Thánh Phaolô, Giáo hội Rôma hôm nay gởi lời
chào Giáo hội Việt Nam, mặc dầu trùng dương xa cách, nhưng rất gần gũi trong
tình thân ái của cha. Đồng thời cha xin chào toàn thể dân tộc Việt
Mối thịnh tình ưu ái dành cho người anh em thân mến, tức là Đức
hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng giám mục Hà Nội, và tất cả các vị giám
mục trong giáo đoàn Việt Nam, mà giờ này cha ao ước các ngài hiện diện nơi đây.
Cùng với hàng giáo phẩm, cha chào tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ, các thành
phần giáo dân tham gia công cuộc truyền đạo, và toàn thể giáo đoàn Việt
2. Tiếng Tây-ban-nha
Tôi chào tất cả các anh em giám mục, cũng như giáo dân của Tây Ban
Nha, Pháp quốc và Philippines, những xứ sở mà trong suốt ba thế kỷ đã góp phần
vào việc truyền giáo tại Việt Nam. Tất cả tuốn về Rôma hôm nay để tưởng niệm
những người anh em trước kia là thừa sai xuất thân từ
ba quốc gia này.
Một tư tưởng ưu ái xin gửi tới các linh mục Đa Minh thuộc Tỉnh Dòng
Đức Mẹ Mân Côi đã thành lập từ bốn thế kỷ, và Hội Thừa Sai Paris đã cống hiến
một số đông đảo giám mục và linh mục, mà hôm nay chúng ta sùng kính như những
vị Tử Đạo vì Đức Tin, vì đã rao giảng lời Chúa.
3. Tiếng Pháp
Một cách đặc biệt cha gửi lời chào tất cả anh chị em Việt Nam, hiện
là thành phần Giáo đoàn thế giới, hôm nay từ bốn phương trời: châu Mỹ, châu Á,
châu Úc và châu Âu tuôn về địa điểm này. Cha biết rằng các con đang ôm nặng ước
nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm nhu
cầu đứng chung quanh các vị Thánh – để se kết tình huynh đệ kết nghĩa, thương
mến hiện đang phập phồng trong đáy lòng vì nghĩ đến giang sơn gấm vóc ở xa.
Hướng về quê hương này các con hoài cảm, luyến ái, nhớ nhung, là vì giữa thời
gian phiêu bạt các con cố tìm ra một giây phút cảm thông với nhau và cùng chung
sống niềm hy vọng.
Lên tiếng với các con để hô vang Chúa Kitô tử nạn Thập Giá. Tất cả
chúng ta hôm nay gởi lời cám ơn các con vì tấm gương nhân chứng đặc biệt các vị
Thánh Tử Đạo của Giáo hội Việt Nam các con đã nêu cao, bất cứ các ngài là con
dân Việt Nam, hay là những vị thừa sai xuất thân từ những nước đã in sâu mầm
mống Đức Tin Chúa Kitô.
Làm sao kể lại cho hết? Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong đó 8 vị giám mục, 50 linh mục, 59
giáo dân, trong số đó một phụ nữ là Thánh Agnès Lê Thị Thành mẹ của sáu người
con.
Truyền thống còn ghi nhớ truyền thống chết vì Đạo của
Giáo hội Việt
Lấy một thí dụ: trong các vị Tử Đạo hôm nay, đi tiền phong có Thánh
Vinh Sơn Liêm, Dòng Đa Minh là người Việt tử đạo đầu tiên năm 1773. Rồi tới
linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo bên lương, từ
nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dạy giáo lý, nhưng rồi Chúa cho tới chức
linh mục năm 1823, được bổ nhiệm chính xứ và đương nhiên thành nhà truyền Đạo
trong nhiều địa hạt. Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn
được giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong được
chết vì Đức Tin – ngài nói – thì lên Thiên đàng ngay. Tại sao chúng ta cứ phải
ẩn náu, phải tốn tiền đút lót cho quan quyền: thà để cho chúng tôi bị bắt và
rồi tử đạo có hơn không?” Thực ra, vẫn một ý chí hăng say và
được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày
21-12-1839.
4. Bài Phúc Âm hôm
nay nhắc lại những gì Chúa Kitô tiên đoán về sự kiện các Tông đồ và những ai
theo chân Ngài sẽ bị bách hại: “Họ sẽ lôi chúng con ra toà công nghị, sẽ đánh
đập chúng con giữa hội đường, sẽ điệu chúng con ra trước vua chúa quan quyền vì
danh Cha, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại” (Mt 10, 17-18). Chúa tiên báo cho các Tông đồ và cho các đồ đệ các ngài trong mọi
thời đại, và Chúa tiên báo một cách hết sức rõ rệt, không úp mở. Chúa không đưa đẩy với những lời hứa hẹn xa gần, nhưng với thói
quen nói thẳng lời chân lý toàn diện. Chúa chuẩn bị tâm hồn các ngài
trước nguy cơ: “Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái
sẽ đứng lên tố cáo làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Cha, chúng con sẽ bị mọi
người ghét bỏ, nhưng ai bền chí tới cùng sẽ được cứu độ” (Mt 10, 21-22).
5. (Tiếng Tây-ban-nha) Tuy
nhiên Thầy Chí Thánh không bỏ rơi các Tông đồ và các người tin theo các Tông đồ
trong những cơn bách hại: “Khi bị nộp vào tay họ, các con đừng lo phải nói thế
nào và nói gì, lúc đó sẽ dạy cho các con những điều phải nói. Vì thực ra không
phải các con nói, nhưng Thần Linh của Thân Phụ nói trong các con” (Mt 10,
19-20).
Thần Linh, chính là Thần Chân Lý. Ngài sẽ là mãnh
lực trong thân xác yếu hèn của con người. Nhờ Ngài là
mãnh lực mà anh em mới có thể thành chứng nhân. Phải, chính sự kiện anh
em là chứng nhân cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chăng phải là khôn ngoan,
là mãnh lực vượt mức loài người đó ư? Thánh Phaolô hồi xưa đã nói: “Chính sự
kiện Chúa Kitô tử nạn là một ô nhục cho người Do Thái, là một cử chỉ điên rồ đó
ư?” (1 Cr 1, 23). Từ đời các Thánh
Tông đồ đã vẫn thế rồi, qua các thế hệ lịch sử vẫn tiếp tục như thế; cũng như
qua mấy thế kỷ bách hại tại Việt
Thật vậy, cần phải có mãnh lực, khôn ngoan từ Thiên Chúa mới có thể
tuyên xưng Mầu Nhiệm Tình Yêu của Ngài, chính là tình yêu được diễn tả trong
cuộc tử nạn trên Thập Giá để cứu chuộc trần gian: quả là mầu nhiệm bao la vượt
hẳn sự suy luận của loài người. “Là vì cái điên rồ nơi Thiên
Chúa còn khôn ngoan hơn cả sự khôn ngoan của người đời, và cái yếu hèn nơi
Thiên Chúa còn mạnh hơn cả sức lực phàm nhân” (1 Cr 1, 25).
Chính vì thế mà Thánh Tông đồ đã viết: “Chúng tôi rao giảng Chúa
Kitô tử nạn Thập Giá. Đức Kitô, trong mầu nhiệm Phục Sinh, đã
chứng minh Ngài là mãnh lực của Thiên Chúa, là khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr
1, 23-24).
6. Trước mặt
chúng ta hôm nay các vị Tử Đạo Việt
“Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan
Lúc ra đi phải
khóc than, vì công vất vả gieo hạt.
Nhưng khi trở
về, lòng hân hoan phấn khởi, vì sẽ ôm nặng nhiều bông lúa”
(Tv 126 [125], 5-6).
Lời huyền diệu trên đây nói lên ý nghĩa cuộc chứng nhân
lịch sử nơi các vị Tử Đạo trong Giáo hội Việt
Các vị Tử Đạo Việt Nam “gieo trong lệ sầu” có nghĩa là các ngài đã
khởi sự giữa lớp người đồng hương và giữa nền văn hóa dân tộc một cuộc đối
thoại sâu rộng và cởi mở, bằng cách nêu cao chân lý và tin vào Chúa là sự kiện
phổ cập tất cả hoàn cầu. Đồng thời các ngài góp phần vào việc nhận định các giá
trị và nghĩa vụ thích hợp với nền văn hóa tôn giáo trong thế giới Đông Phương.
Trong cuốn Giáo Lý đầu tiên bằng tiếng Việt, các ngài đã tuyên xưng nghĩa vụ
tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi một bản thể đã tạo dựng trời đất. Ra trước quan
quyền tra khảo về Đức Tin, các vị Tử Đạo đã quyết mình đưa tự do tín ngưỡng, và
Đạo Chúa là Đạo duy nhất, nếu mình từ bỏ là bất tuân lệnh Thượng Đế, là Thiên
Chúa. Đồng thời các ngài đã can đảm nói lên ý chí tôn trọng quyền bính trong
nước, nhưng không vì thế mà làm điều gì bất chính. Các ngài đã dạy phải tôn
kính Tổ Tiên theo truyền thốntg dân tộc, và dưới ánh
sáng mầu nhiệm Phục Sinh. Do đó, với sự dấn thân và hành động chứng nhân của
các vị Tử Đạo, Giáo hội Việt
Và rồi những cuộc đấu tranh, những căng thẳng chính trị hồi xưa xen
lẫn vào trong bang giao giữa giáo dân với nhà cầm quyền, những quan hệ lợi hại
giữa các tôn giáo, những lý do kinh tế xã hội, sự kiện người ta không hiểu
rằng: Tín ngưỡng bao hàm quan niệm siêu việt và phổ cập toàn thế giới… là những
yếu tố tạo nên trần gian như một nồi nung nấu, trong đó thanh lọc mọi khía
cạnh, để chỉ nổi bật nết khiết bạch và sức dũng mạnh của tấm gương nhân chứng.
7. (Tiếng Pháp) Đoàn
thể đông đảo các Tử Đạo, những gian lao đau khổ, những giọt nước mắt…, tất cả
đã tạo nên “mùa lúa vàng” của Thiên Chúa. Các ngài là những bậc Thầy, Cha xin
mượn dịp hôm nay, để nêu lên trước toàn thể Giáo hội sức sinh hoạt và hình vóc
hùng tráng của Giáo hội Việt Nam: ý chí kiên cường, sự nhẫn nại và khả năng
vượt mọi khó khăn để tuyên xưng danh Chúa Kitô. Chúng ta cảm
tạ Thiên Chúa vì tất cả mọi ơn lành mà Thánh Linh của Ngài hiện đang thực hiện
một cách dồi dào giữa chúng ta.
Một lần nữa, hỡi giáo đoàn Việt
8. “Máu các vị Tử Đạo là
hạt giống sinh nhiều tín hữu”.
“Hạt giống các người tín hữu”: ngoài con số từng ngàn từng vạn Giáo
dân trong các thế kỷ trước đây đã đi theo con đường tử nạn của Chúa, ngày nay
là tất cả những ai đang lao động trong khắc khoải, trong khó nghèo cực độ về
thể chất, kinh tế, trong hy sinh liên tục, nhưng chỉ mang một hoài bão là có
thể trung kiên trong vườn nho Thiên Chúa, xứng đáng danh hiệu những người quản
lý trung thành trong Nước Trời.
“Hạt giống các người tín hữu”: là tất cả những ai ngày nay vì chính
nghĩa Thiên Chúa và sống giữa những người đồng hương đang cố gắng tìm hiểu ý
nghĩa cây Thập Giá của Chúa Kitô. Thánh Giá bài trừ sự nói dối, bài trừ tội ác,
nhưng thúc đẩy con người biết tinh lặng, biết tha thứ, biết cầu xin cho nước
Chúa trị đến trong tâm linh nhân loại, và đặc biệt tại quê hương của họ là môi
trường đời sống.
Công tác này là công tác liên tục diễn tiến trong nội tâm vừa gay
go vừa trường kỳ vì luôn luôn bị hoàn cảnh đặc thù chế ngự, và âm mưu thử thách
Đức Tin, do đó đòi hỏi rất nhiều nhẫn nại. Phải xác tín rằng: đêm tối mịt mù sẽ
qua đi và ánh bình minh rạng rỡ đang ló rạng ngoài ngưỡng cửa.
9. (Tiếng Tây-ban-nha) “Những linh hồn lành
thánh ở trong tay Thiên Chúa” (Kn 3,1).
Chân lý trên đây được đề cao trong sách Khôn Ngoan càng là ánh sáng
quảng diễn biến cố long trọng hôm nay. Phải, “linh hồn lành thánh ở trong tay Thiên Chúa”, không hình khổ nào chạm tới được. Quả quyết như thế có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử.
Thực ra hình khổ đã va chạm thân xác các vị Tử Đạo, và
va chạm ghê gớm. Tuy nhiên, tác giả Thánh Kinh tiếp tục quảng diễn tư tưởng:
“Mắt
người điên dại cho rằng các ngài đã đi vào cõi chết, và kết liễu cuộc đời bằng
cái chết là một tai họa. Chết là một đổ vỡ, tuy nhiên các ngài vẫn sống trong an bình. Trước mắt trần gian các ngài đã
bị đau khổ, nhưng niềm hy vọng nơi các ngài mang nặng mầm mống trường sinh” (Kn 3, 2-4).
Các Thánh Tử Đạo: Tử Đạo Việt
10. (Tiếng Ý) Tất cả
những ai tin cậy ở nơi Ngài – nơi Chúa Kitô tử nạn và phục sinh – họ sẽ được
hiểu biết chân lý. Những ai trung thành với Ngài sẽ được cùng Ngài sống trong
thương yêu, là vì ân sủng và tình thương vẫn được dành cho những người được
tuyển chọn (Kn 3,9).
Anh em là dòng giống các vị Tử Đạo. Anh em là dòng giống những người được tuyển
chọn. Anh em hãy nghe hết lời sách Khôn Ngoan: “Trong ngày phán xét họ
sẽ long lanh như những tia sáng chiếu trên đồng cỏ từ đông sang tây” (3,7). Những tia sáng, những ánh đèn
phản chiếu nguồn quang minh rực rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn
Ngoan: “Các dân tộc sẽ trị vì, họ cai trị dân chúng. Nhưng trên tất cả Thiên
Chúa sẽ thống trị mọi loài” (3,8). Chúa
đây, tức là Chúa Kitô tử nạn và phục sinh. Ngài xuống
trần gian “Không để xét xử nhân loại, nhưng để nhân loại nhờ Người mà được cứu
rỗi” (Ga 3, 17). Chính Chúa Kitô này: anh em đã tham gia vào cuộc thống
khổ và tử nạn Thập Giá Ngài. Hôm nay anh em hãy tham gia vào
việc cứu độ trần gian mà chính Ngài đã kết thúc.
Nguyện chúc cho mùa lúa vàng của anh em muôn năm tồn tại
trong hoan lạc.
11. (Tiếng Việt): Giáo
dân Việt Nam thân mến, Cha gửi lời chào chúng con từ bốn phương trời tuốn về La
mã, vì ngày hân hoan mừng Chư Thánh Tử đạo, vinh dự của Giáo hội chúng con hôm
nay. Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng con, và Cha cầu chúc cho chúng con sống
xứng đáng đời sống con cháu các vị Anh Hùng.
C. Bản văn phụng vụ
Các lời nguyện trong Thánh lễ, các bài đọc trong Phụng vụ Giờ kinh,
bằng tiếng Latinh và tiếng Việt, đã được Bộ Phụng tự chuẩn y ngày 7/4/1988.
D. Sắc chỉ phong thánh
Xét về pháp lý, đây là văn kiện quan trọng nhất, nhưng ít người để
ý, kể cả Tòa thánh! Thật vậy, tuy được ký và đóng ấn vào ngày 19/6/1988 nhưng
mãi đến ba năm sau mới được đăng trên công báo Tòa thánh[5].
Sau đây là bản dịch từ nguyên gốc Latinh.
Gioan Phaolô giám mục, tôi tớ các tôi tớ Chúa
Để muôn đời ghi nhớ
“Mặt đất đầy máu các vị tử đạo tựa như hạt giống, và từ
hạt giống ấy nảy ra mùa gặt của Hội thánh. Những người chết khẳng định Đức Kitô còn mạnh mẽ hơn những người
sống. Ngày hôm nay các ngài đang khẳng định, ngày hôm nay các ngài đang
rao giảng: tuy lưỡi đã im bặt, nhưng việc làm vẫn còn reo vang” (Thánh
Augustinô, Bài giảng 286: PL 38,1298)[6].
Ý tưởng của thánh Augustinô nói về thời buổi sơ khai của Kitô giáo
khiến chúng tôi nghĩ ngay đến lịch sử cứu độ của Thiên Chúa cách đây bốn thế kỷ
tại miền Đông Nam Á, ở nước Việt Nam mà trước đây được gọi là Bắc kỳ (Tonquin),
Trung kỳ (Annam) và Nam kỳ (Cochinchine).
Quả thật mảnh đất trù phú nhờ lượng mưa và nước, đồng thời được
tưới nhờ vô vàn “những kẻ bị sát hại vì lời Chúa và lời chứng của mình. Họ đã
được trao tấm áo trắng .. cho
đến lúc đủ số những người cũng là tôi tới như họ ... cũng bị sát hại như họ”
(Kh 6,9-11).
Hạt giống đức tin công giáo đã được gieo vào giữa thế kỷ
XVI nhờ các vị thừa sai phát xuất từ Âu châu thuộc về dòng Giảng thuyết cũng
như dòng Tên và dòng thừa sai
Cho đến thế kỷ XIX, đã xảy ra nhiều đợt ngăn cấm đạo
Kitô, cách riêng dưới thời Vua Minh Mệnh (1820-1840) và Vua Tự Đức (1847-1883). Vào khoảng thời gian ấy, 108 vị đã tuyên xưng
đức tin trong số 117 vị được ghi vào sổ các thánh hôm nay. 8 giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân. Trong
số ấy, có 96 người Việt
Đây là danh sách dựa theo chức thánh của
các vị tử đạo từ năm 1745 đến 1862:
Giám mục:
Dominicus Henares,O.P.; Clemens Ignatius Delgado Cebrian, O.P.;
Petrus Rosa Ursula Dumoulin Borie, M.E.P.; Iosephus Maria Diaz Sanjurio,
O.P. ; Melchior Garcia Sampedro Suarez, O.P.; Hieronymus Hermosilla,
O.P.; Valentinus Berrio Ochoa, O.P.; Stephanus Theodorus Cuenot, M.E.P.
Linh mục:
Franciscus Gil De Federich, O.P.; Matthaeus Alonso Leciniana, O.P.;
Hyacinthus Castaneda, O.P.; Vincentius Lê Quang Liêm, O.P. ; Emmanuel Nguyễn
Vănn Triệu ; Ioannes Đạt ; Petrus Lê Tùy ; Franciscus Isidorus Gagelin, M.E.P.
; Iosephus Marchand, M.E.P. ; Ioannes Carolus Cornay, M.E.P.; Vincentius Đỗ Yến,
O.P. ; Petrus Nguyễn Bá Tuân ; Iosephus Fernandez, O.P.; Bernardus Vũ Văn Duệ;
Dominicus Nguyễn Văn Hạnh (Diệu), O.P.; Iacobus Đỗ Mai Năm ; Iosephus Đặng Đình
Viên ; Petrus Nguyễn Văn Tự, O.P.; Franciscus Jaccard, M.E.P.; Vincentius
Nguyễn Thế Điểm; Petrus Vũ Đăng Khoa; Dominicus Tước, O.P.; Thomas Đinh Viết
Dụ, O.P.; Dominicus Nguyễn Văn (Đoàn) Xuyên, O.P.; Andreas Dũng Lạc ; Petrus
Trương Văn Thi ; Paulus Phạm Khắc Khoan; Iosephus Đỗ Quang Hiển, O.P.; Lucas Vũ
Bá Loan; Dominicus Trạch (Đoài), O.P.; Paulus Nguyễn Ngân ; Iosephus Nguyễn
Đình Nghi ; Martinus Tạ Đức Thịnh; Petrus Khanh; Augustinus Schoeffler, M.E.P.;
Ioannes Aloisius Bonnard, M.E.P.; Philippus Phan Văn Minh; Laurentius Nguyễn
Văn Hưởng ; Paulus Lê Bảo Tịnh; Dominicus Mậu, O.P. ; Paulus Lê Văn Lộc;
Dominicus Cẩm, T.O.P.; Petrus Đoàn Công Quý; Petrus Franciscus Neron, M.E.P.;
Thomas Khuông, T.O.P.; Ioannes Theophanes Vénard, M.E.P.; Petrus Nguyễn Văn
Lựu; Iosephus Tuân, O.P.; Ioannes Đoàn Trinh Hoan; Petrus Almato Ribera, O.P.
Giáo dân:
Paulus Tống Viết Bường; Andreas Trần Văn Trông; Franciscus Xaverius
Cẩn; Franciscus Đỗ Văn Chiểu; Iosephus Nguyễn Đình Uyển, T.O.P.; Petrus Nguyễn
Đích ; Michael Nguyễn Huy Mỹ; Iosephus Hoàng Lương Cảnh, T.O.P. ; Thomas Trần
Văn Thiện ; Petrus Trương Văn Đường ; Paulus Nguyễn Văn Mỹ; Petrus Vũ Văn Truật
; Augustinus Phan Viết Huy; Nicolaus Bùi Đức Thể; Dominicus (Nicolaus) Đinh
Đạt ; Thomas Nguyễn Văn Đệ, T.O.P.; Franciscus Xaverius Hà Trọng Mậu, T.O.P.;
Augustinus Nguyễn Văn Mới, T.O.P. ; Dominicus Bùi Văn Úy, T.O.P. ; Stephanus
Nguyễn Văn Vinh, T.O.P. ; Petrus Nguyễn Văn Hiếu; Ioannes Baptista Đinh Văn
Thành; Antonius Nguyễn Hữu (Nam) Quỳnh; Petrus Nguyễn Khắc Tự; Thomas Toán,
T.O.P. ; Ioannes Baptista Cỏn; Martinus Thọ; Simeon Phan Đắc Hòa; Agnes Lê Thị
Thành (Đê); Matthaeus Lê Văn Gẫm; Iosephus Nguyễn Văn Lựu; Andreas Nguyên Kim
Thông (Nam Thuông); Michael Hồ Đình Hy; Petrus Đoàn Văn Vân ; Franciscus Trần
Văn Trung; Dominicus Pham Trọng (Án) Khảm, T.O.P.; Lucas Phạm Trọng (Cai) Thìn;
Iosephus Phạm Trọng (Cai) Tả; Paulus Hạnh; Emmanuel Lê Văn Phụng ;
Iosephus Lê Đăng Thị ; Matthaeus Nguyễn Văn Phượng; Iosephus Nguyễn Duy Khang,
T.O.P.; Iosephus Tuần ; Iosephus Tuệ; Dominicus Ninh; Dominicus Toại; Laurentius
Ngôn; Paulus Đổng; Dominicus Huyên; Petrus Dũng; Vincentius Dương; Petrus
Timan; Dominicus Mạo; Dominicus Nguyên ; Dominicus Nhi; Andreas Tường;
Vincentius Tương; Petrus Đa.
Nếu muốn ca ngợi các vị tử đạo theo ba bậc, chắc hẳn các Giám mục
đáng gọi là những người Cha đã sinh ra đoàn dân các tín hữu trong Đức Kitô (x.
1Cr 4,15), những kẻ làm chứng nhân cho Ngài cho đến
cuộc khổ nạn và thập giá. Các ngài đã trở nên “gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr
5,3) vì luôn nhìn vào khuôn mẫu là Đức Giêsu Mục tử
nhân lành.
Kế đến là 50 linh mục, được liên kết với nhau nhờ tác vụ Lời Chúa
và bằng những mối dây phát sinh từ chức thánh, họ đã trở nên những người trợ tá
cho hàng giám mục (Lumen gentium 28);
họ đã phân phát máu tinh tuyền của Con Chiên và nhờ đó chính họ cũng đã được
thanh luyện.
Sau cùng 59 giáo dân thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau,
hầu như tất cả là các gia trưởng và một vài thầy giảng. Họ đã sống bí tích thánh tẩy, đã làm chứng cho phép rửa bằng nước,
bằng lửa cũng như bằng thần khí (x. Mt 3,11). Họ đã
cộng tác đắc lực với các giáo sĩ, đã biến cộng đồng gia đình và giáo xứ trở
thành cộng đoàn truyền giáo, nghĩa là Hội thánh gia thất của việc cầu nguyện và
rao giảng Lời Chúa (x. Christifideles
laici, 32-33).
Thập giá Đức Kitô, mà họ đã thờ lạy chứ không chà đạp, đã
trở thành sự sống và ơn cứu độ cho hết mọi người.
Các giáo hoàng tiền nhiệm của tôi, Piô VI và Grêgôriô XVI, đã nhiều
lần ca tụng các ngài trong các công hội hồng y. Các vị tiền nhiệm đã ghi danh
các ngài vào sổ bộ các chân phúc vào bốn đợt: giáo hoàng Lêô XIII năm 1900,
giáo hoàng Piô X năm 1906 và 1909, giáo hoàng Piô XII
năm 1951. Ngày 18 tháng 4 năm 1986 Bộ phong thánh đã
gom tất cả vào một danh sách để phong thánh. Thật vậy, trước đó một năm,
Hội đồng giám mục Việt Nam đã thỉnh nguyện điều ấy, nhân dịp kỷ niệm 25 năm
thành lập phẩm trật Giáo hội, nơi mà hiện nay có 25 giáo phận và 6 triệu người
tín hữu. Các vị chủ chăn đã xin cho 117 chân phúc tử đạo được ghi vào sổ các
thánh để khi tôn kính và noi gương các bậc tiền bối, các tín hữu được can
trường trong việc làm chứng cho đức tin Kitô giáo. Hợp thỉnh với các vị là các
giám mục Philippin, Tây ban nha và Pháp, các Bề trên tổng quyền của Dòng Giảng
thuyết và Hội Thừa sai Paris.
Với nhiệm vụ củng cố anh em trong đức tin (x. Lc 22,32), chúng tôi hân hoan và cương quyết (x. 2Mc 1,3) đón
nhận lời thỉnh nguyện cao quý ấy. Qua nghị định ngày 5 tháng 6 năm 1986 của Bộ
Phong thánh, chúng tôi quyết định việc phong thánh, với việc miễn chuẩn phép
lạ, “vì xét đến sự kiên trường của các tín hữu Việt Nam trong đức tin nhờ gương
sáng và lời chuyển cầu của các chân phúc tử đạo, cũng như tiếng tăm của ơn lành
và phép lạ của một vài chân phước”.
Ngày 22 tháng 6 năm 1987, tôi đã triệu tập Công hội và đã
được sự tán đồng của các Hồng y và Giám mục, và đã ấn định ngày phong thánh.
Ngày 19 tháng 6, tại quảng trường thánh Phêrô, với sự hiện diện của hàng ngàn
khách hành hương, đặc biệt là người Việt, sau khi nghe lời thỉnh nguyện của
Hồng y Pietro Palazzini, bộ trưởng bộ Phong thánh, và đã kêu cầu những đấng
trong kinh cầu các thánh, chúng tôi đã tuyên bố công thức sau đây[7]:
“Ad
honorem Sanctae et Individuae Trinitatis, ad exarationem fidei catholicae et
vitae christianae incrementum, auctoritate Domini nostri Iesu Christi, beatorum
Apostolorum Petri et Pauli ac Nostra, matura deliberatione praehabita et divina
ope saepius implorata, ac de plurimorum Fratrum Nostrorum consilio, Beatum
Andream Dung-Lac, Thomam Thiên, Emmanuelem Phung, Hieronymum
Hermosilla, Valentinum Berrio-Ochoa, Theophanem Venard, et centum undecim
Socios, Martyres, Sanctos esse decernimus et definimus, ac Sanctorum catalogo
adscribimus, statuentes eos in universa Ecclesia inter Sanctos martyres pia
devotione recoli debere. In nomine Patris et Filii etSpiritus Sancti”.
Sau đó, chúng tôi đã truyền soạn thảo và gửi văn thư
này, và đã giảng về các nhân đức của các vị tân hiển thánh.
Làm tại Rôma, cạnh đền thánh Phêrô, ngày 19 tháng 6 năm 1998, năm
thứ 10 triều giáo hoàng của chúng tôi.
Tôi, Gioan Phaolô, Giám mục Hội thánh Công giáo.
Eugenius Sevi, Chánh Lục sự tông tòa
Đóng dấu ấn bằng chì
Sổ lưu phủ Quốc vụ khanh số 273-634
E. Lễ kính: ngày 24 tháng 11
Ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt
Sau đó, các giám mục Việt
Xin ghi thêm một nhận xét cuối cùng. Trước đây, lễ kính chung các chân phúc tử
đạo Việt
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
(nguồn: daminhvn.net)
[1] Hai văn kiện trên đây được đăng trong Analecta sacri ordinis
praedicatorum 8
(1900) 573-576; 14 (1906) 513-520
[2] Beatorum Caelitum honores decernuntur venerabilibus Dei martyribus
Francisci de Capillas ex Ordine Praedicatorum, Stephano Theodoro Cuenot
episcopo Metellopolitano, sacerdotibus Petro Francisco Neron, Ioanni Theophani
Venard, Ioanni Petro Noel, his quatuor e seminario missionum ad exteros, et
sociis eorumdem viginti novem.
[3] X. Thư của cha Damian Byrne bề trên tổng quyền Dòng Đaminh đệ lên
Tòa thánh, ngày 28/12/1985, trong Analecta sacri
ordinis praedicatorum 96 (1988),
112-114. Nên biết là thỉnh nguyện của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nhận được
hậu thuẫn của các Hội đồng Giám mục Tây ban nha, Pháp, Philippin, cũng như của
Dòng Đaminh và Hội Thừa sai Paris.
[4] Nghị định của Bộ phong thánh ngày 5/6/1986: “Summus Pontifiex
Joannes Paulus Divina Providentia Papa II, referente subscripto Cardinali
Praefecto atque attenta mirabili in sancta Fede perserverantia christifidelium
Vietnamiensium exemplis et precibus eorundem Beatorum Martyrum tributa, necnon
solida signorum et miraculorum fama quorundam ex iisdem Martyribus, benigne
precibus annuit pro gratia ita, ut a sueta
probatione iuridica unius miraculi in casu facta dispensatione,
ad solemnem canonizationem Beatorum Martyrum de quibus in precibus,
quandocumque celebrandam deveniri possit” in: Analecta sacri
ordinis praedicatorum 94
(1986) 41.
[5] Litterae decretales. Andreae Dung Lac presbytero, Thomae Thien et
Emmanueli Phung laicis, Hieronymus Hermosilla O.P., Valentino Berrio-Ochoa O.P.
et aliis sex episcopis, Theophani Venard prebytero et 105 sociis martyribus
honores decernuntur AAS
83 (6/5/1991) 377-381
[6] Đây là bài giảng của thánh Augustinô nhân lễ kính hai thánh
Gervasiô và Protasiô, tử đạo tại Milano, được kính vào ngày 19 tháng 6, tức là
ngày phong thánh cho các vị tử đạo tại Việt Nam.
[7] Xem bản dịch tiếng Việt ở trên đây
trong nghi lễ phong thánh (A).
[8] Nên biết là trong lịch phổ quát của Giáo hội, lễ kính các thánh tử
đạo tại Việt Nam được mừng như lễ nhớ bắt buộc, giống như các thánh Hàn quốc (28/9),
trong khi các thánh tử đạo Trung hoa (9/7) và Philippin (28/9) chỉ là lễ nhớ
nhiệm ý.