Chúa Nhật thứ 2 Phục Sinh

 (27-4-2003)

ĐỌC LỜI CHÚA

 

·     Cv 4,32-35: (33) Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.

·     1Ga 5,1-6: (4) Điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta. Nguồn mạch đức tin (5) Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa?

 

·     TIN MỪNG: Ga 20,19-31

 Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ

 (// Mt 28,16-20; Mc 16,14-18; Lc 24,36-49)

 (19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em!» (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: «Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ».

 (24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: «Chúng tôi đã được thấy Chúa!» Ông Tôma đáp: «Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin». (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em». (27) Rồi Người bảo ông Tôma: «Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin». (28) Ông Tôma thưa Người: «Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!» (29) Đức Giêsu bảo: «Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!»

 (30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.

 

CHIA SẺ

 

Câu hỏi gợi ý:

1.   Việc Tôma đòi hỏi những chứng cứ để tin như thế có gì quá đáng không? Có gì tích cực, đáng khen trong sự đòi hỏi đó không? Để tin cho vững chắc đến mức có thể dấn thân hết mình cho niềm tin ấy, việc đòi hỏi những chứng cứ chắc chắn có cần thiết không?

2.   Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng đầu để được cứu rỗi. Nhưng đức tin ấy có cần phải có chất lượng không? hay chỉ cần một đức tin xoàng xoàng là đủ? Đức tin có chất lượng là gì?

      3.   Một người tuyên xưng đức tin mạnh mẽ có chắc chắn là một người có đức tin mạnh mẽ không? Tuyên xưng thật mạnh mẽ nhưng lòng thì không tin được như vậy, đó có phải phần nào là giả dối không?

 

Suy tư gợi ý:

 

1.    Thái độ của Tôma: đòi hỏi bằng chứng mới chịu tin

Bài Tin Mừng hôm nay nói đến thái độ của tông đồ Tôma. Ông đòi buộc phải thấy dấu đinh trong tay Đức Giêsu, xỏ ngón tay vào lỗ đinh ấy rồi đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, thì ông mới tin. Lý trí thiên về thực nghiệm và có chiều hướng khoa học của ông đòi buộc ông phải làm như thế, nếu không, ông không thể chấp nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại, vì việc sống lại quả hết sức khó tin. Nhưng rất có thể là sau khi được thỏa mãn những đòi hỏi ấy, Tôma xác tín việc Chúa sống lại hơn nhiều tông đồ khác. Người ta vẫn nói: «đại nghi thì đại ngộ» (nghi ngờ lớn thì giác ngộ lớn)! Các tông đồ khác – với bản tính đơn sơ, dễ tin hơn – không cảm thấy phải có những bằng chứng rõ ràng như Tôma mới tin được. Các ông chỉ dựa vào một số những biến cố thấy được nơi Thầy mình trước đây, như cuộc hiển dung trên núi Tabo, khả năng làm phép lạ như hóa bánh ra nhiều, làm sóng gió ngoài biển phải im lặng, thậm chí làm được cho kẻ chết sống lại nhiều lần, v.v… là các ông đã đủ để tin rồi.

Đòi hỏi hay không đòi hỏi bằng chứng để tin không phải là chuyện quan trọng. Điều này tùy thuộc vào bản tính Trời cho của mỗi người. Điều quan trọng là phải làm sao để tin cho chắc, tin cho vững, tin tới mức có thể dám dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Có những người rất dễ tin, vì thế niềm tin ấy không được xây dựng trên cơ sở vững chắc để có thể giúp họ dấn thân hết mình cho điều mình tin, nên khi gặp những giông tố thử thách, nghe những lý thuyết ngược lại, thì đức tin đâm ra bị chao đảo. Vì thông thường là: nếu dễ tin trong trường hợp này thì cũng sẽ dễ tin trong những trường hợp khác! Hay dễ được thì cũng dễ mất! Cũng có những người đòi hỏi đầy đủ chứng cớ mới chịu tin. Có thể họ không tin nếu chưa đủ chứng cớ. Nhưng một khi đã có chứng cớ làm cơ sở để tin, thì họ lại tin rất vững chắc tới mức độ có thể dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Hạng người sau sẽ ích lợi cho Thiên Chúa, Giáo Hội và nhân loại hơn. Cũng có thể có những người tuy dễ tin, nhưng vẫn tin vững chắc và không thay đổi được. Điều này theo lý luận thì khá nghịch lý, nhưng vẫn có thể xảy ra, vì trong thực tế vẫn có những điều rất nghịch lý!

Trong Kitô giáo, đức tin là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, tin hay không tin không quan trọng bằng chất lượng của đức tin. Người tin hời hợt cũng là tin, và người tin một cách xác tín cũng là tin. Nhưng giá trị của hai thứ đức tin ấy khác hẳn nhau.

2.    Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng đầu

Người Kitô hữu coi việc rỗi linh hồn, tức hạnh phúc vĩnh cửu, là điều quan trọng nhất. Họ có thể hy sinh tất cả mọi thứ khác trên đời cho hạnh phúc vĩnh cửu ấy, và đó chính là sự khôn ngoan căn bản của họ. Vì như Đức Giêsu nói: «Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời thì ích lợi gì?» (Lc 9,25). Nhưng muốn được sự sống đời, thì phải tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu-Kitô, hay vào Tin Mừng của Ngài như một điều kiện không thể không có: «Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc 16,16); «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9).

3.    Nhưng điều quan trọng là chất lượng của đức tin

Nhưng thế nào là tin đúng với ý nghĩa của chữ «tin»? Nhiều người tưởng rằng mình tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu, nhưng thật ra họ chẳng tin hay chỉ tin rất ít! Chỉ cần Chúa gửi đến cho họ một vài thử thách là họ sẽ thấy ngay họ có tin hay không, hoặc tin ở mức độ nào.

Thật vậy, trong những điều kiện bình thường không có gì đe dọa, có biết bao người tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, rao giảng đức tin hùng hồn không ai bằng. Thậm chí để bảo vệ đức tin, họ không ngần ngại lên tiếng kết án những kẻ xem ra yếu đức tin hoặc tin khác với mình. Nhưng khi có thử thách xảy tới, chẳng hạn khi tình thế đòi buộc phải lên tiếng bảo vệ đức tin, bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ công lý, và việc lên tiếng bảo vệ này đòi hỏi phải trả một cái giá nào đấy, thì họ lại sẵn sàng im lặng bất động, bỏ mặc đức tin, Giáo Hội và công lý ra sao thì ra. Hay khi đức tin đòi hỏi phải dấn thân hy sinh, chịu thiệt thòi một cách cụ thể mà trước mắt không được bù đắp lại, lúc đó họ mới nhận ra đức tin của họ – mà họ vẫn tưởng rất mạnh mẽ – hóa ra là thứ đức tin chỉ tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng mà thôi!

4.    Tin thật trong lòng quan trọng hơn tuyên xưng ngoài miệng

Phải nói rằng chúng ta chú tâm vào việc tuyên xưng đức tin hơn là sống đức tin, chúng ta quan tâm chứng tỏ đức tin bằng miệng, bằng lời nói nhiều hơn bằng hành động. Chúng ta có khuynh hướng chọn cái dễ hơn, cái «rẻ tiền» hơn để thực hiện, chứ không chọn cái thật sự cần thiết dù là «đắt giá», vì thế, đời sống đức tin và việc truyền giáo của chúng ta không đi đến kết quả mong muốn. Theo thánh Phaolô thì «tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ» (Rm 10,10). Chúng ta có vẻ coi việc xưng ra ngoài miệng quan trọng hơn việc tin thật trong lòng. Có phải chúng ta coi việc «được ơn cứu độ» quan trọng hơn việc «được nên công chính»? Nhưng cần xét lại xem: có ai không trở nên công chính mà được ơn cứu độ nhờ «xưng ra ngoài miệng» không? Lời ấy của thánh Phaolô đòi hỏi chúng ta phải làm cả hai, và điều trước (tin thật trong lòng) thì quan trọng và cần thiết hơn điều sau (xưng ra ngoài miệng)! Điều sau chỉ là hiệu quả chứng tỏ điều trước mà thôi. Vì theo tự nhiên thì «lòng có đầy, miệng mới nói ra» (Mt 12,34; Lc 6,45). Lòng không đầy mà ngoài miệng lại nói ra thật hùng hồn mạnh mẽ thì rất có thể đã có phần nào giả dối trong đó!

Thật vậy, thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng chứ không được chứng tỏ bằng hành động chỉ là đức tin giả dối, hay «đức tin chết»: «Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Liệu người ta có thể được cứu rỗi với thứ «đức tin chết» ấy không?

5.    «Phúc thay những người không thấy mà tin!»

Quả thật, nếu thấy rồi thì đâu còn là tin nữa, mà là thấy, biết! Như vậy, tin khác với thấy, biết. Tin chỉ có ý nghĩa khi đối tượng tin còn mù mờ, chưa sáng tỏ, nó vừa đòi hỏi lý trí nắm được một số chứng cứ để tin, vừa đòi hỏi ý chí chấp nhận một kết luận vượt khỏi giới hạn mà những chứng cứ ấy chứng tỏ. Chẳng hạn bố mẹ tôi nói với tôi rằng lúc nhỏ tôi bị một chứng bệnh rất nguy hiểm mà tôi đã thoát được. Tôi tin điều ấy, chứ không phải tôi biết hay thấy điều ấy. Để tin điều ấy, trong tôi có tác động của lý trí và ý chí. Lý trí tôi dựa trên những chứng cứ xác thực này:

– bố mẹ tôi sinh ra tôi và nuôi tôi nên biết rõ điều đó.

– bố mẹ tôi là một người chân thật, không hay nói dối

– tôi thấy bố mẹ tôi không có lợi gì khi dối gạt tôi điều này.

Những chứng cứ ấy chưa đủ để tôi có thể kết luận chắc chắn điều ấy. Nhưng dựa trên những chứng cứ xác đáng ấy, tôi xác định rằng điều bố mẹ nói về chứng bệnh lúc tôi còn nhỏ ấy là sự thật. Xác định điều ấy khi chưa hoàn toàn sáng tỏ là việc làm của ý chí tự do.

Lời của Đức Giêsu: «Phúc thay những người không thấy mà tin!» đặc biệt áp dụng cho chúng ta hơn là cho các tông đồ. Tất cả chúng ta chẳng ai thấy Đức Giêsu, chẳng ai thấy Ngài sống lại. Nhưng chúng ta tin điều ấy. Niềm tin ấy được xây dựng trên những lời chứng phải trả giá bằng máu, bằng mạng sống của các tông đồ, là những người đã sống với Đức Giêsu và đã chứng kiến Ngài sống lại: «Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. 3,15; 4,33; 10,39.42; 13,31). Không ai lại sẵn sàng chết để làm chứng một điều gian dối chẳng đem lại lợi lộc gì cho mình.

 

CẦu nguyỆn

Lạy Cha, xin củng cố đức tin cho con, đồng thời giúp con luôn thành thật với niềm tin của mình. Đừng để cho con trở nên giả dối: tin thì không mạnh, nhưng tuyên xưng ngoài miệng thì rất là mạnh.                                                

Joan Nguyễn Chính Kết


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B | Về Trang Nhà