CUỘC

HÀNH-TRÌNH

2000  NĂM

 

 

 

Hai ngàn năm về những cố-gắng của đòan người theo Chúa, mong thực sự học cho thật sát tinh-thần của chính vị Tôn-sư tối cao, rồi ngày đêm kết-hợp chặt-chẽ với Ngài .

 

Thánh Phao-lô đã tiên-phong mời gọi các Ky-tô hữu cùng  lắng tâm  học-hỏi cho thật  sâu-xa  cái tinh-thần cao-cả khôn-ví của Thày Chí-thánh Giê-su, để dứt-khóat đổi thay tòan-diện con người và lối sống của mình, và rồi xem mọi sự khác trên đời chỉ như cát bụi rơm rác.

 

Phao-lô đã thực sự vẽ lên một bức tranh hùng-vĩ hướng-dẫn hậu-thế tìm ra hướng-đi gặp Chúa, nên giống Chúa, và nên một với Ngài.

 

Bước theo chân vị Tông-đồ siêu-việt này, hàng hàng lớp lớp những tâm-hồn quảng-đại đầy nhiệt-huyết miệt-mài dấn-thân vào con đường tu-đức dầy thách-đố chông-gai. Mỗi người một vẻ một cách, nhưng ai nấy đều đi theo một mẫu số chung là cố-gắng kỷ-luật thân-xác mình, làm chủ những dục-vọng và thường-xuyên nâng cao tâm-trí lên kết hợp với Thiên-Chúa.

 

Điều khác-biệt lớn nhất so với giáo-thuyết nhà Phật là ở đây các nhà tu-đức Ky-tô giáo dựa càng nhiều càng tốt vào ân-sủng từ trên cao, để tiến-hành việc tu-thân-tích-đức.

 

Trong tập sách ‘Ai lên núi Chúa’ trước đây, chúng ta đã có dịp nói tới ‘xưa nay bao đấng anh-hùng’ hăm-hở  nghe lời Chúa gọi để lên núi thánh, đón-nhận và đem về thi-hành Tám-mối- phúc-thật như những điều căn-bản nhất cho công-cuộc thánh-hóa đời mình.

 

Nhà tu-đức cổ-điển Tanquerey, trong tập sách ‘Tu-đức tổng-quát’, đã dành phần III trong nội-dung để bàn về chặng đường Kết-hợp như điểm chót của bước đường gặp Chúa và nên thánh, gồm mục nói rõ về việc  thực-hành Chiêm-Niệm ( có khi đạt tới bậc cao, đưa tới chuyện Xuất-thần ).

 

Ngài nói tới phương-pháp ru-ngủ các giác-quan, tạo khung-cảnh thinh-lặng tuyệt-đối cho lòng-trí và cách-thức cầu-nguyện hiệp-nhất tòan-vẹn với thần-linh Chúa. Nó phải đi song song với việc rũ bỏ mọi ước-mơ viển-vông, sẵn-sàng đón-nhận mọi khổ-đau, và sau cùng là tâm-trạng của một cuộc Hôn-nhân thần-thiêng siêu-việt.

 

Chính linh-mục tác-giả này đã đưa ra cái phương-thức được cụ-thể hóa từ câu truyện Phúc-âm : Phải đóng vai trò của Maria ( học nghe lời Chúa ) và làm công-việc của Martha ( lo phục-vụ hết mình ) cùng một lúc, không phân-biệt, không ngắt quãng.

 

May mắn cho  chúng ta hơn ở chỗ là,  trong khi bên nhà Phật đòi ta, khi tham thiền, phải lọai bỏ ngay cả cái mong-ước được giải-thóat ( dù trước đó mình luôn mơ về chuyện này ), người Định- an ( mượn chữ của cha Hòang-sỹ-Qúy ) bên Ky-tô giáo được khuyến-khích thường-xuyên ôm-ấp cái nước-mơ được ơn cứu-rỗi vĩnh-cửu.

 

Khi thực-hành, kẻ ‘Ngộ’ bên đạo Chúa phải lấy việc yêu-mến và kết-hợp với Chúa là chính hạnh-phúc đời mình. Việc này trong cùng một lúc sẽ làm sáng danh Ngài cũng như làm Ngài hài lòng về ta.

 

Khi lên tới bậc kết hợp tuyệt-đỉnh, các linh-hồn thánh-thiện nhiều khi nhận-được những điều ‘mặc-khải’ nhiệm-mầu, đi theo sau những lần ‘xuất-thần’ và ‘thị-kiến’ siêu-nhiên.

 

Nhiều thánh-nhân từng nhận các ơn ‘đặc-sủng’ lạ-lùng, tỉ như ơn nói tiên-tri, ơn chữa lành, ơn nói tiếng lạ v.v….Rồi cũng có những vị thánh bỗng thấy thân xác mình bay bổng lên cao. Có vị xuất-hiện tại hai ba địa-điểm cùng một lúc. Có đấng có ánh sáng toả ra quanh đầu hay cả thân mình. Có vị xông mùi thơm ngào-ngạt. Có vị không cần ăn-uống lâu ngày mà vẫn khỏe-mạnh. Đặc biệt là có một số được ơn ghi dấu thánh của Chúa Giê-su nơi chân tay. Trong cái tiến-trình Thiền Ky-tô giáo, thường thường ta thấy bắt đầu bằng việc tập-trung ý-nghĩ, suy-tưởng về ta đang sống trong dung-nhan Chúa, Chúa là tất cả mà ta là hư không. Đầu óc ta, tuy-nhiên, không mãi chỉ trống-rỗng và tiêu-cực như khi Thiền Phật, nhưng dần dà được đổ đầy bằng tình yêu-thuơng vô bờ của Chúa.

 

Ta đón nhận tâm-trạng siêu-nhiên này trong một cái thế chênh-lệch lớn-lao : Chúa quá vĩ-đại mà tâm-tư ta quá bé-nhỏ hạn-hẹp. Thế là vừa yêu mến Ngài mà lại vừa thấy  bước vào một bóng tối dày-đặc bao trùm . Thánh Gioan-thánh giá đặt tên cho chuyện này là ‘Ngõ tối của Giác-quan’.

 

Chính sự chênh-lệch này đòi ta có thái-độ hoàn-tòan cởi-mở, buông-lỏng và mang tính-cách thụ-động gần như bên nhà Thiền : Tại sao vậy ? Bởi vì ta như thấy mình chết lặng trước nét cao-cả của Thần-linh Chúa : thôi đành nép mình lại để mặc cho Ngài lay-động , kéo-lôi, hướng-dẫn và dạy-bảo. Dĩ nhiên khi tâm-tư ta càng ít bị ràng-buộc, đóng khung, ta càng dễ được Thần-linh này đưa tới chỗ cận-kề cái đỉnh cao-chót của ngọn núi thánh.

 

Giống như cái yếu-tố Tỉnh-thức bên Thiền, chiêm-niệm Ky-tô giáo đòi ta Ý-thức một cách sống-động về sự hiện-diện đầy yêu-thuơng của Chúa lúc này, ngay bên cạnh và trước mặt ta.

 

Việc này tạo nên cảm-giác đầy ánh-sáng, đầy tình-thương, đầy tâm-tình   kết-hợp mật-thiết, để rồi ta thấy tiến thẳng trên đường lãnh-nhận các nhân-đức cần-thiết. Một số thánh nhân, như Tê-rê-xa Hài-đồng, hoặc Ro-sa thành Li-ma, đạt tới mức độ cao-vời này từ thuở còn thơ-ấu, vì các ngài sớm biết tin-cậy toàn vẹn nơi tình-yêu và quan-phòng của Chúa.

 

Quay trở lại với lịch-sử sơ-khai Ky-tô giáo, thánh Phao-lô có lẽ là nhân-vật thực-hành tuyệt-hào lối sống chiêm-niệm kiểu ‘Thiền trong đạo Chúa’ đầu tiên, trong thời-gian ngài vào sa-mạc để ‘tĩnh-tâm’ 3 năm liền. Có thể nối gót ngài có nhiều thánh-nhân cũng đã đi vào con đường đó, nhưng lịch-sử không hề ghi lại dấu-vết hoặc văn-bản nào, cho đến ngày thánh An-tôn tu-rừng xứ Ai-cập, vào đầu thế-kỷ thứ 3, khai-trương phong-trào ‘tìm Chúa trong hoang-địa’, kèm theo sự suy-niệm trong hoang-vắng triền-miên của cõi lòng.

 

An-tôn đã khởi-sự bằng buổi nghe thuyết-giảng về đoạn Phúc-âm của Mat-thêu viết : Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về nhà bán hết gia-tài rồi phân-phát cho kẻ nghèo-khó, sau đó đến theo Ta.

 

Một nhà tu-đức khôn-ngoan đã được ngài chọn làm linh-hướng, để rồi lúc tuổi mới trên 30, An-tôn đã dứt-khoát vào hoang-địa gặp Chúa. Ngài suy-niệm hết giờ này qua giờ khác, đêm cũng như ngày, đặc-biệt về lòng Chúa thương-yêu. Kèm theo là một lối sống khổ-hạnh cao-độ, cùng với cố-gắng học-tập mọi nhân-đức, đặc biệt đức khiêm-nhường sâu-thẳm.

 

Về sau ngài thành-lập một số tu-viện để hướng-dẫn các môn-đệ học cách nên-thánh bằng lối sống ngài đã thực-hành nhiều năm. Cuối đời của ngài cũng là những  ngày tháng rao-giảng việc nên thánh cho các tín-hữu từ muôn phương tìm về : Ai cũng muốn tìm ra một bí-quyết gặp Chúa trong thẳm sâu lòng mình, vượt qua những trở-ngại của cuộc sống bận-bịu ồn-ào hàng ngày.

 

Nhưng rồi phải đợi tới cuối thế-kỷ thứ 5 ta mới được chứng-kiến một nhân-vật tìm cách hệ-thống-hoá đường tu chiêm niệm Ky-tô giáo, làm nền tảng và hướng-đi cho các tu-viện sau này trong giáo-hội phương Tây. Đó là sự xuất-hiện của thánh Biển-đức ( Benedictô ). Dĩ nhiên ngài cũng bắt đầu bằng những năm tháng ẩn-tu nơi hoang-địa để tìm rõ thánh-ý Chúa dành cho cuộc đời mình. Và cũng như nhiều thánh-nhân khác, ngài đã suy-niệm triền-miên về lời sách Giảng-viên nơi thánh-kinh Cựu-ước : Phù-vân nối tiếp phù-vân, và tất cả của đời chỉ là phù-vân….

 

Điểm nổi bật nhất trong lối sống chiêm-niệm của các tu sĩ Biển-Đức là chuyện ý-thức sâu-xa về sự hiện-diện của Chúa trong hồn mình, kèm theo điều ý-thức kính sợ Thiên-Chúa, theo tinh-thần của Thánh-Kinh Cựu-Ước : khởi đầu của khôn-ngoan là sự kính-sợ Chúa (Initium sapientiae timor Domini). Bên Thiền cũng thấy Phật-tính tràn ngập lòng mình, và thân ta tan-biến vì chỉ là con số không. Bên Chúa thì mong được hòa-mình với Chúa tòan-vẹn.

 

Được lồng trong nền tảng khiêm-nhường thẳm-sâu, các tu-sĩ Biển-Đức tập thích-nghi với việc thần-phục và ‘đầu-hàng’ 100 % trước vẻ oai-phong cao-cả của thánh-nhan Chúa. Tuy nhiên lòng trí mọi người phải tràn-ngập niềm vui, thay vì u-sầu buồn-bã.Vui vì lúc nào cũng thấy khuôn mặt Chúa hiện-diện (thành ra ca hát 7 lần mỗi ngày để ca-tụng Chúa, cũng như để xua đi mọi u tối buồn thảm). Chàng trai Biển-Đức lần đầu đã cảm-nghiệm điều này khi leo lên đỉnh ngọn núi Subiaco, để rồi không lâu sau đó, chàng quy-tụ được một số bạn cùng chí-hướng quyết chí thành-lập tu-viện tiên-khởi tại Monte Cassino ( Ý ).

 

Qua việc lao-động chân tay và cầu-nguyện chiêm-niệm thường-xuyên, Biển-Đức đã đưa dắt các tu-sĩ ý-thức sự bé nhỏ của mình và sự cao-cả của Chúa. Giản-dị thôi : cứ ráp cái nhỏ bé ấy vào cái cao vời kia. Tất cả sẽ là tuyệt hảo ! Rồi qua chuyện từ bỏ ý riêng nhờ Đức Vâng lời, nhờ hoà mình vào lối sống tập-đoàn, ai nấy sẽ thực sự hiểu được thế nào là Tự-Do đích-thực; nhất là qua việc chế-ngự các ham muốn thuộc giác-quan, họ có khả năng nâng cao tâm-hồn lên mà gặp thấy Thần-linh Chúa.

 

Cái hướng đi Tỉnh-thức và Giác-ngộ Ky-tô giáo này lại được canh-cải cho thêm phần chặt-chẽ hơn khi, vào đầu thế kỷ 11, phong-trào ‘Xi-tô’ được khởi-xướng. Tuy cũng đi theo ‘giòng nước’ của tổ Biển-Đức, nhưng đào sâu thêm ý-thức phải trở nên nghèo ‘như Đức Ky-tô nghèo’.

 

Và cái nghèo này xâm-nhập vào y-phục, thức ăn, công việc cũng như lối sống, nhằm giúp tu-sĩ thực-sự được lột xác, ra hẳn khỏi cái Tôi của mình. [Cha Thomas Merton đã vào tu dòng này]

 

Một trong những nhân-vật danh-tiếng của gia-đình Xi-tô (Sistercian) là thánh Bê-na-đô ở Clairvaux. Vừa có tài giảng-thuyết, vừa viết được nhiều sách giá-trị, ngài lại nêu gương trong cuộc sống nhiệm-nhặt và hy-sinh cao độ. Cách riêng, ngài dựa vào sự kiện  Chúa Giê-su thăng-thiên để tin rằng chúng ta cũng có khả-năng nhờ ân-huệ Ngài ban mà hết bị trói-buộc vào thời-gian cũng như không-gian : ta sẽ triền-miên gặp Ngài đâu đó trên cao.

 

Cho tới đầu thế kỷ thứ 18, từ địa-danh La Trappe, có nhóm tu-sĩ gốc Xi-tô muốn thực-sự và tận-lực ‘cho Chúa hết’ qua việc thực-hành thinh-lặng và chiêm-niệm cách tuyệt-đối : thế là ta thấy có các dòng-tu Trappist với dáng-dấp của những nhà tu Thiền truyền-thống từ bên Đông-phương.

 

Thánh Đa-Minh, vào cuối thế-kỷ 12, vì muốn có một lực-lượng tông-đồ truyền-giáo thật hữu-hiệu, đã nghĩ tới chuyện biến các tu-sĩ thành những kẻ ‘hành-khất’ theo đúng nghĩa. Trong sự lựa-chọn cái nghèo vật-chất này, kèm theo thói quen suy-niệm và hãm mình, Ngài muốn tạo ra sức mạnh tâm-linh cho các tu-sĩ trên đường ra đi giảng-thuyết, nhất là chống lại các bè rối phá-hoại Giáo-hội. Dựa vào câu trong sách Tiên-tri Hosea “Ta sẽ đưa nó vào hoang-địa và nói trong tâm-hồn nó”, Đa-Minh đòi các tu-sĩ phải làm quen với việc cầu-nguyện và chiêm-niệm cá-nhân.

 

Nền tu-đức Đa-Minh nhấn mạnh vào chỗ là càng làm con người ta ra nhẹ, thì càng dễ gặp tinh-thần Chúa. Cơ-nguyên là vì ta bởi Chúa mà hiện-hữu. Thành ra về sau, thánh Tho-ma tiến-sĩ (cũng thuộc dòng này) khai-thác rất nhiều ý-tưởng ‘con người được dựng nên giống hình-ảnh Thiên-Chúa’ trong các sách thần-học của ngài, cái ‘hình ảnh’ này lôi-kéo ta hướng-thượng và kết-hợp : Ta sẽ hết là ta. Sẽ thấy việc ‘Ngộ’ ở chính nơi đây.

 

Đồng thời và cùng chủ-trương với thánh Đa-Minh, thánh  Phan-xi-cô thành Assisi bên Ý đã bước thêm một bước nữa trong việc ‘trần-trụi-hoá’ con người của ta trên cuộc hành-trình tìm Chúa.  Đọc truyện về ngài,  ít ai  quên  được  cái buổi ngài cởi y-phục trả lại cho người cha để dứt-khoát lên đường theo Chúa.

 

Phan-xi-cô đã đẩy mạnh thêm mức-độ hy-sinh hãm mình để được nên giống như Thày Chí Thánh. Chính bản thân ngài cũng đã được in năm dấu thánh của Đức Ky-tô. Khi cùng thánh nữ Clara thảo-luận về chuyện mời gọi các bạn bè hăng-hái và quảng-đại hiến-thân phục-vụ cũng như tìm đường nên thánh, Phan-xi-cô đã nói rõ : Chúng ta phải tìm thấy niềm vui khi theo gót Thày mình là kẻ thật nghèo, không tài-sản, vô gia-cư, và khi chết chẳng có nơi tựa đầu.

 

Nên giống Chúa Ky-tô để được đồng-hoá với Ngài, đó là tất cả lý-tưởng và mục-tiêu. Bên nhà Phật cũng chỉ mong có thế : sống như Phật để đồng-hoá với Phật. Ở đây, cái động-cơ căn-bản lại chính là tình-yêu ngày đêm nung-nấu tâm-can. Thành ra nó trở thành tươi đẹp vô ngần. Cái tình-yêu này từ Thiên-Chúa tràn lan xuống loài người và, với Phan-xi-cô, còn xuống tới cả loài vật cũng như các thụ-tạo của Chúa nữa. Nhà Phật thấy thật gần gũi với tinh-thần Phan-xi-cô !

 

Đọc bài kinh ‘Hoà-Bình’ của thánh-nhân, ai mà không cảm-động với các tâm-tình mến-thương và từ-ái  tuyệt-vời,  đủ hết  ‘Từ Bi Hỷ Xả’ chẳng thua kém chi lời giảng của Đức Thích-Ca. Cũng trong cái khung từ-ái khác-biệt này mà Phan-xi-cô thực-hành và mời gọi mọi người luôn sống trong một niềm vui thanh-khiết và trọn-vẹn. Với ngài, trước sau cũng là câu truyện ‘từ bỏ mọi sự để rồi sẽ được lại tất cả’.

 

Giáo-hội Công-giáo còn vui-sướng khi thấy các tu-sĩ thuộc dòng Car-mê-lô ( quen gọi là dòng Kín ), khởi sự từ thế-kỷ 13, đem tới một luồng sinh-khí mới, qua những phương-thức tu-đức dựa trên việc gặp Chúa trong sự thinh-lặng của cầu-nguyện và chiêm-niệm.

 

Các tu-sĩ dòng Kín tiên-khởi muốn theo tinh-thần của vị tiên-tri Cựu-ước Êlia ( có nhiều liên-hệ tới ngọn núi Carmel tại đất thánh ) và chọn tên này cho dòng tu của mình. Theo họ, Êlia đã nêu gương tuyệt-hảo về việc cảm-nghiệm sâu-sắc đối với sự hiện-diện của thánh-nhan Chúa. Thánh-kinh diễn-tả cái cảm-nghiệm nội-tâm này bằng hình-ảnh ‘một làn gió hiu hiu, tựa như hơi thở của Chúa’. Và Tiên-tri cảm-nhận trong thinh-lặng hoàn-toàn. Sau đó, sự thinh-lặng của sa-mạc giúp ngài tìm ra hướng đi của đời mình.  Về sau, họ cũng nhận Đức Mẹ như bổn-mạng đặc-biệt    mừng   lễ ‘Mẹ  Núi Carmel’   long trọng hàng năm vào ngày 20 tháng 7 dương-lịch.

 

Do hoàn-cảnh chính-trị, dòng phải sớm di-cư qua các nước Tây-âu, nên các tu-sĩ một thời đã noi gương dòng Đa-Minh và Phan-xi-cô để sống bằng việc khất-thực. Vị thánh nổi danh vào thời này là thánh ‘Si-mon cột’  đã được  Đức-mẹ nhờ rao truyền việc đeo ‘ảnh áo Đức Bà’ như một bảo-chứng được ơn chết lành.

 

Tuy nhiên, người ta biết nhiều về dòng Kín qua tên tuổi của thánh-nữ Tê-rê-xa Cả (thành Avila) và thánh Gio-an Thánh-giá [cả hai cùng gốc xứ Tây-ban-nha], và sau này là Tê-rê-xa Hài-đồng Giê-su (thuộc thành Lisieux bên Pháp). Hai vị trước đã cộng-tác để canh-cải dòng cho hợp tinh-thần Chúa hơn : Đời sống nghiêm-nhặt hơn, suy-niệm kỹ-lưỡng hơn, sống trọn vẹn với tình-yêu nhiệm-mầu của Chúa hơn.

 

 Tới năm 1593 lại có nhóm muốn cải tổ thêm với việc ‘đôi chân không mang giày’. Riêng Gio-an Thánh-giá, qua 2 tập sách ‘Lên núi Carmel’ và ‘Đêm tối giác-quan’, đề cập tuyệt-vời tới chuyện tìm gặp Chúa qua những u-uẩn đời người, cũng như những thử-thách của các Ky-tô hữu. Tất cả đều giới-thiệu cách  gặp Chúa nhờ bầu-khí thinh-lặng linh-thiêng.

 

Một cách lạ-thường, Tê-rê-xa ‘nhỏ’ đã khéo-léo dẫn chúng ta bằng lối đi ‘đơn-sơ và bé nhỏ’ trên đường nên thánh. Tập ‘Truyện một Tâm hồn’ đã được cả thế-giới đón-nhận như những trang vàng, giúp con người thời-đại mới nên thánh nhờ những cố-gắng thánh-hoá các chuyện nhỏ bé tầm-thường nhất trong đời. Giá-trị bắt đầu bằng tâm-hồn tràn-ngập yêu thương. Nhờ yêu mà ta bắt gặp ơn-phúc Chúa mọi nơi mọi lúc.

 

Dòng Kín còn hiến cho Giáo-hội một nữ-thánh khác cũng mang tên Tê-rê-xa (Benedicta Thánh-giá), gốc gác người Do-thái di-dân qua Đức với tên gia-đình là Edith Stein, đã là nạn-nhân bị chế-độ Quốc-xã sát-hại trong trại tập-trung nổi tiếng Auschwitz vào thời đại-chiến thế-giới II. Tê-rê-xa ‘đệ tam’ này đã sống tuyệt-hảo tinh-thần thánh Gio-an Thánh-giá xưa đề ra : Dùng niềm tin mến kiên-cường để ôm chặt chân Chúa và nên một cùng Ngài.

 

Sang tới đầu thế-kỷ 16 người ta mới được chứng-kiến những sinh-hoạt và lời giảng-dạy của một ‘tổ-sư’ về khoa cầu-nguyện và chiêm-niệm Ky-tô giáo, và Giáo-hội đã không ngần-ngại tôn-phong ngài là bổn-mạng cho các cuộc tĩnh-tâm cấm-phòng. Đó là thánh I-nha-xio, vị sáng lập dòng Chúa Giê-su ( dòng Tên ).

 

Qua các chương-trình ‘Linh Thao’ nay đã nổi tiếng trên toàn thế-giới, dòng Tên liên-tục giới-thiệu cho chúng ta con đường ‘khai Ngộ’ tuyệt-vời để gặp tinh-thần Chúa. Cái khẩu-hiệu ‘Ad majorem Dei gloriam’ (mong làm sáng danh Chúa hơn) thúc-đẩy chúng ta làm mọi việc vì Chúa và cho Chúa : ý-thức mình kết-hợp  với Ngài thường-trực, không kể ngày đêm.

 

I-nha-xio mời chúng ta sống và chia-sẻ trọn vẹn tâm-tình của  Đức Ky-tô, qua việc suy-niệm về cuộc đời và sự thương-khó cũng như cái chết của chính Ngài.  Nhờ thế,  ta hiểu biết,  yêu mến Ngài hơn, để rồi sẽ quảng-đại phục-vụ, trung-thành kính-tôn và vinh-danh Thiên-Chúa ( được quan-niệm như cùng-đích thực sự của đời sống con người ).

 

Cái hay của ‘lối sống I-nha-xio’ là ta biết vận-dụng mọi cơ-năng, từ trí tượng tới ký-ức cũng như tình-cảm để tập-trung vào một thứ. Khi kết-thúc, trí khôn chúng ta phải  tổng-hợp và kiểm-soát được mọi yếu-tố trước sau : Tâm-hồn lúc đó sẽ như được biến-đổi và có khả năng lãnh-hội được sức mạnh thần-thiêng, qua việc suy-niệm các mầu-nhiệm thánh. Đặc biệt chúng ta sẽ nhờ thế mà liên-kết chặt-chẽ cùng Chúa.

                                     

Vị thánh ‘Linh Thao’ này không muốn ta dừng lại ở phần ‘vui hưởng tình-yêu siêu-nhiên’, nhưng phải đem nó vào thực-tế, phải áp-dụng tình-yêu này vào công-việc thường ngày bằng đức tin sống-động cùng với lý-trí vững-chắc. Không thể chỉ dựa vào cảm-tình nhất thời. Đây là đầu mối giúp ta khám-phá ra khuôn mặt của Chúa qua các tạo-vật và mọi biến-cố.

 

I-nha-xio dạy ta lời kinh thật cao-đẹp : “Xin Chúa nhận lại cái tự do của con, cái ý riêng của con cũng như mọi cái con đang có lúc này. Con chỉ cần tình-yêu và ân-sủng của Ngài mà thôi”. Và như thế là ta thuộc về Chúa hoàn-toàn. Đây chính là phương-thức giúp ta triền-miên Tỉnh-thức cả về Chúa lẫn về  ta : Ta sẽ nên một với Ngài.

 

Vào đầu thế-kỷ 17, khi thánh Phan-xi-cô Sa-lê-sio xuất-bản tập sách ‘Đường dẫn vào đời sống nhân-đức’, giáo-hội lại chứng-kiến một hướng đi khác, dựa vào khẩu-hiệu ‘Chúa Giê-su đang sống trong ta’. Thánh nhân được nhiều giáo-hữu ở vùng Lyon (Pháp) ca-ngợi như một mẫu gương thánh-thiện và một nhà giảng-thuyết sâu-sắc.

 

Điểm độc-đáo nơi ngài là đặt mọi nền tảng tu-đức trên chính tình-yêu diệu-vợi của Đức Ky-tô dành cho từng người chúng ta, và nó đòi ta tìm tới và học và nên giống Ngài ( đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng ).

 

Nhờ học bài học khiêm và hiền này, ta gặp thấy con người của Chúa Ky-tô thường trực, nhất là qua bóng-dáng tha-nhân. Cái tinh-thần đặc biệt này đã được thánh-nữ Jane Frances de Chantal say-mê để làm bậc-thang nên thánh, và rồi cộng-tác với Phan-xi-cô để sáng lập dòng ‘Thăm viếng’.

 

Nối tiếp con đường ‘mến thương dịu-hiền’ này là những cố-gắng của các đấng thánh-thiện khác, nổi nang nhất phải nói tới thánh Don Bosco từ bên Ý. Cha Bosco đã dùng đường tu-đức của thánh Phan-xi-cô Sa-lê-sio để giáo-dục và thánh-hoá giới trẻ một cách rất thành-công.

 

Các ngài đã ấp-ủ chung một lý-tưởng là giúp tha-nhân biết rập theo cái khuôn là chính Đức Ky-tô để sống, để trọn vui và hạnh-phúc.


Trở về trang Mục Lục