LỄ HIỂN LINH

(Mát-thêu 2: 1-12)

 

          Thiên Chúa làm người và giáng trần là một biến cố ngoài sự tưởng tượng của ta.  Đứng trước việc diệu kỳ Thiên Chúa đã thực hiện, ta gặp được những phản ứng vô cùng ý nghĩa.  Nào là Mẹ Ma-ri-a thì “hằng ghi nhớ những kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”.  Còn các người chăn chiên thì “kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi” và “ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa”.  Giờ đây đến lượt những nhà chiêm tinh từ xa tới, thay mặt cho lớp người không thuộc về dân riêng của Thiên Chúa, “đến bái lạy Người”.  Tất cả đều nhận ra được một điều gì đặc biệt về sự hiện diện và lòng yêu thương của Thiên Chúa, được tỏ ra cho nhân loại qua Hài Nhi Giê-su.  Họ nhận biết theo cách thức Thiên Chúa tỏ ra và theo khả năng họ lãnh nhận.  Nhưng có một điểm chung là việc nhận biết kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa diễn tiến như một hành trình kéo dài suốt cả cuộc sống.  Câu truyện các nhà chiêm tinh từ phương Đông đi gặp “Đức Vua dân Do-thái” trình bày hành trình sống động ấy và cho ta những bài học thực tế.

 

a)  “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?  Chúng tôi đã thấy vì sao của Người”

 

          Hành trình tìm gặp Chúa khởi đầu với dấu chỉ Chúa dùng để tỏ ra cho ta biết Người.  Đức Vua dân Do-thái, tức Thiên Chúa làm người, đã giáng trần một cách lặng lẽ, đến nỗi không ai biết nếu chính Thiên Chúa không tỏ ra cho họ biết.  Mẹ Ma-ri-a tuy là người trong cuộc, nhưng Mẹ cũng cần một dấu chỉ để nhận ra việc Ngôi Lời Nhập Thể là công việc trọng đại của Chúa Thánh Thần.  Dấu chỉ Chúa dùng để tỏ ra cho Đức Mẹ là bà chị họ Ê-li-sa-bét tuy lớn tuổi, nhưng đã có thai được sáu tháng, “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).  Với các người chăn chiên, dấu chỉ để họ nhận ra “vinh quang Thiên Chúa” và “bình an cho những người Chúa thương” là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.  Dấu chỉ Thiên Chúa dùng bao giờ cũng hợp với tầm hiểu biết và hoàn cảnh của mỗi người.  Với một thiếu nữ như Mẹ Ma-ri-a, dấu chỉ là việc mang thai.  Với các mục đồng, dấu chỉ là trẻ sơ sinh và máng cỏ.  Còn với các nhà chiêm tinh, dấu chỉ là một vì sao.  Những điều này chứng tỏ Thiên Chúa không khi nào tỏ mình cho ta bằng những dấu chỉ ngoài tầm hiểu biết của ta.

          Vấn đề không phải là thiếu dấu chỉ, nhưng là ta có “thấy” được điều Thiên Chúa muốn cho ta biết qua dấu chỉ ấy hay không.  Nếu ngôn ngữ là dấu chỉ thông dụng nhất để ta thông đạt với nhau và hiểu nhau, thì Thiên Chúa cũng sử dụng một dấu chỉ hoàn hảo nhất để tỏ mình ra cho chúng ta.  Thư Do-thái đã nói đến dấu chỉ ngôn ngữ này:  “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ;  nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử...  Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1:1.2).  Vậy từ nay, ngôn ngữ của Thiên Chúa là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).  Với cả cuộc đời con người, từ khi thành thai trong lòng mẹ, sinh ra, lớn lên, thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, cho tới khi tắt thở trên thập giá, Chúa Giê-su đã trở thành một dấu chỉ, một “vì sao” để soi dẫn ta và đưa ta đến với Thiên Chúa.  Chúa Giê-su cho ta biết Thiên Chúa muốn nói gì với ta và Chúa Giê-su cũng cho ta biết ta phải đáp lời Thiên Chúa như thế nào.

          Các nhà chiêm tinh đã “thấy” vì sao, không phải như đã thấy các vì sao khác, nhưng là vì sao của Hài Nhi.  Sách Tin Mừng không cho ta biết hành trình của họ từ phương Đông tới Do-thái diễn tiến thế nào.  Nhưng ta chắc một điều hành trình ấy không phải dễ dàng.  Nếu quả thực họ là những “vua” như truyền thống thường hiểu thì lại càng khó hơn nữa.  Như vậy, chỉ có cái “thấy” của đức tin mới có đủ mãnh lực để giúp họ lên đường và vượt thắng mọi khó khăn.

 

b)  “Ngôi sao dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại.  Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng”

 

          Dĩ nhiên đây không phải là một hình ảnh khoa học, nhưng là một biểu tượng đức tin hết sức ý nghĩa.  Ngôi sao là một dấu chỉ, và dấu chỉ thi hành tác vụ của nó là dẫn đường, giúp ta nhận ra được điều hoặc hình ảnh nó biểu tượng.  Vậy khi dừng lại nơi Hài Nhi ở, ngôi sao muốn nói điều gì với các nhà chiêm tinh hoặc với ta hôm nay? 

Để hiểu ý nghĩa ngôi sao, ta đọc lại câu truyện ông Bi-lơ-am trong Cựu Ước.  Ông Bi-lơ-am được vua Ba-lác mời đến xứ Mô-áp để chúc dữ cho dân Chúa.  Nhưng thay vì chúc dữ, ông lại chúc lành và đọc sấm ngôn:  “Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa...  Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc, tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên, đó là một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds 24:16.17).  Ngôi sao ông Bi-lơ-am đã “nhìn nhưng chưa thấy nó kề bên” thì bây giờ xuất hiện và dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến gặp Hài Nhi Giê-su.  Nó biểu tượng cho vương quyền của Đức Vua dân Do-thái, Đấng đã được Thiên Chúa tặng ban danh hiệu GIÊ-SU, để “khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ;  và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:  “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2:10-11).

Thánh Mát-thêu cũng không quên cho ta biết tâm tình của các nhà chiêm tinh khi được ngôi sao dẫn đường:  họ mừng rỡ vô cùng.  Vui mừng là tâm tình quan trọng của hành trình đức tin.  Nó biểu lộ thái độ tự hào của những người bước đi trong niềm hy vọng được cứu độ như thánh Phao-lô diễn tả (Rm 5:1-11).  Vui mừng làm cho các nhà chiêm tinh thêm can đảm và quảng đại hiến dâng tất cả những gì mình có, để giúp cho “mầu nhiệm Ki-tô” được tỏ bày cho mọi người.  Các lễ vật họ tiến dâng là những dấu chỉ nói lên con người, sứ mệnh và uy quyền của Chúa Giê-su.  Chúa Giê-su là Vua (biểu tượng là vàng), là Thiên Chúa (biểu tượng là nhũ hương) và là người (biểu tượng là mộc dược).

Ngoài ra, thánh Mát-thêu còn cho ta biết thêm một điều rất ý nghĩa về các nhà chiêm tinh:  “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình”.  Ta nhận thấy câu truyện đầy những biểu tượng.  Đã gặp được Hài Nhi, Vua trời đất, thì làm sao ta có thể trở lại gặp Hê-rô-đê, biểu tượng cho sự tàn ác?  Từ nay, các nhà chiêm tinh và cả ta nữa, gặp được Chúa Ki-tô là ta có một con đường, một lối khác để đi về quê hương đích thực của ta là Thiên Chúa.  Mai mốt khi lớn lên và thi hành sứ vụ, Chúa Giê-su sẽ nói với mọi người:  “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6).  Từ nay, “xứ” của các nhà chiêm tinh và của ta không còn là Ba-tư hay một địa danh nào nữa, nhưng là cùng đích của hành trình đức tin, tức là được trở về nhà Cha và cùng hưởng gia nghiệp vĩnh cửu với Con Một Người.

 

c)   Suy nghĩ và cầu nguyện

 

           Muốn biết lái xe, tôi cần học những dấu hiệu đi đường.  Vậy tôi có tập đọc những dấu chỉ chung quanh tôi để nhận ra được sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa không?  Những dấu chỉ nào từ thiên nhiên?  Từ những lời nói và hành động yêu thương của người khác?  Hoặc chính tôi có trở nên dấu chỉ để người khác nhận biết Chúa Ki-tô?

          Ngôi Sao dẫn lối đời tôi chính là Chúa Giê-su.  Vậy tôi đã biết gì về Ngôi Sao ấy và đã theo Ngôi Sao ấy thế nào?

          Đức Ki-tô là niềm tự hào của thánh Phao-lô.  Ngôi sao làm cho các nhà chiêm tinh vô cùng mừng rỡ.  Thánh Lê-ô Cả thì viết:  “Anh em thân mến, được biết các mầu nhiệm ân sủng này của Thiên Chúa, chúng ta hãy hân hoan mừng ngày khởi đầu của chúng ta, ngày Chúa bắt đầu kêu gọi các dân tộc” (Bài đọc 2, giờ Kinh sách lễ Hiển Linh).  Đâu là tâm tình của tôi trong quan hệ với Chúa Giê-su?  Tâm tình ấy giúp gì cho tôi trong hành trình đức tin?

 

Cầu nguyện

 

          “Lạy Chúa Giê-su thương mến,

          xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.”

- Mẹ Têrêxa Calcutta

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 68)

           

 

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

 

 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B