MARIA,  MẸ  TÔI

___________________________________________________

 

Lòng Mẹ yêu con trời rộng mở

Hồn con mến Mẹ biển chơi vơi.

 

        Lần ấy vào dịp cuối năm gần ngày Tết rồi, thánh Don Boscô đau nặng sắp chết, có một cha đến   nói với Ngài :”Chắc Chúa không để cha sống lâu được nữa, nhưng con phải thay mặt cha cho quà các em, vậy cha dạy con phải cho các em thứ quà nào”? Thánh Don Boscô trả lời :”Cha sẽ cho các em hai thứ quà này :

-       Sùng mộ phép Thánh thể

-       Yêu mến Mẹ Maria.

 

I.  TẠI SAO TA PHẢI YÊU MẾN MẸ MARIA ?

 

 1. Ngài là Mẹ tôi.

 

Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu tại sao Maria là Mẹ tôi : vì lý do gì ta dám gọi Ngài là Mẹ

trong khi Ngài chỉ sinh ra Chúa Giêsu ? Nếu Chúa đã ban cho ta một người Mẹ nhân ái dịu dàng như vậy, chúng ta có yêu Ngài không ?  Tục ngữ Pháp có câu :”Tình yêu của người mẹ không già”, và Bersot cũng ca tụng tình yêu của người mẹ :”Trong vũ trụ có lắm kỳ quan, nhưng kỳ quan tuỵệt hảo nhất vẫn là trái tim của một người mẹ”.

 

a)  Mẹ nghĩa là gì ?

 

     Có lẽ đặt ra câu hỏi này cũng bằng thừa, không cần phải định nghĩa bởi vì ai cũng biết

người sinh ra mình là mẹ mình. Câu nói đầu tiên trên môi của đứa trẻ là me, mẹ, má, mợ. mạ hoặc mater, maman, mother... Đứa trẻ không cần biết mẹ nghĩa là gì mà chỉ biết yêu qúi người đã sinh ra nó.

 

        Không những con người mới có mẹ, mới biết yêu mẹ, mà ngay đến cả con vật cũng có tình mẫu tử, tình yêu cũng nảy nở nơi mẹ con. Không ai có thể phủ nhận được tình yêu mẹ con nơi giống vật. Những nhận xét hằng ngày của chúng ta đã chứng tỏ điều đó, và cũng không thiếu gì những câu chuyện rất cảm động nói về tình mẫu tử của các giống vật.

 

                        Truyện : tình mẫu tử nơi loài chó.

        Một nhà bác học nghiên cứu về trí thông minh của loài vật. Một hôm ông bắt một con chó mẹ và 5 con chó mới sinh đem bỏ ở cánh đồng xa chừng 3 cây số. Sau khi bỏ chó con ở lại, người ta đem chó mẹ về nhà. Sáng ra, người ta thấy 3 con chó con đã trở về nhà, nằm phục xuống dưới gầm giường kêu ăng ẳng.  Người ta nhìn lại thì chó mẹ đã chết từ bao giờ. Thì ra đêm qua chó mẹ đã lần lượt băng qua cánh đồng, tha 3 con về nhà, nhưng đến lần thứ ba, thì vì mới sinh xong, chó mẹ kiệt sức nên chết.

 

        Nếu con vật còn biết thương con cái như vậy, tại sao loài người lại không có ? Đứa trẻ gọi người sinh ra nó là mẹ, và chỉ biết cả ngày quấn quít bên mẹ, đòi quà bánh mỗi khi mẹ đi chợ về :

 

                        Mẹ em đi chợ đàng ngoài,

                        mua em cây mía vừa dài vừa cong.

                        Mẹ em đi chợ đàng trong,

                        mua em cây mía vừa cong vừa dài.

 

        Chúng ta có thể nói : một món quà đặc biệt và qúi giá nhất mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, đó là người mẹ.  Đối với đứa trẻ, có người mẹ là có tất cả, và ngược lại, mất mẹ là mất tất cả.  Người ta cần yêu để sống và đối với đứa trẻ điều cần thiết nhất là được yêu. Vì thế Grétry đã nói :”Tuyệt phẩm của tạo hóa, đó là trái tim của một người mẹ”.

 

                        Truyện : cha Roh và mục sư.

        Cha Rôh, dòng Tên, với tài ứng đáp lanh lẹ, với tinh thần vui vẻ, một hôm đã nói với một mục sư Tin lành phái Luther ở Hambourg :

             -  Chúng tôi thì khác, là những người công giáo, chúng tôi giữ được nét vui tươi, tính vui vẻ. Còn các ngài, anh em Tin lành, các ngài luôn luôn khô khẳng, so đo, do dự, buồn phiền .

- Đúng thế, vị mục sư thú nhận. Nhưng nhận xét như thế rồi, xin Linh mục cho biết lý do tại sao ?

- Ồ được, tôi sẽ nói cho mục sư rõ : trong một nhà, vắng bóng bà mẹ, là cả một sự tiêu điều .Khi bà còn sống, con cái vui nhộn. lanh lợi, nhanh nhẹn, lúc bà khuất đi, đàn trẻ đâm ra ủ rũ, trầm mặc, buồn sầu...  Theo chủ trương canh tân của các ngài, các ngài không còn mẹ nữa... Chúng tôi người Công giáo, chúng tôi có bà Mẹ này, Người là Mẹ Thiên Chúa cùng là Mẹ chúng tôi. Đó là lý do khiến chúng tôi vui vẻ. Còn qúi ngài Tin lành, vì lỗi của qúi ngài đã mất người Mẹ. Vì thế qúi ngài khô khan và buồn bực.         

                (Trinh Cát, Tôi đọc truyện Đức Mẹ, 1957, tr 12-13)

 

        Victor Hugo đặt câu hỏi :”Bạn có biết có một người mẹ nghĩa là gì không ?  - Bạn ï, bạn có mẹ không ? – Bạn có biết một đứa con, đứa con khó nghèo, yếu đau trần truồng, khốn khổ, đói khát, cô đơn ở trần thế là gì không ? – Và bạn có cảm thấy kề bên bạn, quanh bạn, ở trên bạn, một người đàn bà. đi khi bạn đi, dừng khi bạn dừng, nhoẻn miệng cười khi bạn khóc ? – Người nhìn bạn dạy bạn nói, dạy bạn đọc, dạy bạn yêu, ấp ủ những ngón tay bạn trong lòng tay Người, thân thể bạn trên gối Người, bú mớm khi bạn còn bé thơ, cơm bánh lúc bạn khôn lớn. Rồi suốt đời bà, bạn gọi người :: Mẹ con ! Và người gọi lại bạn : con của mẹ ! một cách hết sức dịu dàng, đến nỗi hai tiếng gọi đó làm Chúa cũng hài lòng”.

                (MM Arami, Sống, Hương quê, 1970, tr 108-109)

 

b)  Tại sao Maria là Mẹ tôi ?

 

     Chúng ta có thể đưa ra đây hai bức họa để trình bầy những lý do khiến Đức Maria là Mẹ

chúng ta, cả hai bức họa đó đều được rút ra trong Thánh kinh, có nền tảng thần học vững chắc. Hai bức họa đó là tại nhà Nazareth và đồi Calve.

 

        . Bức họa thứ nhất. 

                                Nazareth, thành phố xứ Galilêa, giữa những dẫy nhà trắng xóa, hiện ra một căn khiêm tốn của Đức Trinh Nữ rất thánh. Sứ thần đến gặp Maria và thưa :

- Kính chào cô, cô có phúc hơn mọi người nữ... Cô sẽ thụ thai và sinh một con trai, cô sẽ gọi là Con Đấng tối cao. Nước Người sẽ không bao giờ cùng... Cô có bằng lòng nhận thiên chức làm Mẹ này không ?

        Maria trả lời :

        - Fiat : xin vâng.

        Ngay lúc đó, Thiên Chúa xuống trong lòng Mẹ Maria. Với thịt và máu của Maria, Ngài cấu thành một thân xác con người và tạo dựng một linh hồn con người kết hợp với thân xác. Với tạo vật người mới này, Thiên Chúa Con kết hợp bản tính thiên linh Người, một cách hết sức chặt chẽ đến nỗi hai bản tính chỉ làm nên một ngôi vị, và chính là ngôi vị thiên linh : Ngôi Hai Thiên Chúa.

 

        Maria trở thành người mẹ của Con Người Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô. Maria cũng là Mẹ chúng ta. Lý do là vì ơn thánh hóa làm cho chúng ta trở thành anh em của Chúa Kitô, Mẹ của người Anh chúng ta, là Mẹ chúng ta. Sách Thánh nói :”Maria sinh Con đầu lòng” (Lc 2,7). Con đầu lòng là Chúa Giêsu, kế tiếp là chúng ta.

 

        Tại sao Đức Maria là Mẹ chúng ta ?  Vì ơn thánh hóa làm cho chúng ta nên chi thể Chúa Kitô. Chúa Kitô toàn diện, nhiệm thể Chúa Kitô gồm một đầu, là chính Chúa Kitô đích vị, và các chi thể, là chính chúng ta. Là Mẹ của đầu, Đức Maria cũng là Mẹ các chi thể, Mẹ chúng ta.

 

        Thánh Grignon de Monfort nói :”Không bà mẹ nào sinh đầu mà lại không sinh các chi thể, và sinh chi thể mà lạ không sinh đầu : nếu không, đó phải là một quái thai. Trong trật tự ơn thánh cũng thế, đầu và chi thể sinh ra do cùng một bà mẹ, và nếu một chi thể trong nhiệm thể Chúa Kitô sinh ra không phải do Đức Maria, Người đã sinh đầu, thì đây không phải là chi thể Đức Giêsu Kitô, nhưng là một quái vật trong trật tự ơn thánh”.

 

        Như vậy Đức Maria là Mẹ các chi thể, Mẹ chúng ta cùng theo một thể cách như Người là Mẹ Chúa Giêsu, vị thủ lãnh phải không ? – Chắc chắn không phải thế. Là Mẹ Chúa Kitô theo bản tính, còn với chúng ta, theo ơn thánh. Nhưng, là Mẹ thật chúng ta. “Từ giây phút thưa XIN VÂNG Đức Maria bắt đầu cưu mang chúng ta trong lòng” (Thánh Anselmô).

 

        . Bức họa thứ hai.

        Đồi Canvê. Chiều thứ sáu tuần thánh. Giêsu bị đóng đinh, mình đầy máu bị treo trên thánh gía, giữa trời và đất, Maria, Gioan, các phụ nữ nhân đức, các lính hành hình, đám người tò mò đi coi. Giêsu nhìn Mẹ Người và gần Mẹ Người, môn đệ  yêu dấu. Người thưa với Mẹ :”Thưa Bà, này là con Bà”. Rồi bảo môn đệ :”Này là Mẹ con” (Ga 19,26-27).

 

        Gioan là ai ? Đây không phải chỉ là một mình Gioan, nhưng là Gioan và mỗi người chúng ta, vì bất cứ ai sống trong ơn thánh không phải chỉ là một con người đơn thuần, nhưng là một chi thể của Chúa Kitô, Giêsu, Gioan , chúng ta : tất cả chỉ làm nên một, một Kitô duy nhất toàn vẹn, một người con độc nhất của Maria. Maria thật là Mẹ chúng ta.

 

        Tại Nazareth, Maria cưu mang chúng ta trong lòng. Tại Belem, Maria sinh chúng ta, nhưng không phải đau đớn. Trên đồi Canvê, Maria sinh chúng ta trong nước mắt với lòng tan nát.

                (MM. Arami, Sống, Hương quê, 1970, tr 109,112)

 

        Theo luật thường, con phải có cha có mẹ, trong phạm vi ơn thánh, con thực của Giáo hội có Chúa làm cha, có Maria làm Mẹ. Ai tự hào chỉ có Chúa là Cha, mà không có Maria là Mẹ dịu hiền, họ nói láo, họ là con của Satan.

                (Thánh Grignon de Monfort, Sách vàng, Senatus Saigòn, 1969, tr 9)

 

        Chính Luther, hồi chưa lập Thệ phản, đã viết những câu đáng yêu như câu :”Gọi Đức Mẹ là Mẹ Chúa Trời, người ta đã nói đến hết vinh quang của Đức Mẹ. Không ai có thể đặt cho Đức Mẹ địa vị cao sang hơn địa vị làm MẸ  CHÚA TRỜI, dù có nhiều lưỡi như lá rừng, cỏ đất, sao trời,cát biển, không một ai có thể làm cho Đức Mẹ trọng vọng hơn... Phải nhận Đức Mẹ có những đặc ân vượt trên các tạo vật có trí luận”

                (La Vierge Marie, Petite somme Mariale, 1942, tr 17-18)

 

        Lammenais viết :”Tôi có hai mẹ : một mẹ ở dương thế và một mẹ ở cõi trường sinh”.  Nhưng ông ta đã phản giáo và khi gần trút linh hồn lại trối rằng :”Khi chôn ta thì đừng đọc kinh Kính mừng nào ở trên mộ ta”.

                (Maria, phụ trương Tông dồ, 11/1960, tr 14)

 

c) Tình yêu mẹ con là lý đương nhiên.

 

     Người ta phải ăn mới sống, Ăn là điều kiện của sự sống sinh lý. Nhưng yêu cũng là điều

kiện cho đời sống tâm lý, không yêu không sống nổi. Chữ yêu đây được hiểu như là yêu hoặc được yêu. Yêu là bản tính đi liền với con người cũng như loài vật. Câu chuyện dưới đây chứng tỏ khẳng định ấy.

 

                          Truyện : chết vì thiếu tình yêu.

        Trong cuốn “Tâm lý học ứng dụng”, ông Hoàng xuân Độ có kể lại một câu chuyện cảm động này : sau cuộc đại chiến thứ hai 1939-1945, nền quốc xã Đức bị sụp đổ tại miền tây Đức, các nuớc đồng minh trong khối dân chủ Tự do, xúc cảm trước những cảnh gia đình bị tàn phá bèn thiết lập những cô nhi viện để cứu giúp trẻ thơ.

 

        Thế rồi, một tai nạn khủng khiếp và bất ngờ đã xẩy ra : Tại nhiều dưỡng đường ấy, chỉ trong vòng mấy tuần lễ, hàng trăm thiếu nhi, vẫn có vẻ khỏe mạnh như thường, mà tự nhiên ngã lăn ra tắt thở. Khám xét tử thi, các bác sĩ không thấy một thứ bệnh gì. Sau các nhà tâm lý phải ráo riết nghiên cứu, thì ai nấy đều nghiễm nhiên nhận thấy và chứng minh được rằng trẻ đã chết vì thiếu tình yêu, dù vẫn được no ấm hơn thường.

 

        Đã  rõ căn nguyên, các nước bèn chọn lọc những nhũ-mẫu trong hàng các phụ nữ có tiếng là yêu trẻ, để triệt để trông nom các dưỡng đường, thì các cô nhi còn lại, từ đó không còn chết chóc bất thần như các bạn xấu số của chúng nữa.

                 (  P-C, Boyd Barett, Sống là yêu, Saigòn, 1965, tr 7-8)

 

        Trong đời sống tâm lý, con người cần có tình yêu để sống. Trong đời sống thiêng liêng, con người Kitô hữu cũng phải yêu để sống, và cái tình yêu đầu tiên phải phát xuất từ đâu, nếu không phải từ Mẹ Maria ?  Mỗi người mẹ đều có một quả tim  để yêu con cái. Bất cứ quả tim của một người mẹ nào cũng là cả một vực thẳm lòng tốt nhân từ. Còn về quả tim của Mẹ Maria thì phải nói sao đây ? Cha thánh Gioan Vianney nói :”Tâm can Mẹ Maria rất dịu dàng, âu yếm chúng ta đến nỗi tất cả các quả tim các bà mẹ hợp lại cũng ví thể như một mảnh gương đặt cạnh trái tim Người”.

 

        Đứng trước tình yêu tha thiết của Mẹ Maria đối với chúng ta, trước sự âu yếm săn sóc của Người, trước quyền năng của Người nơi Thiên Chúa bầu cử cho ta, thánh Francois de Sales đã táo bạo nói :

“Mẹ ơi, Mẹ đừng nói : Mẹ không có thể vì Con yêu dấu Mẹ đã trao cho Mẹ tất cả quyền thế trên trời dưới đất. Mẹ đừng bảo rằng : không việc gì đến Mẹ vì Mẹ là Mẹ chung cả nhân loại đau thương và là Mẹ riêng con. Nếu quả thực Mẹ bất lực, con sẽ bào chữa cho Mẹ rằng :”Người thật là Mẹ tôi, Người yêu tôi như con nhưng hiêm vì Người túng, không có của có quyền. Lại giả như Mẹ không phải là Mẹ con, con chịu vậy và con sẽ nói : Người dầu có thể giúp tôi lắm, nhưng khốn nạn, vì không phải là Mẹ tôi, nên Người không yêu tôi. Nhưng đàng này, lạy Mẹ rất thánh, Mẹ vừa là Mẹ con, vừa quyền thế lắm, con sẽ bào chữa cho Mẹ thế nào, nếu Mẹ không yên ủi con, cứu vớt con, săn sóc đến con. Lạy Mẹ, Mẹ đã hiểu chưa, bắt buộc Mẹ phải cho và ưng thuận lời con cầu xin”.

                        (La Vierge Marie, op cit, tr 151)

 

        Hoàng đế Napoléon, nhà chính khách này muốn thu cả vũ trụ về uy quyền mình, nói :”Muốn thắng trận, phải có ba điều kiện : thứ nhất là phải có TIỀN, thứ hai là phải có TIỀN, và thứ ba là phải có TIỀN”.   Còn cha Raymond Kolbe, nhà đạo đức thời danh nói cao siêu hơn :”Muốn thắng ba mặt trận của tôi, phải có ba khí giới :thứ nhất là phải CẦU NGUYỆN, thứ hai là phải CẦU NGUYỆN, và thứ ba là phải CẦU NGUYỆN”.

 

        Chế biến hai câu nói trên, ta được câu thứ ba vừa ý : muốn thắng cơn oai nộ Thiên Chúa, muốn diệt tan tội ác... phải có ba điều kiện : thứ nhất là phải có ĐỨC MẸ, thứ hai là phải có ĐỨC MẸ, và thứ ba là phải có ĐỨC MẸ.

                (Trinh Cát, Tôi đọc truyện Đức Mẹ, 1957, tr 126)

       

 2. Dấu bảo đảm của phần rỗi.

 

Về phương diện thần học ta thấy về tương lai thì hỏi ta có chắc chắn sẽ được rỗi không, thì

không ai dám nói là chắc chắn, không ai biết hết, điều đó bí mật, Chúa không cho ai biết cả. Nhưng Chúa có hé mở một cách gián tiếp nghĩa là hễ có những dấu này thì chúng ta được yên lòng mà tin rằng mình vào số những người được cứu rỗi :

-       Sùng mộ phép Thánh Thể,

-       Yêu mến Mẹ Maria.

 

Thánh Anphongsô đã nói :”Không thể nào một đầy tớ của Mẹ Maria lại bị luận phạt, miễn

là nó trung thành phụng sự và phó thác vào Người”.  Học thuyết này, thánh nhân đã dựa theo thẩm quyền của Giáo hội, của các thánh giáo phụ cũng như các thánh. Thánh Anphongsô nghĩ rằng : phần rỗi họ, xét theo luân lý có phần chắc chắn.

 

        Ý kiến này hình như được xác nhận qua một giai thoại thú vị được kể lại trong tiểu sử của cha thánh Gioan Vianney. Thánh nhân được Chúa cho xem thấy tấm lòng nhiều người đến xưng tội cùng ngài,  cùng với những ưu tư sầu khổ của họ.

       

                        Truyện : ông nhà đã được cứu rỗi.

        Một hôm trong đám người hành hương, có một bà mặc đại tang, đứng trong nhà thờ. Bà rất đỗi buồn khổ. Chồng bà, một người bỏ đạo, đã nhảy xuống sông tự tử và đã chết không được ăn mày các phép. Cha thánh đi qua. Trước khi bà có thể thưa chuyện, Ngài ghé vào tai bảo bà :

- Ông nhà được cứu rỗi.

        Người đàn bà bàng hoàng bối rối. Ngài nói tiếp với bà:

- Tôi đã bảo : ông nhà được cứu rỗi rồi mà.

        Bà trả lời bằng dáng điệu hồ nghi. Bấy giờ Ngài dấn mạnh từng tiếng :

-Tôi bảo bà là ông ta được cứu rỗi, ông ta hiện ở luyện tội, và phải cầu nguyện cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước, ông đã có thời giờ ăn năn thống hối. Bà còn nhớ trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho dựng chiếc bàn thờ trong phòng bà không ? Thỉnh thoảng chồng bà, mặc dầu bỏ đạo, cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độä đã đem lại cho ông ta được hưởng ơn thống hối và sự tha tội vào phút cuối đời.

                (MM. Arami – Hương quê, Sống, 1970, tr 121-122)

 

3. Lý do bảo đảm cho phần rỗi.

 

        Trong Thánh kinh ta không thấy chỗ nào Chúa đã nói rõ ràng là yêu mến Mẹ Maria là một đảm bảo cho phần rỗi. Nhưng bằng cách này cách nọ Chúa đã gián tiếp cho ta biết yêu mến Mẹ Maria là bảo đảm cho phần rỗi.

 

                        Truyện : chiêm bao của thánh Phanxicô 

        Lần kia, Chúa cho thánh Phanxicô khó khăn trong một giấc chiêm bao xem thấy hai chiếc thang  bắc từ đất lên trời : một chiếc thang đỏ và một chiếc thang trắng. Trên đầu thang đỏ thì có Chúa Giêsu ngự, trên đầu thang trắng thì có Đức Mẹ. Rồi Ngài thấy các thầy dòng của Ngài leo chiếc thang đỏ, leo lên trời. Thế thì ông leo lên được 2, 3 bậc lại trụt xuống, ông lên được đến giữa, có ông leo lên đến gần đầu thang lại trụt xuống.  Ngài lo lắng quá, tự hỏi : có thể các thầy dòng của ngài mất linh hồn hết cả sao ?  Ngài lo sợ, cầu xin với Chúa :”Lạy Chúa, con sợ quá,  sao các con cái của con không ai được lên thiên đàng” ? Chúa ở trên đầu thang đỏ chỉ sang cái thang trắng nói rằng :”Con hãy bảo các thầy sang cái thang trắng kia mà trèo”.. Các thầy trèo thang trắng thì thấy ai cũng trèo lên được hết, dễ dàng.

 

        Như vậy không phải là Chúa kém quyền phép hơn Đức Mẹ đâu vì Chúa quyền phép vô cùng. Đức Mẹ có quyền thế như vậy không phải do mình nhưng do Thiên Chúa ban cho. Chúa ban như vậy để chứng tỏ cho con cái loài người biết rằng Chúa muốn cho người ta yêu mến Đức Mẹ, phải qua Mẹ để đến với Chúa và yêu mến Mẹ là một dấu bảo đảm cho phần rỗi.

 

        Chúa muốn thi hành cái quyền công bình và lòng thương xót, Chúa thứ tha theo lòng thương xót, nhưng cũng đoán phạt theo đức công bình.  Còn Chúa trao cho Đức Mẹ thi hành lòng thương xót, nơi Mẹ ta chỉ có thấy sự âu yếm tha thứ và nâng đỡ.  Vậy nếu chúng ta nhờ Mẹ Maria mà đến cùng Chúa thì con đường ta đi sẽ dễ dàng và chắc chắn hơn, vì Chúa muốn như vậy.  Chúa muốn đề cao vai trò của Mẹ Maria nơi con cái loài người.

 

        Khi đọc kinh Lạy Cha thì ta vừa được an ủi vừa lo sợ nhưng khi đọc kinh Kính Mừng thì ta chỉ thấy cậy trông vui sướng.

 

                        Truyện : Kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng.

        Một ngày kia, có một Linh mục gặp một đứa chăn cừu ở ngoài đồng. Ngài hỏi :

- Sáng tối con có đọc kinh gì không ?

- Thưa cha, có.

- Con đọc kinh gì ?

- Con đọc kinh Lạy Cha.

- Con đọc kinh ấy xem.

Thằng nhỏ đọc : Lạy Cha chúng con ở trên trời. Ngài đợi xem thằng nhỏ có thuộc kinh ấy

không, nhưng nó cứ đọc đi đọc lại được có vậy thôi. Ngài mới hỏi :

- Con không thuộc kinh Lạy Cha sao ?

- Thưa cha, thuộc.

- Sao không đọc hết đi ?

-Thưa cha, con không thể đọc hết được, con chỉ đọc “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.

- Tại sao không đọc hết ?

- Con không học hết được vì khi con đọc : Lạy Cha chúng con ở trên trời, con cảm động quá vì con chỉ là một đứa nghèo nàn, chỉ đi chăn cừu cho người ta mà con được gọi Chúa trên trời là Cha của con, con là con Đức Chúa Trời, con được hạnh phúc quá, con trở nên cao trọng quá. Rồi khi con đọc chữ “chúng con” thì con cũng cảm động vì con thấy mình được ở trong đại gia đình mà tất cả những người tin theo Chúa là anh chị em của con, con không còn thấy cô độc. Con sung sướng quá, vì sung sướng như vậy nên con không thể đọc được hết kinh Lạy Cha.

 

        Ngoài ra, ta cũng còn sợ hãi khi đọc “nguyện danh Cha cả sáng” hay chữ “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, vì nhiều khi chúng ta không làm sáng danh Chúa mà còn làm ô danh Chúa, không biết nêu gương sáng cho những người chung quanh, cũng như chúng ta chưa tha thứ cho những người anh chị em chúng ta.

 

        Trái lại, khi đọc kinh Kính Mừng, ta không thấy gì là sợ sệt mà chỉ thấy yên ủi cậy trông. Ta được yên ủi vì mặc dầu ta tội lỗi nhưng vẫn được Đức Mẹ che chở, bầu cử cho trước mặt Chúa. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” : đọc đến đây chắc Đức Mẹ thích lắm vì tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu cao qúi nhất Chúa ban cho Đức Mẹ và có lẽ Mẹ Maria cũng biết ơn chúng  vì tội lỗi ta mà Ngài được làm Mẹ Thiên Chúa. Như thế ta còn sợ gì nữa.

 

Coi như nước Thiên Chúa được chia làm hai : nước công bình và nước thương xót. Chúa cai trị nước công bình, còn nước thương xót thì trao cho Đức Mẹ để mặc Ngài xử dụng. Mà nếu Mẹ Maria chỉ thi hành lòng thương xót thì chắc chắn có lợi cho ta vì Ngài luôn bầu cử cho ta trước mặt Chúa. Hầu như các thánh đều đồng ý nói rằng : Chúa không thể từ chối Mẹ Maria điều gì vì Chúa muốn nâng cao vai trò trung gian của Mẹ lên, cũng như suốt đời Mẹ đã hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa nên Chúa thưởng công cho Mẹ.

 

        Ta hãy la to lên lời đáng kính của thánh Gioan Damaceno rằng :”Một hạnh phúc thứ chín có thể thêm vào tám mối phúc thật Chúa Cứu thế truyền dạy là : Phúc cho những linh hồn đã phó dâng cho Đức Mẹ, tên họ sẽ được ghi vào sách  hằng sống”.

 

II. YÊU MẾN MẸ MRIA NHƯ THẾ NÀO ?

 

1. Tận hiến cho Mẹ Maria

 

Theo huấn dụ Fatima, sự dâng mình cho Đức Mẹ là một điều kiện hòa bình, bảo đảm phúc trường sinh và biến toàn thân kẻ dâng thành đóa hoa thơm trước ngai Thiên Chúa. Trong các phương pháp dạy về vấn đề dâng mình chỉ có phương pháp của thánh Grignon de Montfort là hoàn hảo hơn cả. Nhất là từ sau ngày 28.4.1947 thánh Monfort được phong lên bậc hiển thánh, thuyết tốt đẹp ấy càng được đem ra khảo cứu thực hành say mê khắp nơi.

 

             . Tận hiến là gì ?

                Tận hiến là cho hết mọi sự. Cho hay dâng là một tác động của ý chí, có thể làm trong giây lát là xong. Đó là một việc làm, thánh Monfort gọi là việc làm bề ngoài, là khởi điểm, là hình thức. Cho rồi đừng lấy lại, nhưng để Chúa xử dụng. Đó là việc kéo dài cả đời sống, thánh Monfort gọi là thực tập bên trong, là đời sống, là tinh thần.

 

             . Tận hiến là cho hết, nhưng cho những gì ?

                Của dâng chia làm hai thứ :

a).  Của tự nhiên gồm có :

- Xác với mọi chi thể.

- Hồn với tài năng và sản phẩm của nó.

- Của cải vật chất.

 

b). Của siêu nhiên gồm :

-Thánh sủng với nhân đức và ơn Chúa Thánh Thần.

- Các ân xá.

-Việc làm siêu nhiên với các công hiệu của nó.

 

             . Tận hiến để làm gì ?

        Tận hiến làm nô lệ Đức Mẹ. Để diễn đạt sự triệt để tùy thuộc Đức Mẹ cho đến nhượng hết mọi sự, cả quyền xử dụng công hiệu các việc lành, thánh Monfort còn gọi người tận hiến là Nô lệ Đức Mẹ. Vậy là thứ nô lệ nào ?

        Có ba thứ nô lệ :

a)     Nô lệ là bẩm tính, mọi người lành dữ đều là nô lệ Chúa cách này vì là thụ tạo.

b)     Nô lệ cưỡng bách : ma qủi, tội nhân cũng là nô lệ theo nghĩa này.

c)      Nô lệ tình nguyện, bởi mến phục mà tự nguyện hiến thân.

 

Nô lệ Đức Mẹ nói đây là nô lệ tình nguyện. Với nghĩa này thánh Monfort hiên ngang xưng mình là nô lệ Chúa Giêsu Kitô.  Thánh Tôma tiến sĩ nói : nguyên danh từ nô lệ thì gợi lại cái tục lệ đáng ghét, nhưng đi đôi với tiếng Giêsu Kitô thì là vinh dự đáng qúi, vì Giêsu là vị Cứu thế, ai làm nô lệ Ngài, Ngài sẽ giải thoát khỏi xiềng xích ma qủi và tội lỗi. Kitô là chịu xức dầu thụ phong đế vương và tư tế, làm nô lệ Ngài sẽ được thông công hai chức ấy.

 

        Nô lệ quảng đại với chủ hơn đầy tớ, vì đầy tớ làm việc lấy công, nô lệ làm việc không công. Đầy tớ không mất quyền sống, nô lệ giao cả quyền đó cho chủ.

 

        Tận hiến như thế cốt ý để sống triệt để kết hợp và tùy thuộc Đức Mẹ, Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần, mà yêu mến Chúa và thương yêu người ta. Đời sống như thế sẽ được ba Đấng dùng để diễn lại đời sống dương thế của Chúa Giêsu trong việc mến Chúa (cũng thánh hóa bản thân) và yêu người, nhất là phần hồn (cũng là làm tông đồ). Đó là đời sống tận hiến trong tinh thần.

                (Lm Phạm hảo Kỳ, Học tập sống đạo, 1965, tr 73,77,89)

 

2. Thực hành ba mệnh lệnh Đức Mẹ Fatima.

 

Thế giới đã đắm chìm trong tội lỗi, tội lỗi ngày nay chồng chất lên cao như núi không kém gì thời đại hồng thủy. Người ta đang trêu cơn giận của Thiên Chúa và cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hòng đổ xuống trên nhân loại. Ngày xưa, Chúa đã cho lửa xuống đốt thành phố Sodoma chỉ trừ gia đình ông Lót. Nhưng Chúa đã cho tiên tri Giona đến giảng sám hối cho dân thành Ninivê để cả vua lẫn dân đều ăn năn sán hối, và Chúa đã nguôi cơn giận, không thiêu hủy thành ấy nữa.

 

        Ngày nay, Chúa không sai tiên tri nào đến để rao giảng sự sám hối như ngày xưa nữa, mà chính Mẹ Maria đã thân hiện ra nhắn nhủ loài người. Mẹ Maria không dùng đao to búa lớn mà đe loi nhân loại, nhưng Mẹ lấy lời dịu ngọt nhắn nhủ con cái loài người hãy trở về với Thiên Chúa để làm nguôi cơn giận Chúa đang hòng đổ xuống trên nhân loại.

 

        Thì đây, ngày 13.10.1917, Mẹ Maria đã chính thức hiện ra tại Fatima để trao cho con cái loài người ba mệnh lện tối hậu, được coi như những phương thế tối hảo để cứu vãn hòa bình thế giới. Ba mệnh lệnh ấy ngày nay còn được nhắc nhở tới, đo là :

a)     Hãy cải thiện đời sống.

b)     Hãy lần hạt Mân Côi.

c)      Hãy tôn sùng Trái tim Mẹ.

 

Hãy cải thiện đời sống. Hãy hãm mình đền tội để xin Chúa thứ tha những tội đã phạm đến Chúa, Người sẽ ban ơn tha thứ cho những kẻ thực tình thống hối trở về : gương của Davít, Phêrô, Madalena, Augustinô, người con phung phá trong Phúc âm không đủ nói lên chân lý đó sao ? Ai còn hồ nghi về lòng từ bi, thương xót và tha thứ của Thiên Chúa thì làm nhục cho Ngài ! Không lẽ Thiên Chúa lại thua lòng từ bi quảng đại đối với loài người sao, trong khi loài người còn biết tha thứ cho nhau.

 

        Vai trò của Mẹ Maria lúc này cần phải được đề cao. Mẹ là Đấng trung gian các ơn của Thiên Chúa, Ngài là máng chuyển ơn, tất cả mọi ơn của Chúa xuống cho ta đều phải qua Ngài. Đặc biệt những năm gần đây, mẹ Maria đã bao lần hiện ra cách chung và cách riêng, nhất là tại Fatima, Ngài đã khuyên nhủ mọi người hãy tôn sùng trái tim Ngài, trái tim đã bị đâm thâu vì tội lỗi của mọi người.  Ngài khuyên nhủ chúng ta  hãy yên ủi trái tim Ngài, hãy ẩn mình trong trái tim ấy để chúng ta làm mọi việc với Mẹ, trong Mẹ, vì Mẹ và cho Mẹ. Xin trái tim Ngài ấp ủ chúng ta trong tình thương bao la của Ngài.

 

        Khi hiện ra tại Fatima, Mẹ Maria cũng xưng mình là Nữ Vương Rất thánh Mân côi. Ngài muốn chúng ta tỏ lòng tôn sùng Ngài trong phép lần hạt Mân côi.. Chính Đức Mẹ đã thân hành hiện xuống dạy thánh Đa minh truyền bá việc lần hạt Mân côi. Trong khi hiện xuống Lộ đức, Đức Mẹ cũng mang tràng hạt theo và cùng lần hạt với Bernadette. Nhất là khi hiện xuống Fatima, Đức Mẹ khẩn khoản xin các em lần hạt, và cổ động cho người ta lần hạt, và đó cũng là một trong ba điều kiện hòa bình. Nhiều người xin các em ơn nọ ơn kia, Đức Mẹ thường trả lời : Hãy bảo người ta lần hạt Mân côi. Chính Phanxicô lúc đầu không được trông thấy Đức Mẹ, Đức Mẹ dạy : nó phải lần hạt Mân côi, thì mới được thấy. Phanxicô đã vâng lời, và sau cũng được thấy Đức Mẹ.

 

        KẾT  LUẬN

 

        Maria, Mẹ tôi. Đây là một chân lý, một vinh dự của tôi. Tôi có Mẹ, tôi không bao giờ phải mồ côi. Mẹ tôi lại là một người đàn bà tuyệt vời được Kinh thánh mô tả là người “được chúc phúc hơn mọi người nữ khác” . Tôi vui sướng vì có Mẹ. Tôi sẽ mãi mãi quanh quẩn bên Mẹ tôi. Tôi sẽ nói cho Mẹ tôi biết tất cả mọi chi tiết trong đời sống tôi để Mẹ tôi khen thưởng, vỗ về, âu yếm và khuyến khích mỗi khi tôi thất bại hay buồn chán.

 

        Nếu Napoléon đã nói :”Tương lai của mọi dân tộc là tùy thuộc ở mỗi người mẹ”, thì tôi cũng có thể nói được : tương lai của thế giới này tùy thuộc vào Mẹ Maria. Mẹ tôi sẽ huấn luyện, bảo ban tôi trong đời sống hằng ngày, nhất định tôi sẽ trở nên giống Mẹ tôi như đúc, vì :

                       

                        Cây xanh thì lá cũng xanh,

                        Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

                        Mừng cây rồi lại mừng cành,

                        Cây đức lắm chồi, người đức lắm công.

 

        Nói đến đức thì còn ai nhiều bằng Mẹ tôi ?  Mẹ tôi có đủ mọi nhân đức thẳm sâu mà Giáo hội thường tặng cho người mười hai nhân đức được tượng trưng bằng mười hai ngôi sao sáng. Mẹ tôi đã được Thánh Kinh mô tả là :”Một điềm lạ xuất hiện trên không trung :  một người nữ mình vz65n áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Hoặc trong sách Diễm tình ca Mẹ tôi cũng được ví như”Thiếu nữ hiện lên như Bình minh, dáng yêu kiều của vầng trăng, chói lọi hơn ánh quang và hùng dũng như đạo binh vào trận” (Dtc 6,9).

 

        Thi sĩ Lamrtine nói :”Phúc cho ai được Chúa ban cho một người mẹ thánh thiện”. Phải, tôi đã có một người mẹ thánh thiện trên hết mọi bậc thần thánh, tôi có phúc quá ! Phúc đức tại mẫu ; Mẹ tôi phúc đức đầy tràn, tôi sẽ được Mẹ tôi thông ban cho những phúc đức ấy, tôi sẽ nên thánh thiện theo gương Mẹ tôi. Tôi yêu Mẹ tôi nhiều, do đó, tôi tin chắc rằng phần rỗi của tôi được bảo đảm. Tôi sẽ cương quyết lặp lại lời thánh Bonaventura :”Nếu Chúa ra lý đoán phạt tôi... Nếu Người phạt tôi, đuổi tôi xéo khỏi bệ chân thánh Người, tôi sẽ đến sấp mình dưới chân Maria Mẹ Người, cứ nằm lỳ ở đó cho đến khi được tha thứ. Vì người Mẹ lân tuất này không thể và không chối những kẻ khốn nạn đến xin Mẹ cứu giúp”.

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim Phát

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 2004


Mục Lục
Trở Về Trang Nhà