Bài thuyết trình của Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc tại
Hội thảo khoa học quốc tế "Công bằng xã hội, Trách nhiệm Xã hội và Liên Đới Xã
hội" do tổ chức Misereor của
Giáo Hội Công giáo Đức cùng với Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam (Viện Triết Học)
đồng tổ chức, diễn ra tại Hà Nội, trong hai ngày 15 và 16 tháng 10 năm
2007.
XÂY DỰNG XÃ HỘI CÔNG BẰNG
THEO HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO
DẪN
NHẬP
Sống
trong thời đại tin học và toàn cầu hoá, mỗi con người, mỗi tổ chức xã hội, mỗi
đất nước càng có nhiều cơ may để gặp gỡ nhau và càng có điều kiện để “nối vòng
tay lớn”. Những chiếc cầu nối liên hai bờ sông cả. Những con đường cao tốc nối
gần những miền đất xa xôi. Những tuyến bay dài nối những phương trời xa lạ.
Những hợp đồng kinh tế nối kết đời sống các dân tộc. Những gặp gỡ nối kết con
người. Những giao lưu văn hoá nối kết các truyền thống. Những đối thoại tôn
giáo nối kết niềm tin. Mọi cố gắng hợp tác và nối kết đều nhằm mục đích giúp
con người xích lại gần nhau và sống chung với nhau.
Chủ
đề Hội thảo khoa học quốc tế “Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết
xã hội” của chúng ta là một cố gắng gặp gỡ và nối kết những quan điểm về xây
dựng xã hội con người, từ đó mở ra cơ hội hợp tác với nhau nhằm mục đích phục
vụ con người trong xã hội một cách hữu hiệu.
Được
vinh dự góp phần trong cuộc hội thảo này, tôi xin được giới hạn nội dung bài
thuyết trình vào cụm từ thứ nhất là “công bằng xã hội”. Và xây dựng công bằng
xã hội ở đây được trình bày theo Học Thuyết Xã Hội Công Giáo. Tuy nhiên, học
thuyết này không hiểu như là một ý thức hệ, một lý thuyết xã hội, một dự án
riêng cho một hệ thống kinh tế hoặc xã hội, cũng không phải là một lý thuyết
luân lý trừu tượng cho các tập thể con người, nhưng là suy tư của Giáo hội về
các thực tại con người và xã hội trong thời đại chúng ta nhờ lý trí và các
ngành khoa học nhân văn, và dưới ánh sáng của Phúc Âm, từ đó đề nghị những
nguyên tắc chỉ dẫn đời sống thực tiễn cho xã hội. Vì thế bài thuyết trình này
được trải dài trong ba phần cụ thể như sau:
I.
Con người và xã hội
II.
Giáo Hội và Nhà Nước
III.
Các nguyên tắc lớn của Học Thuyết Xã Hội Công Giáo
I.
CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI
I.
1. Quan niệm đúng đắn về con người đưa tới quan niệm đúng đắn về xã hội
Một
quan niệm đúng đắn về con người sẽ đưa đến một quan niệm đúng đắn về xã hội.
Trái lại một quan niệm sai lạc về con người chắc chắn sẽ đưa đến một quan niệm
sai lạc về xã hội. Ví dụ có thứ triết học (Nieztsche) cho rằng điều cơ bản và
quan trọng nhất nơi con người là ý chí quyền lực, con người sẽ thành
công khi phát huy được tối đa ý chí quyền lực của mình. Một triết học như thế
sẽ dẫn tới một quan niệm về xã hội xây dựng trên ý chí quyền lực. Kẻ mạnh sẽ
thắng và người yếu sẽ phải phục tùng.
Một
quan niệm quân bằng, cởi mở về con người, biết nhận ra ý nghĩa đích thực của đời
sống con người, biết rõ con người là ai, sống ở trần gian để làm gì. Nhận ra
những giá trị cao cả nhất trong đời sống con người như là Tình yêu, là
chân lý, là cái đẹp; nhận ra con người là nguồn gốc, là nguyên lý
và là cứu cánh của xã hội, sẽ dẫn đến một quan niệm đúng đắn về xã hội. Một
quan niệm đúng đắn về xã hội, sẽ giúp rất nhiều cho việc tổ chức xã hội, vì nó
là một nền tảng lý thuyết cần thiết để người ta dựa vào mà xây dựng xã hội.
Khi
dựa trên một quan niệm đúng đắn về con người và xã hội, người ta giảm bớt được
rất nhiều trục trặc cho xã hội, và nhất là những thiệt hại cho con người, người
ta sẽ phục vụ tốt cho con người và xã hội. Một quan niệm đúng đắn về xã hội sẽ
giúp cho xã hội thực hiện được chức năng của mình cách tốt đẹp, và nhờ đó có
được trật tự xã hội, những ích lợi chung, sự phân phối hợp lý các ích lợi chung
đó, có được công bằng xã hội.
I.
2. Làm thế nào để có quan niệm đúng đắn về con người?
Làm
thế nào để có một quan niệm thật đúng đắn về con người? Chính kho tàng về sự
khôn ngoan của nhân loại giúp cho chúng ta có câu trả lời về con người. Nhân
loại cần phải học hỏi với nhau rất nhiều, trao đổi với nhau rất nhiều, mới có
thể hiểu sâu rộng về con người, giúp nhau phát huy cái phẩm chất người.
Chúng ta phải giúp nhau làm người. Trong cơ bản, sự liên đới nằm trong chính bản
chất người của chúng ta.
Thực
sự nhân loại có biết về mình không? Chúng ta là ai? Con người là ai? Chúng ta cứ phải trả lời cho câu hỏi này
mãi mãi, vì con người vừa biết về mình, vừa không biết. Con người cần phải được
soi chiếu bởi ánh sáng bên trên để có thể giác ngộ, nhận ra chân tướng của
mình. Nhưng con người không chỉ nhìn lên trên, mà còn phải nhìn ra chung quanh,
để khám phá chỗ đứng của mình.
Con người không là một hữu thể cá vị
tuyệt đối (cá nhân chủ nghĩa), có do chính mình và dựa trên chính mình,
không tuỳ thuộc vào ai khác, chỉ tuỳ thuộc vào chính mình. Con người cũng không
giống một tế bào của một cơ quan, một bộ phận, được cơ quan ấy nhìn nhận chức
năng và thực hiện chức năng ấy nội tại trong hệ thống hay guồng máy.
Những quan niệm giản lược về con người rất
nguy hiểm và có hại, vừa cho con người, vừa cho xã hội. Chúng ta hãy luôn hướng
tới chân lý toàn vẹn về con người, để khỏi làm thiệt hại cho bản thân,
cho tha nhân và cho xã hội. Hãy học hỏi nơi mọi người: những gì tốt thì giữ
lấy, những gì xấu thì tránh cho xa (1 Tx. 5, 21).
Mỗi người sinh ra ở đời đều có trách nhiệm
về chính mình và về tha nhân, có nghĩa vụ tìm cho ra lẽ sống, để sống xứng đáng
là con người, có bổn phận đi tìm chân lý tối hậu của đời người.
I. 3. Quan niệm kitô giáo về con người
Theo niềm tin kitô giáo, Chúa Giêsu xuống
thế làm người, để dạy cho loài người biết Thiên Chúa là ai, và con người là ai,
bởi đâu và đi về đâu. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, thì mọi người trong nhân
loại, sinh ra bất cứ ở đâu, bất cứ thời đại nào, không phân biệt màu da hay
tiếng nói, không phân biệt dân tộc hay văn hoá, không phân biệt giàu hay nghèo,
sang hay hèn… đều là con của một Cha trên trời. Tất cả đều là anh chị
em, tất cả đều bình đẳng với nhau. Chúa Giêsu đã dạy đừng có gọi ai dưới đất là
cha, đừng đòi hỏi ai gọi mình là thầy hay là người chỉ đạo. Tất cả mọi người
làm thành một gia đình nhân loại duy nhất có chung một người Cha là Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là con người, trong tư cách là người,
ngài là Anh Cả của chúng ta.
Không ai tự mình mà có, nhưng đều do Thiên
Chúa sáng tạo từ hư vô, vì trước đó không có, và được Thiên Chúa làm cho có. Mọi
người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, giống Thiên Chúa (St 1,
26-27). Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ. Adam và Eva là đôi nam nữ
đầu tiên, là gia đình đầu tiên, là xã hội đầu tiên theo hình ảnh của Thiên
Chúa. Vì giống Thiên Chúa, nên mỗi người đều là một ngôi vị, một ngã vị
có ý thức và tự do, trong tương quan với Thiên Chúa và những người khác. Con
người chỉ thực sự triển nở, lớn lên và được hạnh phúc trong tương quan với
Thiên Chúa và tha nhân.
Đáng lẽ ra mọi sự nơi con người đều tốt,
vì Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt lành, nhất là con người. Nhưng con người đã
phạm tội từ thuở ban đầu, vì bị thần dữ cám dỗ mà bất tuân với Thiên Chúa. Tội
lỗi ấy đã để lại hậu quả đen tối trong nhân loại, trong từng người, nên nơi mỗi
người chúng ta, đều có sự nghiêng chiều về sự dữ. Chính vì thế, muốn nên
tốt con người phải được gột rửa khỏi tội lỗi và không ngừng chiến đấu chống lại
điều ác, chống lại sự dữ nơi bản thân mình và nơi môi trường xã hội.
Điều cần nhấn mạnh là con người, dù đã sa
ngã phạm tội và không còn giống Thiên Chúa, nhưng trong cái nhìn của Thiên
Chúa, vẫn là chóp đỉnh của vũ trụ, vẫn là thụ tạo đáng yêu nhất, vẫn là hình
ảnh của Thiên Chúa, nên không bao giờ trở thành phương tiện cho bất cứ ai, bất
cứ chương trình hay kế hoạch nào, mà luôn là mục đích phải nhắm tới. Thiên Chúa
sáng tạo muôn loài vì con người và cho con người.
Con người là một nhân vị có ý thức và tự
do, được sáng tạo vì chính mình, không vì ai khác. Thiên Chúa không cần con
người để được vinh danh, mặc dù Ngài vui sướng khi làm bạn với con người. Con
người sinh ra ở đời để được hạnh phúc ngay ở trần gian này. Nhưng hạnh phúc
cuối cùng và trọn vẹn nhất của con người là được trở về Cội Nguồn, trở
về với Thiên Chúa. Vận mệnh cuối cùng của con người là được phục sinh vinh
quang cùng với Chúa Kitô trong ngày hoàn tất lịch sử.
I. 4. Con người là hữu thể tương quan
Con người là một hữu thể tương quan. Đời
sống con người dệt bằng các tương quan. Con người lớn lên nhờ các tương quan và
trong các tương quan (trong gia đình, ngoài xã hội, trên bình diện quốc gia và
quốc tế). Con người là ngã vị trong tương quan với các ngã vị khác. Cụ thể con
người là tôi, là anh, là chị, là bạn, là người yêu, là vợ, là cha, là mẹ, là
ông, là bà, là đồng nghiệp, là đồng môn. Mọi ngã vị đều là liên ngã vị.
Không ai là một hòn đảo.
Trong thần học kitô giáo, chúng tôi thường
phân biệt hai loại tương quan, và hai thứ tương quan này không loại trừ nhau,
nhưng nâng đỡ nhau và củng cố cho nhau, đó là các loại tương quan chiều đứng
(tương quan với Thiên Chúa, với thế giới vô hình), và các loại tương quan chiều
ngang (tương quan với tha nhân, với thế giới hữu hình).
Xin ra một ví dụ: yêu Chúa là tương quan
chiều đứng, yêu tha nhân là tương quan chiều ngang. Chính việc yêu Chúa làm cho
chúng tôi yêu người khác, nhất là những người hoạn nạn khổ đau, những con người
nghèo khó và bất hạnh. Vì yêu Chúa, chúng tôi muốn giống Chúa, mà bản chất của
Thiên Chúa là yêu thương. Đảo ngược lại, nhờ yêu người khác, yêu tha
nhân, mà tình yêu của chúng tôi dành cho Chúa mới là chân thật, như nhà thần
học Gioan đã viết: “Nếu ai nói; tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em
mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông
thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4, 20).
Đối với chúng tôi, tương quan chiều đứng
là tương quan tôn giáo, và tương quan chiều ngang là tương quan xã
hội. Không thể loại trừ một trong hai loại tương quan, mà phải duy trì và
phát triển cả hai.
Khoa tu đức hay linh đạo kitô giáo ngày
nay nhấn mạnh nhiều đến tương quan, thay vì quá lưu tâm đến nội tâm của cá
nhân. Bản chất của đời sống thiêng liêng hay đời sống đạo của người kitô hữu
chính là sống tốt ba thứ tương quan: tương quan siêu vị (transpersonal
relationship: với Chúa), tương quan liên vị (interpersonal relationship:
với tha nhân), tương quan bản vị (intrapersonal relationship: với chính
mình). Nên thánh là yêu Chúa và yêu người, và là yêu cho đến cùng (usque ad
finem), yêu đến mức tự hiến chính mình, hy sinh chính mình cho Đấng mình yêu,
cho những người mình yêu. Tình yêu là điều cao đẹp nhất nơi con người, lại là
một tương quan. Các hành vi nhân linh (hành vi có ý thức và tự do) của con
người đều thể hiện trong tương quan và tạo ra tương quan.
Chính các tương quan dệt nên đời sống xã
hội, đồng thời xã hội cũng tạo điều kiện cho người ta có tương quan với nhau,
xã hội là bối cảnh của các tương quan giữa cá nhân với nhau, giữa cá nhân và
tập thể, giữa tập thể với tập thể.
I. 5. Bản chất xã hội của con người
Vì con người là một hữu thể tương quan,
nên là một hữu thể xã hội. Nếu muốn dựa vào ngôn ngữ tiếng Việt để suy
tư triết học về con người, thì các chữ người đời và đời người, là
những từ ngữ rất sâu sắc giúp cho chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của con người và
xã hội, về tương quan hữu cơ giữa con ngườì và xã hội.
Không có con người nào, mà không là người
đời, dù là tu sĩ hay linh mục, giám mục. Mọi người đều sinh ra ở đời, gắn
bó với đời, hiện hữu ở đời. Đảo ngược lại để nhìn cuộc đời,
thì ta cũng nhận thấy đời đích thực phải là đời người. Đời phải có bộ
mặt người, xã hội phải có bộ mặt người. Nếu xã hội không có bộ mặt người
đúng nghĩa thì xã hội không còn là xã hội con người mà là địa ngục trần gian.
Theo giáo lý công giáo, thì con người tự
bản chất là một hữu thể xã hội, vì được Thiên Chúa sáng tạo theo hình ảnh của
Người. Mà Thiên Chúa, tuy là Thiên Chúa Duy nhất, không là một vị Thiên Chúa cô
đơn, lẻ loi một mình, nhưng là Thiên Chúa Tam vị; Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần. Từ muôn thuở đã có Tình Yêu giữa các ngôi vị Thiên Chúa (In
the beginning is communion). Từ muôn thuở đã có yêu thương nhau, gắn bó với
nhau, kết hợp với nhau, và nên một với nhau. Tình yêu đó là nguồn gốc của mọi
loài thụ tạo.
Nhưng
chỉ có con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa, chỉ con người mới có tình yêu
như Thiên Chúa. Chính vì thế Tình Yêu là điều đẹp nhất, cao cả nhất nơi con
người. Có một sự tương đồng nào đó giữa sự Duy nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và
tình huynh đệ mà loài người phải kiến tạo cho nhau trong tình yêu và chân lý
(x. GLHTCG, số 1878).
Từ
khởi thuỷ loài người đã sống thành tập thể, hoặc là tập thể nhỏ như gia
đình huyết tộc, hay là tập thể lớn hơn như làng xóm, tập thể lớn hơn nữa như
quê hương đất nước. Con người không những sống chung với nhau thành tập
thể, mà còn chung sống trong gia đình, ngoài xã hội, trong cùng một quốc
gia. Chung sống là cùng nhau chia sẻ của cải vật chất, chia sẻ những giá trị
tinh thần, những tình tự quê hương, cùng nhau xây dựng đời sống chung. Và đó là
đời sống xã hội.
Con
người cần đến đời sống xã hội. Đời sống này không phải là một cái gì thêm vào
nhưng là một đòi hỏi của bản tính con người. Nhờ trao đổi với người khác, nhờ
phục vụ lẫn nhau và nhờ đối thoại với anh em, con người phát triển các tiềm
năng; nhờ đó họ đáp trả lại ơn gọi làm người (x.GLHTCG số 1879).
Xã
hội là một cộng đồng vừa hữu hình, vừa thiêng liêng, tồn tại trong thời gian;
tiếp nhận quá khứ và chuẩn bị tương lai. Mỗi người đều là thừa tự, nhưng
phải đóng góp cho cộng đồng mà mình là thành viên, và phải tôn trọng các người
cầm quyền có trách nhiệm mưu cầu công ích (x. GLHTCG, số 1880).
Mỗi
cộng đồng được định nghĩa bởi mục đích của nó; do đó phải tuân theo những quy
luật đặc thù, nhưng nhân vị chính là và phải là nguyên lý, là chủ thể và
là cứu cánh của mọi tổ chức xã hội (x. GLHTCG, số 1881).
Có
những thực thể xã hội, như gia đình và đất nước, phù hợp tức thời
với bản tính của con người. Những thực thể ấy cần thiết cho con người. Những tổ
chức xã hội khác có thể rất hữu ích cho con người, để giúp con người đạt những
mục tiêu mà tự sức mình không thể đạt được. Nhưng cũng có những tổ chức xã hội
có những mục tiêu xấu, trái với luật luân lý và gây thiệt hại cho con người.
Người công giáo không được phép tham gia những tổ chức xã hội đen.
I.
6. Vai trò của Cộng đồng chính trị
Khi đã sống cộng đoàn với nhau, thì cá nhân, gia đình cũng như các thứ tập thể,
đều nhận thấy rằng: một mình không đủ sức để thể hiện đời sống con người cho
thật đầy đủ. Họ thấy cần có một cộng đoàn rộng lớn hơn, để thường xuyên phối
hợp nỗ lực của mỗi người, nhằm mưu cầu công ích ngày càng hoàn hảo hơn.
Chính
vì những lý do đó mà họ lập nên những cộng đồng chính trị dưới nhiều hình thức
khác nhau. Cộng đồng chính trị là để phục vụ công ích. Công ích là lý do tồn
tại, là ý hướng và là căn bản pháp lý của cộng đồng chính trị.
Quyền
bính, Công ích và Trách nhiệm tham gia của mọi người dân là những yếu tố cơ bản
làm nên Cộng đồng chính trị.
Quyền bính:
Xã
hội loài người sẽ không có trật tự và phồn vinh, nếu thiếu những người cầm
quyền hợp pháp để bảo tồn các định chế và phục vụ công ích cách đầy đủ.
Quyền
bính chỉ phẩm cách của những con người hay định chế, nhờ đó họ ban hành
lề luật và mệnh lệnh cho con người, và buộc phải tuân phục.
Mọi
cộng đồng nhân loại đều cần có một quyền bính để quản trị. Quyền bính đặt nền
tảng trên bản tính con người. Quyền bính cần thiết để tạo ra sự thống nhất cho
cộng đồng. Vai trò của nó là bảo đảm cho công ích xã hội. Quyền bính đích thực
quy hướng mọi nỗ lực của con người về với công ích.
Có
quyền bính là do Thiên Chúa an bài, nhưng việc định đoạt những thể chế chính
trị hay cắt cử người cầm quyền, vẫn là quyền tự do của mọi công dân.
Về
mặt luân lý, không phải người cầm quyền làm gì cũng hợp pháp. Họ không được xử
sự cách chuyên chế, nhưng phải hành động cho công ích vì quyền bính là một sức
mạnh tinh thần đặt nền tảng trên tự do và ý thức trách nhiệm: “luật pháp của
loài người chỉ là luật khi phù hợp với lẽ phải” (Tôma Aquinô, I. II, 93, 3.2).
Tốt
nhất mọi quyền lực đều giữ quân bằng cho nhau trong những giới hạn chính đáng.
Đó là nguyên tắc Nhà Nước pháp quyền; theo đó luật pháp chi phối tất cả,
chứ không phải ý muốn độc đoán của một số người (x. GLHTCG, các số 1897-1904).
Công ích:
Con
người có tính xã hội, nên lợi ích cá nhân phải đặt trong tương quan với lợi ích
chung. Phải hiểu công ích là toàn bộ những điều kiện của đời sống xã hội
cần thiết cho các tập thể cũng như cá nhân có thể phát triển đầy đủ và dễ dàng
hơn (x. GS số 26). Công ích ngày hôm nay không chỉ dừng lại bình diện
quốc gia, mà phải hiểu trên cả bình diện quốc tế. Công ích liên quan tới đời
sống của mọi người, đòi hỏi mỗi người phải thận trọng, nhất là những ai đang
cầm quyền (x. GLHTCG, số 1906).
Dù
mỗi cộng đồng xã hội nhằm một lợi ích chung để thể hiện chính mình, chỉ trong cộng
đồng chính trị, công ích mới được thể hiện trọn vẹn nhất. Nhà Nước có nhiệm
vụ bảo vệ và thăng tiến công ích của xã hội dân sự, của các công dân và các tập
thể nhỏ hơn.
Con
người trên địa cầu ngày càng lệ thuộc lẫn nhau. Gia đình nhân loại gồm những
con người có phẩm giá bình đẳng, đòi phải có một nền công ích toàn cầu.
Nền công ích này đòi hỏi phải có những tổ chức quốc tế liên kết nhiều quốc gia,
để có khả năng đáp ứng những nhu cầu muôn mặt của con người trong xã hội.
Công
ích hướng tới việc thăng tiến con người; “trật tự của muôn vật phải lệ thuộc
vào trật tự của các nhân vị chứ không ngược lại”. Trật tự này đặt nền tảng trên
chân lý, được thiết lập trong công bằng, được sinh động bởi tình yêu (x.
GLHTCG, các số 1910-1912).
Trách nhiệm và tham gia:
Tất
cả mọi người phải tham gia, tuỳ theo địa vị và vai trò của mình, để mưu cầu
công ích. Bổn phận này gắn với phẩm giá con người.
Con
người tham gia bằng cách làm tròn trách nhiệm cá nhân của mình: khi chăm lo
giáo dục gia đình và làm việc có lương tâm, con người góp phần mưu ích cho tha
nhân và xã hội.
Các
công dân phải tích cực tham gia càng nhiều càng tốt vào đời sống xã hội. Các
phương thức tham gia co thể thay đổi tuỳ từng Nước, từng nền văn hoá.
Thật
là phù hợp với bản tính con người, nếu có được những cơ cấu chính trị và pháp
lý giúp cho mọi công dân, không phân biệt ai, có thể mỗi ngày một có cơ hội
tham gia cách tự do và tích cực vào đời sống của cộng đồng chính trị. Tham gia
vào việc thiết lập nền tảng pháp lý cho cộng đồng, cũng như việc điều hành quốc
gia.
Những
ai để tâm lo việc Nước và vì công ích, lãnh lấy trách nhiệm để phục vụ con
người, thì đó là những hoạt động mà chúng ta hằng khuyến khích và quý trọng.
Cũng
như mọi bổn phận luân lý khác, việc mọi người tham gia vào công trình công ích,
cũng đòi các thành viên của xã hội hoán cải không ngừng. Phải kết án nghiêm
khắc những thủ đoạn dùng để tránh né luật pháp và tránh né trách nhiệm đối với
xã hội, vì chúng trái với đòi hỏi của công bằng.
Bổn
phận của công dân là phải nuôi dưỡng lòng yêu quê hương, với một tâm hồn đại
lượng và trung kiên mà không hẹp hòi. Làm sao để đồng thời vẫn yêu chuộng được
lợi ích của toàn thể gia đình nhân loại bao gồm nhiều giống nòi, dân tộc và
quốc gia.
Những
người cầm quyền có bổn phận củng cố các giá trị đem lại sự tín nhiệm nơi các
thành viên trong cộng đồng và khuyến khích họ tham gia phục vụ đồng bào. Cũng
cần phải chăm lo phát triển những định chế nhằm cải thiện điều kiện sinh sống
của con người (x. GLHTCG, các số 1913 - 1917; GS, các số 73-75).
II.
GIÁO HỘI VÀ NHÀ NƯỚC
II.
1. Giáo hội và Cộng đồng chính trị
Tương
quan giữa Đạo và Đời, Tôn giáo và Chính Trị, Thần quyền và Thế quyền, Giáo hội
và Nhà nước từ trước đến nay vẫn là một vấn đề rất tế nhị, nhạy cảm. Trong lịch
sử thế giới, cũng như lịch sử các tôn giáo, tác động qua lại giữa hai bên có
những lúc rất tích cực, nhưng cũng những giai đoạn đen tối.
Những
khó khăn thường phát xuất từ sự lẫn lộn hai lãnh vực tôn giáo và chính trị, sự giẫm chân lên nhau giữa thần quyền và thế quyền, sự lợi dụng
lẫn nhau vì ích lợi của mỗi bên. Tiến trình thế tục hoá đã góp phần giải thiêng nhiều lãnh
vực trần thế, mà trước đây người ta cứ lầm tưởng là của tôn giáo.
“Hãy
trả cho César những gì của César, và cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” là
câu nói thời danh của Chúa Giêsu, phải luôn là kim chỉ nam cho lập trường và
đường lối của Giáo hội trong tương quan với Nhà nước. Từ câu nói đó của Chúa
Giêsu, chúng ta có thể suy ra rằng không được lẫn lộn Giáo hội với bất cứ cộng
đồng chính trị nào và không được trói cột Giáo hội vào bất cứ hệ thống chính
trị nào. Cộng đồng chính trị và Giáo hội là hai thực thể tự trị và độc
lập với nhau trong lãnh vực riêng của mình. Khi có sự phân biệt giữa tôn
giáo và chính trị, thì mới có tự do tôn giáo (TYHTXHCG, số 50).
Tại
một số quốc gia trên thế giới, vì không có sự phân biệt giữa tôn giáo và chính
trị, nên chưa có tự do tôn giáo, nhất là đối với những tôn giáo thuộc thành
phần thiểu số. Từ Công đồng Vatican II trở đi, Giáo hội Công giáo luôn khẳng
định rõ rệt quyền tự do tôn giáo là quyền cơ bản nhất của con người, và không
ngần ngại đấu tranh cho tự do tôn giáo. Quyền tự do tôn giáo trở thành tiêu
chuẩn quan trọng nhất để cho nhân loại đánh giá về sự tự do đích thực của người
công dân trên một đất nước.
Càng
ngày Giáo hội càng ý thức một cách rõ rệt công việc của Giáo hội là Công
việc Mục vụ, chứ không phải là làm chính trị. Giáo hội không muốn
xen vào nội bộ của bất cứ một quốc gia nào. Giáo hội được tổ chức theo những
cách thức có thể đáp ứng các nhu cầu tâm linh của các tín hữu, còn các cộng
đồng chính trị tạo ra các quan hệ và cơ chế nhằm phục vụ những gì có liên quan
tới công ích trên trần gian.
Vì
tôn trọng tự do tôn giáo, cộng đồng chính trị phải bảo đảm cho
tôn giáo có đủ không gian cần thiết để thi hành sứ mạng của mình. Về phần mình,
Giáo hội không có thẩm quyền chuyên môn nào đối với các cơ chế của cộng đồng
chính trị: Giáo hội tôn trọng sự tự trị chính đáng của trật tự dân chủ và không
có tư cách nào để ủng hộ ưu tiên cho giải pháp này hay giải pháp kia, liên quan
tới định chế hay hiến pháp (Gioan Phaolô II, Centesimus Annus, số 47).
Sự
tự trị của Giáo hội và Cộng đồng chính trị không có nghĩa hai bên khai trừ
nhau, không hợp tác. Dù với danh nghĩa khác nhau, nhưng cả hai bên đều phục vụ
thiên chức con người vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính xã hội. Giáo hội và
cộng đồng chính trị biểu hiện chính mình qua các cơ chế có tổ chức; các cơ chế
này tự chúng không phải là mục đích, mà nhằm phục vụ con người, giúp con người
thi hành các quyền của mình cách trọn vẹn, những quyền nằm trong chính con
người vừa là công dân của một nước, vừa là kitô hữu (x. TYHTXHCG, số 424 -
425).
II.
2. Giáo hội và Nhà nước trước vấn đề Công bằng xã hội
Giáo
hội luôn quan tâm tới con người, vì xác tín rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con
người theo hình ảnh của Ngài và thực sự muốn cho con người được hạnh phúc.
Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã hy sinh Người Con Một để cứu chuộc
con người khỏi tội lỗi và sự chết. Chính vì thế Giáo hội luôn trân trọng mọi
người, đặc biệt là những người nghèo khổ, không phải để duy trì sự nghèo khổ,
nhưng để thăng tiến họ, để xoá đói giảm nghèo, theo kiểu nói thường xuyên của
xã hội chúng ta.
Các
công việc bác ái từ thiện của Giáo hội không nhằm duy trì những cơ chế bất công
như trong quá khứ đã bị ngộ nhận. Thánh giáo phụ Gioan Kim Khẩu, từ cuối thế kỷ
IV, đã nói rằng “bố thí, giúp đỡ người nghèo đúng lúc, chưa đủ, cần phải tạo ra
một cơ chế mới, một mẫu xã hội mới”. Vì yêu thương con người, Giáo hội luôn đả
phá những bất công chống lại con người.
Thật
ra Bác ái không loại bỏ sự Công bằng, nhưng nhằm cứu giúp những
con người gặp hoạn nạn khổ đau. Bác ái kitô giáo còn giúp người ta khám phá ra
những gì là công bằng, vì công bằng là tôn trọng những quyền lợi chính đáng của
người khác. Tình yêu tha nhân giúp cho con người khám phá các nhu cầu, các
quyền lợi của tha nhân để có thể tôn trọng. Về phương diện này, phải công nhận
tính xúc tác của bác ái kitô giáo đối với những khám phá mới mẻ và đúng đắn về
công bằng. Tình yêu chân thực cho chúng ta “đôi mắt sáng” để nhận ra đòi hỏi
của phẩm giá con người, nhất là nơi những người nghèo.
Có
người nói rằng: Điều gì hôm qua là bác ái, hôm nay là công bằng, và điều gì hôm
nay là bác ái, sẽ là công bằng đối với những thế hệ mai sau. Khẳng định này có
vẻ quá đáng, nhưng thật ra có một ý nghĩa rất sâu sắc. Những cải cách đích thực
trong xã hội đều tuân theo quy luật này, dù đôi khi người ta không minh nhiên ý
thức. Lãnh vực công bằng mỗi ngày một nới rộng, và ngày hôm nay hơn bao giờ
hết, khi đề cập đến công bằng, người ta phải nói tới công bằng xã hội.
Ngày
trước, người ta quan niệm “của ai trả cho người đó” là công bằng. Điều này đúng
nhưng chưa đủ. Ngày nay, người ta khẳng định “mỗi người phải có phần của mình
trong xã hội”, để sống xứng đáng là con người. Xã hội phải được tổ chức cách
nào để bảo đảm cho con người quyền sinh tồn và phát triển.
Thần
học luân lý phân biệt công bằng giao hoán và công bằng phân phối.
Hai thứ công bằng này phải đi đôi, không thể tuyệt đối hoá một thứ và tách rời
khỏi thứ công bằng kia. Tuyệt đối hoá công bằng giao hoán, mà không lưu tâm tâm
đến hoàn cảnh nghèo đói của người khác là xúc phạm công bằng. Tuyệt đối hoá
công bằng phân phối và coi thường công bằng giao hoán cũng là bất công, vì
khuyến khích sự lười biếng, do đó làm cho con người và xã hội chậm phát triển.
Trong
thông điệp “Thiên Chúa là Tình yêu”, phần bàn về tương quan giữa Công bằng và
Bác ái, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI khẳng định rất rõ ràng và dứt khoát rằng Trật
tự công bằng của xã hội và Nhà nước là nhiệm vụ chủ yếu của chính trị (x.
TĐ/TCLTY, 28).
Công
bằng là mục đích và từ đó cũng là tiêu chuẩn nội tại của chính trị. Chính trị
không đơn thuần là một kỹ thuật sắp xếp trật tự công cộng: nguồn gốc và mục
đích của chính trị là công lý, là sự công bằng, và công bằng thuộc bản
chất đạo đức. Do đó người làm chính trị phải có đạo đức. Nhà nước luôn phải đối
diện với câu hỏi: trong thực tế phải thể hiện công bằng như thế nào? Nhưng câu
hỏi này giả thiết một câu hỏi khác cơ bản hơn: công bằng là gì? Đây là một vấn
đề thuộc lý trí thực tiễn. Nhưng để có thể hành động cách đúng đắn, lý trí thực
tiễn cần phải được thanh luyện không ngừng, vì nó có thể trở thành mù quáng về
mặt đạo đức, do những cám dỗ về lợi nhuận và quyền lực.
Về
điểm này, chính trị và đức tin (Công giáo) gặp nhau. Đức tin hay đạo đức
tôn giáo là một sức mạnh tinh thần giúp thanh luyện lý trí. Đức tin giúp lý trí
thực tiễn có khả năng thực hiện công việc của mình tốt hơn. Chính đây là chỗ
đứng của học thuyết xã hội công giáo. Theo lời của Đức Thánh Cha, học
thuyết này không nhằm tạo cho Giáo hội một quyền lực bên trên Nhà nước; cũng
không muốn áp đặt cho những người không cùng một niềm tin những quan điểm và
những cách thức riêng của Giáo hội; nhưng chỉ muốn đóng góp vào việc thanh
luyện lý trí và giúp lý trí nhận ra điều gì là công bằng trong cụ thể.
Học
thuyết xã hội của Giáo hội lập luận dựa trên lý trí và luật tự nhiên , có nghĩa
là từ những gì thích hợp với bản tính con người. Giáo hội không muốn áp đặt học
thuyết xã hội này bằng chính trị, chỉ muốn phục vụ và giúp đỡ việc giáo dục
lương tâm trong chính trị, giúp nhận thức rõ ràng những đòi hỏi đích thực của
công bằng.
Giáo
hội không thể và cũng không được phép dành quyền đấu tranh chính trị để thực
hiện một xã hội công bằng nhất. Giáo hội không thể và không được phép thay thế
vị trí của Nhà nước. Nhưng cũng không thể và không được phép đứng bên ngoài
cuộc đấu tranh cho công bằng. Giáo hội phải dấn thân vào cuộc đấu tranh này
bằng con đường lý luận dựa trên lý trí và phải đánh thức những sức mạnh tinh
thần, mà nếu không có thì sự công bằng, vốn luôn đòi hỏi những hy sinh từ bỏ,
sẽ không được thực thi và phát triển. Xã hội công bằng không thể là công trình
của Giáo hội, nhưng là công việc của chính trị (x. TĐ/TCLTY, 28).
Tuy
rất thực tế và khiêm tốn, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vẫn mạnh dạn giới thiệu
học thuyết xã hội công giáo cho thế giới, vì đó cũng là một phần quan trọng của
Tin mừng Chúa Giêsu, là khía cạnh xã hội của Tin mừng. Đức Thánh Cha viết:
“Trong hoàn cảnh khó khăn mà chúng ta đang sống vì việc toàn cầu hoá kinh tế,
học thuyết xã hội của Giáo hội sẽ trở thành điểm quy chiếu căn bản, đề nghị các
định hướng có giá trị vượt quá ranh giới của Giáo hội. Đối diện với sự
phát triển càng ngày càng nhanh, các định hướng này cần được trao đổi với những
người thực sự quan tâm đến con người và thế giới (x. TĐ/TCLTY, 27)
Trách
nhiệm trực tiếp hoạt động cho một trật tự công bằng trong xã hội là điều đặc
thù của người giáo dân. Là công dân họ được kêu gọi tham gia cách cá nhân vào
đời sống cộng đồng. Họ không được phép từ chối tham gia vào “những sáng kiến đa
dạng và khác nhau trên những bình diện kinh tế, xã hội, luật pháp, hành chính
và văn hoá, tất cả các bình diện này đều phục vụ cho việc thực thi công ích có
tổ chức và cơ chế.
Giáo
hội không phải là cơ chế trực tiếp hoạt động cho công bằng xã hội. Nhưng cơ chế
để thực hiện công việc bác ái từ thiện thì Giáo hội phải có, vì nó là dấu chỉ
hữu hình cho Tình yêu của Thiên Chúa mà Giáo hội muốn rao giảng và làm chứng.
Đức Thánh cha viết: “Tình yêu vẫn luôn cần thiết, ngay cả
trong xã hội công bằng nhất. Không có một trật tự công bằng nào của Nhà nước có
thể xem công tác bác ái là thừa thãi. Ai muốn loại bỏ tình yêu thì đồng thời
không xem con người là con người nữa. Vẫn luôn có khổ đau cần đến sự an ủi và
trợ giúp. Vẫn luôn luôn còn có sự cô đơn. Vẫn luôn còn có những trường hợp
thiếu thốn vật chất, nơi mà sự trợ giúp theo nghĩa thể hiện tình yêu tha nhân
là cần thiết” (x. TĐ/TCLTY, 28).
III. CÁC NGUYÊN TẮC LỚN
CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO
Học
thuyết xã hội công giáo là một toàn bộ, không thể tách ra từng mảng, hoặc đề
cập đến một vài nguyên tắc riêng lẻ, và từ đó phê phán một cách riêng lẻ, hoặc
lợi dụng một vài nguyên tắc và đưa đến các chủ trương cực đoan. Trái lại cần
phải nhấn mạnh các đặc tính: thống nhất và liên tục, chứ không đứt đoạn hoặc
mâu thuẫn nhau, luôn cởi mở và lưu tâm tới các vấn đề thời đại, những điều mới
mẻ.
Học
thuyết xã hội của Giáo hội là một tri thức được soi sáng bởi đức tin: các
nguyên tắc cơ bản của nó được rút ra từ những suy tư vừa dựa trên lý trí, vừa
dựa trên mạc khải thánh kinh và truyền thống của Giáo hội. Đối tượng và nội
dung của suy tư này là đời sống con người trong xã hội, các tương quan giữa con
người và xã hội. Về lãnh vực này, có rất nhiều điều thiết thực để suy nghĩ. Do
đó những nguyên tắc lớn của học thuyết xã hội công giáo không chỉ nằm trên bình
diện lý thuyết suông, nhưng chúng nhằm hướng dẫn đời sống thực tế của con người
và xã hội.
III.
1. Nguyên tắc nhân vị và công bằng xã hội
Nguyên
tắc đầu tiên và cơ bản nhất là nguyên tắc nhân vị. Con người chính là
trọng tâm và linh hồn của tư duy xã hội công giáo. Toàn bộ học thuyết xã hội
công giáo chẳng qua chỉ là sự triển khai nguyên tắc: con người có phẩm giá bất
khả xâm phạm. Giáo hội luôn cố gắng bênh vực phẩm giá con người mỗi khi có toan
tính xác định lại hay bóp méo hình ảnh của phẩm giá ấy (x. TYHTXHCG, số 107).
Người
nam và người nữ có cùng một phẩm giá và ngang bằng nhau. Từng người và cùng
nhau họ là hình ảnh của Thiên Chúa. Người nam và người nữ quan hệ với người
khác trước hết như những người chịu trách nhiệm về sự sống của người khác: “Ta
sẽ đòi ngươi tính sổ về máu của anh em mình” (St 9, 5). Người nam và người nữ
cũng đặt mình đối diện với các loài thụ tạo khác, dựa vào chính ơn gọi phải
sống của mình, họ có quyền và bổn phận sử dụng chúng để phục vụ mình. Nhưng
việc con người làm chủ vũ trụ cũng đòi hỏi trách nhiệm, chứ không được quyền
tuỳ tiện và khai thác cách ích kỷ (x. ibid. số 111 – 113).
Con
người được Thiên Chúa tạo dựng thành một thể thống nhất gồm xác và hồn. Nhân vị
con người bao gồm cả thân xác, được trao phó trọn vẹn cho chính con người. Và
con người với cả hồn lẫn xác là chủ thể chịu trách nhiệm về các hành vi luân lý
của mình. Thông qua thân xác, con người thống nhất nơi mình các yếu tố của thế
giới vật chất. Còn thông qua sự linh thiêng của mình, con người vượt lên trên
thế giới các sự vật và đi vào nơi sâu thẳm nhất của thực tại. Bởi đó con người
có hai đặc điểm khác nhau: là hữu thể vật chất có liên quan với thế giới này
qua thân xác mình, và là hữu thể thiêng liêng, mở ra với siêu việt.
Con
người mở ra với Đấng Vô biên và với toàn thể các thụ tạo, mở ra với sự hữu
viên mãn, với chân trời vô biên của sự hữu. Con người hiện hữu
như một hữu thể độc đáo và không thể sao chép, như một cái “tôi’ có khả năng
hiểu chính mình, làm chủ chính mình và tự quyết về mình. Con người hiện hữu
trước hết như một thực thể làm chủ thể, như một trung tâm của ý thức
và tự do.
Một
xã hội công bằng chỉ trở thành hiện thực khi được xây dựng trên việc tôn trọng
phẩm giá siêu việt của con người. Con người là mục tiêu tối hậu của xã hội; xã
hội được tổ chức là nhắm tới con người. Bởi đó không bao giờ người ta được lèo
lái con người vào những mục tiêu xa lạ với sự phát triển của chính con người.
Không thể lấy con người làm phương tiện để thực hiện những dự án kinh tế, xã
hội hay chính trị.
Tự
do đích thực không phải là “muốn làm gì thi làm’, không cần để ý tới ai, không
lưu tâm tới điều gì khác. Muốn thực hành đúng đắn ‘tự do cá nhân”, đòi hỏi phải
có những điều kiện đặc thù liên quan tới trật tự kinh tế, xã hội, luật pháp,
chính trị và văn hoá. Thực thi tự do, con người làm những hành vi tốt về mặt
luân lý, có giá trị xây dựng con người và xã hội, nếu con người biết tuân theo
sự thật. Người ta nhận ra sự thật liên quan đến điều tốt xấu một cách hết sức
cụ thể dựa vào phán đoán của lương tâm khiến con người sẵn sàng chịu trách
nhiệm về điều tốt và điều xấu đã làm.
Khi
thực thi sự tự do, chúng ta gián tiếp liên hệ đến luật luân lý tự nhiên, có
tính phổ quát, đi trước và liên kết mọi quyền lợi và nghĩa vụ của con người.
Luật tự nhiên “chẳng là gì khác hơn chính ánh sáng của trí khôn được Thiên Chúa
dọi vào lòng chúng ta. Nhờ đó chúng ta biết phải làm điều gì và tránh điều gì.
Trong tình trạng có nhiều nền văn hoá khác nhau, luật tự nhiên chính là điểm
liên kết mọi dân tộc, thống nhất các nguyên tắc chung (x. ibid. các số 129 –
141).
Thiên
Chúa không thiên vị ai, vì mọi người đều có cùng phẩm giá của những thụ tạo
được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa. Phẩm giá của mỗi
người trước mặt Thiên Chúa chính là nền tảng đem lại phẩm giá của con người
trước mặt người khác.Và đó cũng là nền tảng tối hậu đưa tới sự bình đẳng và
tình huynh đệ căn bản giữa mọi người, bất kể chủng tộc, giới tính, nguồn gốc,
văn hoá hay giai cấp.
Chỉ
khi nào phẩm giá con người được nhìn nhận mới có thể có sự phát triển riêng và
chung của mọi người (Gc 2, 1-9). Để khuyến khích sự phát triển này, cần đặc
biệt giúp đỡ những người kém nhất, bảo đảm cho cả nam lẫn nữ có những điều kiện
phát triển đồng đều, cũng như sự bình đẳng khách quan giữa các giai cấp xã hội
khác nhau trước mặt luật pháp.
Trong
các quan hệ giữa các dân tộc và các quốc gia, cũng cần phải có những điều kiện
bình đẳng và giống nhau thì cộng đồng quốc tế mới phát triển đích thực (x.
ibid. các số 143-145).
Ứng
dụng nguyên tắc nhân vị vào đời sống xã hội đưa tới đòi hỏi không thể thoái
thác, là mọi người phải tôn trọng quyền làm người của nhau, xã hội và cộng đồng
chính trị phải tôn trọng quyền con người. Giáo hội công giáo đánh giá rất cao
bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc, được công bố ngày 10 tháng 12 năm
1948. Thật ra, nguồn gốc của các quyền con người nằm trong chính phẩm giá của
mỗi một con người. Nhưng nguồn gốc tối hậu của chúng không ở trong ý muốn thuần
tuý của con người, trong thực thể quốc gia hay chính quyền, nhưng là trong
chính bản thân con người và trong Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người.
Phải
bảo vệ các quyền con người không chỉ một cách riêng lẻ mà còn như một tổng thể:
bảo vệ chỉ một phần các quyền này thôi là một cách không công nhận chúng. Các
quyền ấy tương ứng với phẩm giá con người, và trên hết chúng đáp ứng các nhu
cầu căn bản của con người, vật chất cũng như tinh thần của con người. Những
quyền này áp dụng cho mọi giai đoạn của cuộc sống, mọi hoàn cảnh chính trị, xã
hội, kinh tế và văn hoá.
Thông
điệp Bách chu niên (Centesimus annus) của Đức Thánh cha Gioan Phaolô
II liệt kê một số quyền rất cụ thể: “Quyền được sống”, và phần bổ
sung của quyền ấy là quyền của thai nhi được lớn lên trong bụng mẹ từ lúc thụ
thai; quyền được sống trong một gia đình hợp nhất và trong một môi trường luân
lý giúp phát triển nhân cách của đứa trẻ; quyền được phát huy trí khôn, được
tìm biết chân lý; quyền được chia sẻ công ăn việc làm, được sử dụng các thành
quả rút ra từ đó để lo cho bản thân và những người thân; quyền được tự do thành
lập gia đình, quyền có con hoặc hoãn lại bằng việc sinh đẻ có trách nhiệm. Theo
một nghĩa nào đó, nguồn gốc và tổng hợp các thứ quyền ấy là quyền tự do tôn
giáo, được hiểu như là quyền sống trong chân lý đức tin của mình và
phù hợp với phẩm giá siêu việt của một nhân vị” (Gioan Phaolô II, CA, số 47).
Liên
kết hết sức chặt chẽ với đề tài quyền lợi là vấn đề nghĩa vụ của con người.
Trong xã hội loài người, quyền của người này là nghĩa vụ cho hết mọi người
khác: cụ thể là quyền phải nhìn nhận và tôn trọng các quyền ấy. Khi khẳng định
các quyền lợi mà không nhìn nhận các trách nhiệm tương ứng là một sự mâu thuẫn
nội tại.
Phạm
vi nhân quyền được mở rộng ra để bao gồm cả quyền lợi của các dân tộc và các
quốc gia. Luật quốc tế dựa trên nguyên tắc phải tôn trọng một cách bình đẳng
đối với các quốc gia, đối với quyền tự quyết của mỗi dân tộc và đối với sự hợp
tác tự do nhằm đạt được công ích cao ơn cho cả nhân loại. Hoà bình được xây
dựng không chỉ dựa trên quyền con người, mà còn trên sự tôn trọng các quyền của
các dân tộc, nhất là quyền độc lập (x. ibid. các số 152-157).
III.
2. Nguyên tắc công ích và công bằng xã hội
Nguyên
tắc công ích là một nguyên tắc mà mọi khía cạnh trong đời sống xã hội đều có
liên quan để có ý nghĩa trọn vẹn, xuất phát từ chính phẩm giá, sự duy nhất và
bình đẳng giữa hết mọi người.
Công
ích không chỉ đơn giản là tổng cộng các của cải riêng (vật chất và tinh thần)
của mỗi người trong xã hội. Dù là của mọi người và của mỗi người, công ích vẫn
là ích lợi chung, vì nó không thể phân chia được và vì phải gộp chung
như thế mới có được, phát triển và bảo vệ được cách hữu hiệu, đồng thời hướng
về tương lai.
Một
xã hội muốn và có ý định tiếp tục phục vụ con người ở mọi cấp độ là một xã hội
phải lấy công ích - tức là lợi ích của hết mọi người và của con người toàn diện
- làm mục tiêu tiên quyết của mình. Con người không thể tìm được sự phát triển
mỹ mãn chỉ nơi bản thân mình, nếu bỏ qua sự kiện con người hiện hữu với người
khác và cho người khác.
Những
đòi hỏi của công ích tuỳ thuộc vào những điều kiện xã hội của mỗi giai đoạn
lịch sử và có liên quan chặt chẽ với việc tôn trọng và thăng tiến con người
toàn diện cũng như các quyền căn bản của con người. Những đòi hỏi này trước hết
bao gồm việc dấn thân xây dựng hoà bình, tổ chức các cơ sở quyền lực của quốc
gia, xây dựng một hệ thống tư pháp lành mạnh, bảo vệ môi trường và cung cấp các
dịch vụ thiết yêu cho hết mọi người.
Công
ích có liên quan tới mọi thành phần trong xã hội, không ai được miễn cộng tác
vào việc thực hiện và phát huy công ích, tuỳ theo khả năng của mỗi người. Mỗi
người cũng có quyền hưởng những điều kiện của đời sống xã hội do công ích đem
lại. Ngày nay tài sản của thế giới đang được phân phối dưới ảnh hưởng của những
tệ đoan nặng nề xuất phát từ chỗ có sự chênh lệch khổng lồ giữa một thiểu số
giàu có quá mức và vô số người không có tài sản. Cần phải tổ chức lại sự phân
phối ấy cách hiệu quả và phù hợp với các chuẩn mực về công ích, tức là công
bằng xã hội.
Trách
nhiệm đạt tới công ích không những thuộc về các cá nhân, mà là trách nhiệm của
Nhà nước, vì công ích là lý do tồn tại của quyền bính chính trị. Nhà nước phải
bảo đảm cho xã hội dân sự được trật tự, thống nhất và có tổ chức, để công ích
được thể hiện với sự cộng tác của mỗi công dân. Để bảo đảm công ích, chính phủ
mỗi nước có nghĩa vụ đặc biệt là làm hài hoà các quyền lợi khác nhau của các
thành phần xã hội với các đòi hỏi của công lý. Điều hoà cách thích hợp các lợi
ích của các tập thể với các lợi ích của cá nhân là một trong những nhiệm vụ tế
nhị nhất của chính quyền.
Công
ích xã hội không phải là một mục tiêu tự thân; nó chỉ có giá trị khi có liên
quan tới việc thực hiện các mục tiêu tối hậu của con người và ích lợi chung của
toàn thể thụ tạo (x. ibid. các số 164 - 170)
III.
3. Nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải và công bằng xã hội
Nguồn gốc và ý nghĩa của nguyên tắc mục
tiêu phổ quát của của cải:
Trong
số những điều bao hàm trong nguyên tắc công ích, quan trọng nhất là nguyên tắc của
cải có mục tiêu phổ quát. Thiên Chúa đã tiền định cho trái đất và tất cả
những gì chứa đựng trong đó đều dành cho mọi người và mọi dân tộc, ngõ hầu mọi
sự vật được tạo thành được chia sẻ cách tốt đẹp cho hết mọi người dựa vào sự
công bằng được điều tiết bởi đức ái (Vat. II, GS, số 69).
Quyền
sử dụng của cải trên trái đất là quyền dựa trên nguyên tắc
“mục tiêu phổ quát” của của cải. Mỗi người phải đạt được mức an sinh cần thiết
để có thể phát triển trọn vẹn. Quyền sử dụng chung các của cải là “nguyên tắc
đầu tiên của toàn bộ trật tự đạo đức và xã hội” và là nguyên tắc tiêu biểu của
học thuyết xã hội công giáo. Trước hết đó là một quyền tự nhiên, được
khắc ghi nơi bản tính con người, chứ không phải là một quyền do xã hội thiết
định. Đó là một quyền bẩm sinh nơi mỗi người… có trước bất cứ hệ thống pháp
luật nào liên quan đến vấn đề này, có trước bất cứ hệ thống kinh tế hay xã hội
nào.
Nguyên
tắc mục tiêu phổ quát của của cải chính là một lời mời gọi chúng ta hãy triển
khai một nhãn quan kinh tế, gợi hứng từ các giá trị luân lý, làm cho con người
luôn nhìn thấy nguồn gốc và mục tiêu của của cải, để từ đó tạo ra một thế giới
công bằng và liên đới (x. TYHTXHCG, các số 1171 - 175).
Muốn
thực hiện mục tiêu phổ quát của của cải, cần phải có nỗ lực chung hầu tạo cho
mỗi người và mọi dân tộc những điều kiện cần thiết để phát triển toàn diện, hầu
ai ai cũng có thể góp phần làm cho thế giới nhân bản hơn. “Trong thế giới ấy
mỗi cá nhân có thể cho và nhận, sự tiến bộ của người này không cản trở sự phát
triển của những người khác…” (Thánh bộ giáo lý đức tin, Libertatis
conscientia, số 90, năm 1987).
Mục tiêu phổ quát của tài sản và quyền tư
hữu:
Nhờ
lao động và nhờ tận dụng khả năng trí tuệ, người ta có thể làm chủ trái đất và
biến nó thành một nơi ở thích hợp, con người biến một phần trái đất thành của
mình; đây chính là nguồn gốc của tư hữu. Nhờ tư hữu và các hình thái
khác nhau trong việc làm chủ của cải cách cá nhân, con người bảo đảm cho mình
có một không gian hết sức cần thiết để thực hiện sự độc lập của cá nhân và gia
đình, có thể coi đó là sự nối dài của tự do… thúc giục con người thi hành trách
nhiệm, và là một trong những điều kiện để có được sự tự do dân sự (x. GS, số
71).
Học
thuyết xã hội công giáo đòi việc làm chủ của cải phải được mở ra một cách đồng
đều cho hết mọi người, để mọi người đều có thể trở thành chủ nhân, ít là trong
một chừng mực nào đó, và tránh tình trạng phải chấp nhận những hình thức “làm
chủ một cách chung chạ và hỗn độn”.
Truyền
thống kitô giáo chưa bao giờ công nhận quyền tư hữu là quyền tuyệt đối, không
được phép đụng chạm. Ngược lại, truyền thống ấy luôn luôn hiểu quyền này trong
khuôn khổ rộng lớn hơn là quyền của hết mọi người được sử dụng tài nguyên của
toàn thể vũ trụ (Gioan Phaolô II, Laborem exercens, số 14).
Học
thuyết xã hội công giáo còn kêu gọi nhìn nhận vai trò xã hội của quyền
tư hữu dưới bất cứ hình thức nào, đó là một cách nhắc tới tương quan tất yếu
giữa tư hữu với công ích. Không được để tài sản mình đang giữ hoá thành vô ích,
nhưng phải làm sao hướng chúng đi vào hoạt động sản xuất, thậm chí còn giao các
tài sản ấy cho những người nào có ước muốn và khả năng đưa chúng vào sản xuất.
Giai
đoạn lịch sử hiện nay xếp đăt cho xã hội sử dụng nhiều thứ
của cải mới mẻ và trước đây chưa từng được biết đến. Tình hình này bắt chúng ta
đọc lại nguyên tắc mục tiêu phổ quát của tài sản một cách mới mẻ và cần
phải mở rộng nguyên tắc ấy cho nó bao gồm cả những sự phát triển mới nhất do
các tiến bộ kinh tế và công nghệ mang lại. Phải đặt các hiểu biết mới mẻ về
công nghệ và khoa học phục vụ các nhu cầu căn bản của con người, làm cho gia
sản chung của nhân loại càng ngày càng tăng lên.
Cần
phải phá các hàng rào và các tổ chức độc quyền, đã khiến cho nhiều nước phải
đứng bên lề chương trình phát triển, phải cung cấp cho các cá nhân và quốc gia
các điều kiện căn bản, giúp họ tham gia vào sự phát triển (Gioan Phaolô
II, CA, số 35).
Được
thi hành quyền làm chủ dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ giúp cho các chủ thể,
cá nhân hay cộng đồng, hưởng thêm nhiều lợi ích khách quan như điều kiện
sống tốt hơn, tương lai an toàn hơn, và khả năng để lựa chọn có nhiều hơn.
Nhưng của cải cũng có thể mang lại nhiều hứa hẹn hão huyền, nguồn gốc của nhiều
cám dỗ. Những người nào và xã hội nào đi xa đến mức tuyệt đối hoá vai trò của
của cải không sớm thì muộn sẽ kinh nghiệm thế nào là bị nô lệ một cách cay đắng
nhất (x. TYHTXHCG, các số 176 - 181).
Mục tiêu phổ quát của tài sản và sự lựa
chọn ưu tiên dành cho người nghèo:
Nguyên
tắc của cải vốn có mục tiêu phổ quát bắt chúng ta phải coi người nghèo, người
bị gạt ra bên lề và người bị ngăn cản không phát triển được do các điều kiện
sống của họ, là những tiêu điểm cần quan tâm đặc biệt. Muốn vậy cần phải tái
xác nhận cách mạnh mẽ sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo. Đây là một sự
lựa chọn hay là một hình thức ưu tiên trong khi thi hành đức ái kitô giáo, như
toàn bộ truyền thống Giáo hội đã làm chứng.
Hơn
thế nữa, hiện nay, với chiều kích toàn cầu mà các vấn đề xã hội đều có,
tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo và các quyết định rút ra từ đó chắc chắn
bao trùm vô số người đói khát, túng thiếu, không nhà ở, người không được
chăm sóc y tế và trên hết, người không hy vọng, sẽ có một tương lai tốt đẹp hơn
(Gioan Phaolô II, SRS, số 42).
Lòng
yêu thương mà Giáo hội dành cho người nghèo được cảm hứng từ Tin mừng Tám
mối phúc, từ đời sống khó nghèo của Chúa Giêsu và từ sự quan tâm của Người đối
với người nghèo. Lòng yêu thương này không những liên quan tới sự khó nghèo vật
chất, mà còn liên quan tới nhiều hình thức khác nhau của sự nghèo nàn về văn
hoá và tôn giáo (x. TYHTXHCG, các số 182 - 184).
Trong
giáo huấn của mình, Giáo hội thường xuyên nhắc tới mối tương quan giữa lòng bác
ái và sự công bằng: “Khi chúng ta chăm lo các nhu cầu của những người đang cần
là chúng ta trả lại cho họ cái của họ, chứ không phải của chúng ta. Chúng ta
không chỉ làm các việc bày tỏ lòng thương xót mà là đang trả một món nợ công
bằng” (Thánh Grêgôriô Cả, Regula pastoralis, 3,21).
III.
4. Nguyên tắc bổ trợ (principle of subsidiarity)
Nguyên
tắc bổ trợ là một trong những định hướng bền vững và đặc thù nhất của
học thuyết xã hội công giáo, đã có mặt trong học thuyết ấy ngay từ văn kiện xã
hội đầu tiên (Lêô XIII, Rerum novarum).
Để
phát huy phẩm giá con người cần phải quan tâm tới gia đình, các tập thể, các
hiệp hội, các thực thể địa phương, phải quan tâm tới toàn bộ các biểu hiện kinh
tế, xã hội, văn hoá, thể thao, giải trí, nghề nghiệp… mà dân chúng đã tự
động tạo ra, vì chúng giúp họ thể hiện việc tăng trưởng xã hội cách có hiệu
quả. Đó chính là lãnh vực của xã hội dân sự, có thể hiểu là tổng số các
mối quan hệ giữa các cá nhân với các tập thể xã hội trung gian. Nhờ mạng lưới
các quan hệ ấy, cơ cấu xã hội mới vững mạnh và cộng đồng các nhân vị mới có nền
tảng.
Giáo
hội từng nhấn mạnh tới nhu cầu cần bảo vệ và phát huy các biểu hiện nguyên thuỷ
của đời sống xã hội (x. Quadragesimo Anno). Giáo hội cũng cho thấy nguyên tắc
bổ trợ là nguyên tắc quan trọng nhất của triết học xã hội.
Thật
là một sai lầm trầm trọng khi rút khỏi tay các cá nhân những gì họ có thể làm
được dựa vào sáng kiến và sự chuyên cần của mình, để trao cho cộng đồng; cũng
vậy thật là bất công và tai hại nghiêm trọng, làm trật tự đúng đắn bị xáo trộn,
khi giao cho một tổ chức cao hơn và lớn hơn những gì mà tổ chức nhỏ hơn và cấp
dưới có thể làm được.
Dựa
trên nguyên tắc này, mọi xã hội thuộc trật tự cao hơn phải có thái độ giúp đỡ -
tức là hỗ trợ, đẩy mạnh, phát triển - các xã hội thuộc trật tự thấp hơn. Nhờ
nguyên tắc bổ trợ dân chúng có thể được bảo đảm khỏi những sự lạm quyền của
chính quyền cấp cao hơn và chính quyền này cũng được mời gọi giúp đỡ các cá
nhân, các gia đình và các tập thể trung gian chu toàn nghĩa vụ. Nguyên tắc này
là bó buộc, vì mỗi con người, mỗi gia đình và tập thể trung gian đều có một
điều gì độc đáo có thể đóng góp cho cộng đồng.
Nguyên
tắc bổ trợ chống lại một số hình thức trung ương tập quyền, quan liêu
giấy tờ, cũng như sự can thiệp vô lý và thái quá của Nhà nước trong guồng máy
công cộng. Để áp dụng nguyên tắc bổ trợ trong thực tế, có một nhu cầu tương ứng
cần thoả mãn: đó là tôn trọng và thăng tiến con người và gia đình; trân trọng
ngày càng nhiều hơn các hiệp hội và các tổ chức trung gian trong những lựa chọn
căn bản của họ; cổ võ các tổ chức tư nhân sao cho bất cứ đơn vị xã hội nào cũng
phục vụ công ích, mỗi tổ chức với nét riêng của mình.
Một
số trường hợp cụ thể có thể khiến Nhà nước hỗ trợ thực hiện một vài chức năng.
Có những tình huống mà trong đó Nhà nước cần phải đích thân đứng ra khởi động
nền kinh tế vì xã hội dân sự nơi đó không đủ sức hỗ trợ các sáng kiến kinh
doanh. Cũng có thể có trường hợp vì tình trạng mất cân đối xã hội hay bất công
xã hội quá nghiêm trọng mà chính quyền cần can thiệp để tạo ra những điều kiện
bình đẳng hơn, để có công lý và hoà bình. Tuy nhiên, theo nguyên tắc bổ trợ, sự
thay thế mang tính cơ chế này không được tiếp tục khi không thực sự cần thiết
nữa.
Một
hệ luận điển hình của nguyên tắc bổ trợ là sự tham gia, được thực hiện chủ yếu
qua một loạt hoạt động mà nhờ đó các công dân - trong tư cách cá nhân hay liên
kết với người khác- góp phần vào đời sống văn hoá, kinh tế, chính trị và xã hội
của cộng đồng dân sự mà mình là thành viên. Tham gia là nghĩa vụ mà mọi người
phải chu toàn một cách ý thức, với tinh thần trách nhiệm và nhắm tới công ích.
III.
5. Nguyên tắc liên đới (principle of solidarity)
Nguyên
tắc liên đới là nguyên tắc hiện nay được nhấn mạnh nhiều nhất trong học
thuyết xã hội công giáo, và cũng là nguyên tắc được đưa vào ứng dụng thực tế
nhiều nhất trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế.
Ý nghĩa của sự liên đới:
Liên
đới không chỉ là một đồng cảm mơ hồ hay xúc động hời hợt trước những đau khổ của
bao người xa gần. Nhưng đó là quyết tâm chắc chắn và bền vững lo cho công ích,
nghĩa là cho lợi ích của tất cả và của từng người, bởi vì tất cả chúng ta thực
sự đều có trách nhiệm về mọi người. Đây là một thái độ hoàn toàn có tính chất phúc
âm: dấn thân lo cho ích lợi của tha nhân, sẵn sàng như Tin mừng nói, “chết
đi” cho người khác, thay vì bóc lột họ, “phục vụ” người khác thay vì đàn áp họ
để mưu lợi ích riêng (x. Mt 10, 40 - 42; Mc 10, 42 - 45; Lc 22, 25 - 27).
Việc
thực thi tình liên đới trong mọi xã hội sẽ đạt được giá trị trọn vẹn của nó,
khi mọi người biết nhìn nhận nhau như là những con người. Những ai có khả năng
hơn vì có nhiều của cải và hưởng nhiều dịch vụ chung hơn, phải cảm thấy có
trách nhiệm đối với những người yếu kém hơn, và phải sẵn sàng chia sẻ cho họ
những gì mình có. Về phần mình, những người yếu kém hơn, trong cùng một hướng
liên đới, không nên có một thái độ thuần tuý tiêu cực hoặc phá hoại xã hội,
nhưng hãy làm những gì thuộc về phần mình nhằm ích lợi cho mọi người, trong khi
vẫn bênh vực những quyền chính đáng của mình (x. SRS, các số 38 - 39).
Sự
liên đới làm nổi bật cách hết sức đặc biệt bản chất xã hội của con
người, sự bình đẳng của mọi người về phẩm giá và quyền lợi, cũng như con
đường chung cho các cá nhân và các dân tộc bước vào để tiến tới sự thống
nhất với một ý thức càng ngày càng cao hơn.
Ngày
nay hơn bao giờ hết, có một sự nhận thức phổ biến rộng rãi về sự lệ thuộc
lẫn nhau (interdependence) giữa các cá nhân và các dân tộc. Sự tiến bộ
nhanh chóng về phương tiện truyền thông, về công nghệ điện toán, sự gia tăng
của khối lượng thương mại và thông tin, đã biến thế giới trở thành như một ngôi
làng. Mặc dù người ta ở cách nhau rất xa và có khi không quen biết nhau,
người ta vẫn có thể nói tới một ngôi làng thế giới.
Đứng
trước hiện tượng “lệ thuộc lẫn nhau” càng ngày càng rộng lớn, ở mọi nơi người
ta đều thấy vẫn còn sự bất bình đẳng sâu sắc giữa các nước đã phát triển và các
nước đang phát triển, những sự bất bình đẳng do các hình thức bóc lột, đàn áp
và tham ô gây ra, từng gây ảnh hưởng tiêu cực trên đời sống quốc nội cũng như
quốc tế của nhiều nước. Chính vì thế mà việc gia tăng các quan hệ hỗ tương giữa
các cá nhân và các dân tộc cần phải có những nỗ lực kèm theo về phương diện đạo
đức xã hội, khẩn trương không kém (x. TYHTXHCG, số 192).
Liên đới là một nguyên tắc xã hội
và là một nhân đức luân lý:
Quan
hệ lệ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân và các dân tộc, chính là những
hình thức liên đới trong thực tế, phải được biến thành những quan hệ hướng về sự
liên đới đích thực trên bình diện đạo đức xã hội. Đây là một đòi hỏi luân
lý tiềm tàng trong mọi quan hệ con người. Bởi đó cần phải nhìn sự liên đới dưới
hai khía cạnh bổ sung cho nhau: liên đới là một nguyên tắc xã hội, cũng là một
nhân đức luân lý.
Trước
hết phải nhìn sự liên đời trong giá trị riêng của nó như là một nhân đức luân
lý nhằm xác định trật tự của các cơ chế. Không phải cơ chế nào cũng tốt,
có những cơ chế dung dưỡng sự bất công và sự áp bức bóc lột, mà trên bình diện
thần học, chúng ta gọi là “những cơ chế của tội”. Các cơ chế ấy cần được thanh
lọc và biến thành “cơ chế liên đới”. Liên đới là một “nhân đức xã hội” cơ
bản, vì đó là nhân đức nằm trong phạm vi của sự công bằng. Đó là một nhân đức
ưu tiên nhắm tới công ích và được gặp thấy nơi những người “dấn thân lo cho ích
lợi của người khác” (x. TYHTXHCG, số 193).
Giáo
hội cảm thấy được mời gọi đứng về phía đám đông những người nghèo, công nhận
tính cách chính đáng của những yêu sách của họ, góp phần thoả mãn những yêu
sách đó. Sự “tuỳ thuộc lẫn nhau” phải biến thành liên đới, dựa trên nguyên tắc
là của cải được tạo dựng dành cho mọi người: những gì mà công nghệ sản xuất
bằng cách biến cải các nguyên liệu với sự đóng góp của lao động, cũng phải được
để cho mọi người sử dụng (x. SRS, các số 38 - 40).
Dưới
ánh sáng đức tin, sự liên đới không chỉ để mà liên đới, nhưng còn hướng tới
chiều kích đặc thù kitô giáo, đó là sự hoàn toàn vô vị lợi, sự tha thứ và hoà
giải. Lúc đó tha nhân không chỉ là một người có những quyền lợi và được bình
đẳng với mọi người, nhưng còn là hình ảnh sống động của Thiên Chúa là Cha, được
máu Chúa Kitô cứu chuộc, và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Do đó, tuy thuộc
phạm vi “công bằng xã hội”, liên đới có nhiều điểm tương đồng với “bác ái kitô
giáo”, mà ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều đến khía cạnh xã hội (bác ái xã
hội).
Người
có nhân đức liên đới luôn hướng tới công lý và ước ao thiết lập công lý trên
khắp mặt địa cầu, và đặc biệt là công lý dành cho những người nghèo khổ, không
tiền bạc, không địa vị, không quyền lực, không tiếng nói. Nơi sự liên đới, bác
ái và công bằng gặp gỡ nhau, và trở thành hiện thực trên bình diện xã hội. Dấu
hiệu đáng mừng nhất của thế giới còn đầy dẫy những bất công và tranh chấp,
chính là hiện tượng liên đới càng ngày càng lan rộng và thực sự trở nên toàn
cầu.
Liên đới và sự phát triển chung của nhân
loại :
Thông
điệp của học thuyết xã hội công giáo về sự liên đới cho thấy rõ có một mối
tương quan mật thiết giữa liên đới và công ích, giữa liên đới và mục tiêu phổ
quát của tài sản, giữa liên đới với bình đẳng, giữa liên đới với hoà bình trên
thế giới.
Thuật
ngữ “liên đới” diễn tả cách tóm tắt sự cần thiết phải nhận ra trong những mối
giây liên kết con người với nhau, các tập thể xã hội với nhau có cả một không
gian cho con người được tự do xây dựng sự phát triển chung, trong đó ai ai cũng
có phần và ai ai cũng tham gia.
Nguyên
tắc liên đới đòi con người hôm nay phải ngày càng nhận thức rõ hơn rằng họ
chính là những người mắc nợ xã hội mà họ đang tham gia. Họ là những người “mắc
nợ” vì tất cả những điều kiện đã làm cho cuộc sống của họ trở nên đáng sống, và
vì những di sản không thể phân chia nhưng rất cần thiết do văn hoá,
do sự hiểu biết khoa học và kỹ thuật, do của cải vật chất và tinh thần mang lại
(x. Ủy ban Giáo hoàng về Công lý và Hòa Bình, TYHTXHCG, các số 194 - 195).
Sự
liên đới là con đường đi tới hoà bình, và đồng thời cũng là con đường đi tới
phát triển. Mục tiêu của hoà bình mà mọi người hằng trông đợi, chắc chắn sẽ đạt
được nhờ việc thực thi công bằng xã hội trên bình diện quốc gia và quốc tế,
đồng thời cũng nhờ việc thực thi các nhân đức để khuyến khích “chung sống”.
Sự
quan tâm tích cực đến người nghèo phải được thể hiện ở mọi mức độ, bằng những
hành vi cụ thể để đạt được một số những cải cách cần thiết. Tuỳ theo từng hoàn
cảnh, người ta ấn định các cải cách cấp bách nhất, và những phương tiện để thực
hiện. Trên bình diện quốc tế, thông điệp Quan tâm đến vấn đề xã hội của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn mạnh đến những cải cách sau đây cần phải có:
- cải cách hệ thống thương mại quốc tế; - cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế; -
lưu tâm nhiều hơn đến việc trao đổi kiến thức kỹ thuật; - xét lại cơ cấu của
các tổ chức quốc tế hiện hữu (x. SRS, các số 41 - 45).
KẾT
LUẬN
Xây
dựng xã hội công bằng theo Học Thuyết Xã Hội Công Giáo không gì khác hơn là
nhìn nhận, tôn trọng và thăng hoa phẩm giá của con người, bởi vì “Con người là
con đường của Giáo Hội” (x. RH, số 14).
Mục
đích chung của tất cả chúng ta là con người, khát vọng chung của chúng ta là
mong muốn điều tốt nhất cho mỗi con người và mọi con người trong xã hội Việt
Nam hôm nay. Tôi tin rằng định hướng này của chúng ta là thật. Và đây là một cơ
may cho tất cả chúng ta để mở ra với viễn tượng hợp tác và phát triển bền vững
ở hiện tại và trong tương lai.
Vấn
đề đặt ra có thể là sự khác biệt giữa chúng ta trong cách nhìn về con người.
Quan niệm rõ ràng và toàn vẹn về con người là hình ảnh Thiên Chúa theo kitô
giáo làm biến đổi mọi khía cạnh của đời sống cá nhân và xã hội của con người.
Và đó là động lực giúp chúng tôi dấn thân phục vụ con người trong xã hội qua
việc đối thoại với nền văn hoá và xã hội Việt Nam hôm nay.
Đối
thoại là tên gọi mới của niềm hy vọng. Chúng tôi xác tín rằng chỉ có đối thoại
mới mở đường cho con người, cho xã hội, cho đất nước, cho Giáo hội hướng tới
một tương lai tươi sáng hơn, công bằng hơn. Chúng tôi đặt nền tảng của đối
thoại trên tình yêu và chân lý: tình thương dành cho con người và sự thật về
con người toàn vẹn. Đó là niền hy vọng của chúng tôi.
Niềm
hy vọng của chúng tôi cũng là niềm hy vọng muốn chia sẻ với tất cả những người
thiện chí muốn góp phần xây dựng xã hội công bằng hơn và văn minh hơn. Niềm hy
vọng đó thúc đẩy chúng tôi đối thoại và hợp tác cùng với mọi người nhằm tìm ra
hướng đi đúng đắn cho xã hội và đồng hành với mọi người để xây dựng xã hội.
Để
đối thoại chúng ta cần lắng nghe nhau. Chúng tôi xin cám ơn vì ý nghĩa của việc
xây dựng xã hội công bằng theo Học Thuyết Xã Hội Công Giáo được lắng nghe trong
Hội thảo này.
Gm. BÙI VĂN ĐỌC
NHỮNG CHỮ
VIẾT TẮT
CA : Centesimus
Annus
Thông
điệp “Năm thứ 100” của ĐGH Gioan Phaolô II
GLHTCG : Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
GS : Gaudium
et Spes
Hiến chế về mục vụ “Vui mừng và hy vọng” của Công đồng Vatican II
LE :
Laborem exercens
Thông điệp “Lao động của con người” của ĐGH Gioan Phaolô II
QR :
Quadragesimo Anno
Thông điệp “Tứ thập niên” của ĐGH Piô XI
RH :
Redemptor Hominis
Thông điệp “Đấng Cứu Chuộc con người” của ĐGH Gioan Phaolô II
RN : Rerum
Novarum
Thông điệp “Tân sự” của ĐGH Leo XIII
SRS : Sollicitudo
rei socialis
Thông điệp “Quan tâm đến vấn đề xã hội” của ĐGH Gioan Phaolô II
TĐ/TCLTY : Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” của ĐGH
Bênêđíctô XVI
TYHTXHCG :Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội Công Giáo