THÔNG ĐIỆP CỦA ĐGH BIỂN ĐỨC XVI,
và VẬN MỆNH CỦA DÂN NƯỚC VIỆT NAM
L.M.Cao Phương Kỷ
Ngày 30/ Tháng 11 / 2007 vừa qua, ĐGH BIỂN ĐỨC XVI( BÊNÊDITÔ
XVI,,theo kiểu phiên âm Việt hóa của các L.M.Dòng Thánh Bênedictus ở V.N),
đã công bố Thông Điệp thứ 2, “SPE SALVI”: “ TRONG HY VỌNG CHÚNG TA ĐÃ ĐƯỢC CỨU ĐỘ”: Sauvés dans l’Espérance, In Hope we
were saved;( Coi: Thơ của Thánh Phao
Lô (ROM 8:24). Đây là căn tính của
các Tín hữu Thiên Chúa Giáo: tin tưởng mỗi người có một Tương Lai huy hòang, nghĩa là chung
cuộc, “kiếp sống chúng ta không rơi vào cõi“Hư Vô’(coi: số 2, trong Thông Điệp)
Theo
Niên Lịch Phụng Vụ của Hội Thánh, hằng
năm, bốn tuần trước Lễ Chúa Giáng Sinh, đặt tên là “MÙA VỌNG”, tức mùa mong đợi
Chúa Cứu Thế đến giáng lâm nơi trần gian, để cứu nhân độ thế. Cũng theo Giáo
Lý: Chúa Cứu Thế giáng lâm hai thời kỳ: lần thứ nhất, Chúa đã Giáng Thế làm
Người, nơi hang Bê lem, để chuộc tội cho nhân lọai; nhưng lần thứ hai, chúng ta TIN và HY VỌNG Chúa sẽ lại đến trong
Vinh Quang, Ngày Thế Mạt, Ngày Phán Xét Chung, để thưởng kẻ lành, và
phạt kẻ dữ.
( Lưu
ý: các biểu tượng về “Hy Vọng”
gồm có: hình TRIỀU THIÊN(wreath), một Vòng Tròn
kết bằng lá xanh và bốn cây nến), chỉ thời gian tuần hòan, di dịch; hình chiếc NEO (anchor) để giữ cho tàu
thuyền khỏi lênh bênh trôi giạt; và chiếc CẦU VỒNG, bảy sắc(rainbow, bow), ám
chỉ chấm dứt cơn mưa bão, “Đại hồng thủy”(coi: Sách Kinh Thánh:Gen.Noah,
9:12-14)
CHỦ ĐỀ
và NỘI DUNG bức Thông Điệp đã được hai
vị Hồng Y: Georges Cottier, và Albert
Vanhoye giới thiệu trong cuộc họp báo. Ngòai ấn bản tiếng Pháp dài 83
trang, còn các ấn bản bằng tiếng Latin, Ý, Đức, Tây ban nha, Bồ đào nha, và
Balan.
Thông
Điệp dài 19.000 chữ, chia ra hai Phần và 50 Đọan( có đánh Số từ 1-50).
Phần Dẫn
Nhập, gồm những đề tài để thảo
luận như:
-Tương
Quan giữa ĐỨC TIN và HY VỌNG(2-3)
-Tân Ước
và Hội Thánh thời kỳ sơ khai dạy về Nhân
Đức CẬY, tức niềm Hy vọng dựa trên Đức TIN(4-9)
-Đời
Sống TRƯỜNG SINH, VĨNH CỬU là
gì?(10-12)
-Bác bỏ
quan niệm cho rằng:niềm Hy Vọng KyTô Giáo có tính chất cá nhân chủ nghĩa(13-15)
-Sự
biến đổi của niềm TIN-CẬY trong thời cận đại:
Những
lợi ích và những ẢO VỌNG, sai lầm của Tiến bộ Khoa Học Kỹ thuật, của thuyết “Ánh sáng”và thuyết “Mác xít.(16-23)
-Chân
Dung Chính Thật của Niềm HY VỌNG THIÊN
CHÚA GIÁO(24-31)
Phần
Hai: những “Hòan Cảnh” hay những Phương thế giúp ta học tập và thực hành đức CẬY , như:- Cầu Nguyện(32-34);
Họat Động và chịu Đau Khổ(35-40); Phán Xét Chung của Chúa Cứu Thế khi Giáng Lâm
lần thứ Hai; Thiên Đàng, Luyện Tội, Hỏa ngục(41-48)
Phần Kết Luận, ĐTC dâng lời cầu nguyện lên
Đức Me MARIA, là Ngôi SAO BIỂN, niềm CẬY TRÔNG của Nhân lọai(49-50)
Trong bài tiểu luận dưới đây, chỉ xin giới hạn vào việc giải thích và quảng diễn một cách rõ
ràng, những triết thuyết và luận chứng, để giúp độc giả dễ thưởng thức những tư
tưởng uyên thâm của Vị Giáo Hòang thông
suốt về các trào lưu Thần học,
Triết lý thời cổ, cũng như thời hiện đại,
đặc biệt trong những Đọan đánh số từ 16 đến 23:
“Phê
Phán về Thuyết Mác Xít, và những di hại của chủ thuyết này đối với thế giới, và
đang còn tác hại trên dân tộc Việt Nam”.
(Quí độc
giả nên tìm đọc chính nguyên bản của Thông Điệp, bằng tiếng Pháp, Anh hay
Việt..sau khi đọc bản bình luận này, để thưởng thức đầy đủ tư tưởng quảng bác,và
tài luận lý của ĐGH.)
Đọc qua
Thông Điệp, ta có thể cảm thông được mối ƯU
TƯ của ĐGH khi Ngài viết những Đọạn(16-23) về “DI HẠI của thuyết Mác Xít”, đặc
biệt đối với Dân Nước Việt Nam,
khi Ngài nêu Danh tánh của hai vị Anh Hùng Việt Nam, là Thánh Paulô LÊ BẢO TỊNH và ĐHY
NGUYỄN VĂN THUẬN làm DẪN CHỨNG,
và NHÂN CHỨNG cho niềm HY VỌNG chân chính.( Coi: Số 32,34, và nguyên số 37)
Vì sự ưu
ái, và mối quan tâm của Đức Giáo Hòang, khi viết bức Thông Điệp , đặc biệt đối
với hiện tình bi thảm thiếu TỰ DO của Hội Thánh và Dân Nước Việt ngày nay, nhất
là trong những ngày gần đây:(ngày 18/ 12/2007, Kỉ Niệm Ngày dâng Giáo Hội và Tổ Quốc Việt Nam cho Trái Tim Đức Mẹ, năm 1960)
“GIÁO HỮU HÀ NỘI RƯỚC TƯỢNG MẸ SẦU BI(PIETA)
ĐẶT TRƯỚC TÒA KHÂM SỨ TÒA THÁNH, đã bị chiếm đóng từ nửa thế kỉ “Và ĐÊM
LỄ CHÚA GIÁNG SINH, LẠI DỰNG THÊM CÂY THÁNH GIÁ, “
Xin bình
luận về hai điểm:I/ Những Sai lầm của
thuyết Vật Chất Vô Thần Mácxít và những Di hại cho thế giới; II/ Nhị Vị Anh Hùng làm Chứng nhân cho niềm Hy
vọng Chân chính về Tương Lai của Thế giới và Dân Tộc Việt Nam.
I.NHỮNG SAI LẦM CỦA THUYẾT MÁCXÍT, và NHỮNG DI
HẠI CHO
THẾ GIỚI cũng như CHO DÂN NƯỚC VIỆT NAM
Theo các nhà bình luận và thông thạo tin tức về
Tòa Thánh Vatican, như: nhà báo John L.Allen,
Jesus Colina, Isabelle de Gaulmyn.., đặc biệt, ĐHY Cottier, trong buổi giới thiệu Thông Điệp đã nhận định rằng:
Trong Văn kiện này, ĐGH đã lấy lại một chủ để rất quen thuộc của Ngài khi diễn
giảng về GiáoThuyết của Hội Thánh: đó là mối Tương Quan liên hệ giữa ĐỨC
TIN và LÝ TRÍ. Thật vậy, Đức Tin và Lý Trí cần hỗ trợ nhau, không mâu
thuẫn với nhau. Đức Tin hay Tôn Giáo mà không có Lý trí, tức Lẽ Phải, sẽ trở
nên chủ nghĩa cuồng tín quá khích bạo động; nhưng Lý trí, tức Khoa học, Triết
học..mà không có Đức TIN soi dẫn, định hướng, sẽ dẫn đến phá họai, và Tuyệt
Vọng. Do đó, nếu không TIN có THIÊN CHÚA, thì các thuyết về Cách Mạng,
Mácxít, không thể xây dựng một Trật Tự Xã Hội dựa trên TỰ DO, CÔNG LÝ được.
Trước
khi là Vị Lãnh Đạo Tối Cao trong Hội Thánh Công Giáo, ĐGH đã là một Vị Giáo Sư
danh tiếng tại quê huơng miền Nam Đức
Quốc. ( quê hương của Karl Max(Các Mác,
1818-1883) sinh tại Trèves, cũng thuộc miền Nam Đức), Do đó, Ngài đã am hiểu các trào lưu Triết lý
cận đại (hầu hết là người đồng hương, Đức
Quốc) như: Kant, Engels..Các Mác,
và các thuyết Cách mạng xã hội của Âu châu, Mỹ châu..Chính vì chức Giáo Sư
giảng dạy trong 20 năm tại các Trường Đại Học Bonn, Munster, Tubingen,
Ratisbonne..tại Tây Đức, rồi làm Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý, Đức Tin hơn 20
năm, nên Ngài đã phải nghiên cứu và phi bác những học thuyết sai lầm làm hủy
họai Tự
Do, Nhân Phẩm. Do đó, các độc giả, đặc biệt các vị nguyên thủ quốc gia(
như Tổng Thống Đức), các chính khách
thế giới, khối Ảrập(Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ)..đều
khâm phục kiến thức uyên bác, và luận chứng hùng hồn, trong các tác phẩm, các
bài diễn thuyết(Đại học Regenburg )và
trong bức Thông Điệp của Ngài( Thiên Chúa
là Tình Thương”Deus Caritas est”)
1-Niềm Hy Vọng chân chính là gi?
Xin tóat yếu
mấy điểm quan trọng ĐGH đã trình bày trong Thông Điệp: Niềm Hy Vọng (hay Nhân Đức
Trông Cậy) trong Thiên Chúa Giáo, là sự mong đợi một cuộc “GẶP GỠ” với Đấng sinh thành ra mình,
chính là THIÊN CHÚA Hằng Sống. Vì
Hy Vọng là gì? Mong đợi cái gì cao quí nhất đời?- Chính là Hy Vọng tiến tới
sự hiểu biết Chúa Chân Thật, thì mới
có thể thỏa lòng ước mong(coi số 3).
ĐGH cũng giải nghĩa: Chúa Cứu Thế không đến trần gian để loan truyền một “sứ mạng cách mạng xã hội”, vì Chúa”không phải là chiến sĩ để giài phóng về
chính trị”. Nhưng Chúa mang đến cho nhân lọai”sự gặp gỡ, hợp mặt với Thiên Chúa Hằng Sống, và như vậy là cuộc gặp
gỡ với một niềm Hy Vọng mạnh mẽ hơn những đau khỏ của kiếp nô lệ, và nhờ đó,
niềm Hy
Vọng làm biến đổi từ nội tâm bên trong đời sống và thế giới(coi số
4). Chúa Cứu Thế dạy chúng ta: thật sự,
con người là ai, và con người phải làm gì để thành con người chân thật.
Chúa Cứu Thế là”ĐẠO”, và ĐẠO này là CHÂN LÝ(coi số 6).
Bởi đó,
theo ĐGH trình bày, Hy Vọng không phải là
mong đợi một cái gì, nhưng là
mong chờ “AI “(Quelqu ‘Un). Hy vọng không đặt nền
tảng trên cái gì phù du, nay còn mai mất, nhưng nơi Thiên Chúa đã tự hiến cho
chúng ta luôn mãi.(coi số 8). ĐGH viết tiếp: cuộc khủng hỏang hiện thời về
Đức TIN,
chính là cuộc khủng hỏang về Đức CẬY, về Niềm Hy Vọng Kitô Giáo.(coi số 17)
2-Những
ẢO VỌNG của thời Hiện Đại.
ĐGH đã bàn rộng về những Ảo Vọng của thời cận
đại, tưởng chừng có thể thay thế niềm Hy Vọng chân chính, nhưng đã phát sinh
những thất vọng, di hai, đổ vỡ cho Nhân lọai. Tai hại lớn lao nhất là
thuyết MácXít, đã “quên con Người”, và bỏ qua”Tự Do
của con Người”. TỰ DO luôn là Tự
Do, mặc dầu có thể làm điều Ác. Mác Xít đã sai lầm lớn, vì cho rằng: một khi kinh tế được chỉnh đốn, thì mọi sự
được giải quyết ổn thỏa….SAI LẦM lớn của thuyết Duy Vật là: con Người không phải chỉ là sản phẩm của
những điều kiện kinh tế, và không thể chữa lành con Người chỉ từ bên ngòai,
nghĩa là tạo ra những hòan cảnh, điều kiện kinh tế thuận lợi(coi: số 20-21). Nhưng hiển nhiên, con
Người còn ước vọng hơn việc “no cơm ấm áo”!
Ngòai
ra, ĐGH cũng phi bác một Ảo Vọng khác: niềm
tin mù quang vào sự Tiến Bộ,
nghĩa là Nhân lọai sẽ được cứu độ nhờ Khoa Học. Dĩ nhiên, nhờ những phát minh của Khoa Học, kỹ thuật, thế giới và
con Người được nâng cao đời sống..Nhưng Khoa học cũng có thể phá hủy con Người
và trái đất, nếu nó không được định hướng bởi những thế lực ở ngòai nó. Không
phải Khoa học ‘cứu độ” con Người. Nhưng con Người được Cứu Chuộc bởi TÌNH
THƯƠNG(coi:24-26)
3-Thời
kì Khoa Học và những Phát minh mới. (coi:số 16-17)
Vào thế kỉ 16, 17, với những cuộc Mạo Hiểm khám phá ra Mỹ Châu, và những phát minh tân tiến do những Thí
Nghiệm, Kỹ Thuật của KHOA HỌC, và Phương Pháp
nghiên cứu, nhà triết học người Anh là Francis
BACON(1561-1626), đã viết những tác phẩm bàn về những triển vọng của Khoa Học giúp nhân lọai thống trị được Thiên Nhiên này. Theo Kinh Thánh, trước
khi con người phạm tội chống lại Thiên Chúa, thì con người đã được Chúa cho làm
chủ Trái Đất. Nhưng vì phạm tội, nên mất quyền đó. Nay nhờ Khoa Học và Thực Hành(Science et Pratique, Science and Praxis),
con người có thể phục hồi lại khả năng đã mất.
Quan
niệm về thế giới như trên, đã đảo ngược lại niềm Tin Thiên Chúa Giáo về “Hồng
Ân Cứu Rỗi,(Cứu Chuộc(Salvation)
của Chúa Cứu Thế. Hậu quả là: Muốn được”Cứu
Chuộc”, không cần tin vào Chúa Cứu
Thế , nhưng là ở mối tương quan vừa mới phát hiện được giữa Khoa Học và
Thực Hành. Đức Tin vẫn còn tồn tại, nhưng bị đẩy lui vào phạm vi riêng tư, cá nhân,và vượt ra ngòai trái đất ta đang sống,
trở thành vô nghĩa cho đới sống Nhân Lọai. Đây chính là cuộc Khủng hỏang về Đức
Tin và niềm Hy Vọng của các Tín hữu. Niềm
HY VỌNG của Nhân Lọai mặc một hình thức mới: nhờ TIẾN BỘ của Khoa Học và
Thực Hành, nhân Lọai lập nên một vương quốc mới:”Vương Quốc của con Người”
ở trần gian này.
4-Tiến Bộ(progress) nhờ Lý Trí và Tự Do(coi:số18,19)
“Vương
Quốc Trần Gian” còn nhờ những ý lực thúc
đẩy một cách mạnh mẽ: Lý Trí và Tự Do(Raison et Liberté,
Reason and Freedom) . Hai ý tưởng này mang tính chất “Chính trị”, vì chúng nhằm cổ đổng việc lật đổ những chế độ chính
trị đương thời, để con người được hưởng hòan tòan Tự Do. Vì Lý Trí và Tự Do, tự nó là một điều thiện
hảo nội tại, nên có thể bảo đảm cho một cộng đồng nhân lọai hoàn hảo. Hai ý lực
Lý
Trí và Tự Do, một cách ẩn tàng luôn chống lại với các mối quan hệ với Đức Tin và Hội Thánh, cũng như chống lại
các cơ chế của các quốc gia thời đó. Hai ý niệm này mang theo một tiềm năng cách mạng, có sức
bùng nổ dữ dội.
Thật vậy, cuộc CÁCH
MẠNG PHÁP, năm 1789, đã thể hiện về mặt chính trị, quyền thống trị của Lý Trí và Tự Do. Trào lưu triết lý Khải
Minh(Illuminisme, Enlightenment) khởi đầu được phấn khởi về biến cố chính trị mới này,
nhưng về sau cũng phải xét lại quan niệm Lý Trí, và Tự Do. Nhà triết lý Emmanuel Kant(1724-1804 ), năm1792, đã ca tụng thời
đại của Lý Trí và Tự Do, và thành công của Cách Mạng Pháp. Ông cho rằng: Các
cuộc cách mạng giúp tăng tốc độ để chuyển dịch từ thời kì Đức Tin của Hội Thánh
sang niềm tin vào Lý trí. Nhưng về
sau, năm1795, Ông đã thất vọng, và nói ngược lại về niềm tin vào Lý Trí, trong
cuốn sách:”Sự Cáo Chung của mọi sự”(
Das Ende aller Dinge, la Fin de toutes les choses). Ông viết: một” Vương
Quốc của Thiên Chúa”, được lập
ra lại thiếu vắng Thiên Chúa, tức là “vương
quốc của con người”, thì chung cuộc, về mặt Luân Lý là “xáo trộn”, đồi tệ của mọi sự.
5-Phê bình về ý niệm:TIẾN BỘ(coi số 22), ĐGH đã
viết, đại ý như sau: trong thế kỉ 19, người ta ca tụng Tiến Bộ, nhưng đến thế
kỉ 20, Ông Theodor W.Adorno đã hòai nghi, thất vọng về “niềm tin vào Tiến Bộ”,
ông nói: Tiến Bộ, nhìn gần, cách cẩn thận, sẽ thấy Tiến bộ đi từ cái ná tới bom
nguyên tử. Nghĩa là một khía
cạnh của Tiến Bộ không được phép che đậy, giấu giếm: Tiến Bộ có “lưỡng tính”,
hai mặt. Nó có khả năng cung ứng những điều Tốt, nhưng cũng mở ra
những vực thẳm của Tội Ác, những tai hại chưa từng có. Tiến Bộ nằm trong tầm tay của kẻ dữ, sẽ là Tiến Bộ làm điều Ác. Do
đo, ĐGH kết luận: Tiến Bộ về Khoa Học Kỹ thuật mà không tương xứng với việc đào
luyện về Luân Lý, Lương tâm, từ nội tâm của con người,(coi: Ep 3,16; 2Co
4,16) thì không còn là Tiến Bộ nữa, nhưng là mối đe dọa cho con
Người và thế giới.
6-Phê phán về “Lý Trí và Tự Do”, ĐGH viết: Quả Thật, Lý Trí là một Hồng Ân của Thiên Chúa ban
cho Nhân Lọai, và sự thắng thế của Lý Trí trên những gì là phi lý, cũng là mục
đích của niềm Tin KiTô Giáo. Những ở đây, cần phải định nghĩa cho rõ ràng hơn. Lý trí và Tự Do của con người, có được phép
phủ nhận Thiên Chúa không?Lý Trí(hay Lý Lẽ, Lý Do) của khả năng và Lý Trí của thực hành , nhưng nguyên Lý trí
đó đã tòan vẹn, đầy đủ chưa? Muốn
được gọi là Tiến Bộ thật, thì Tiến Bộ
phải cần có sự trưởng thành về Luân Lý nữa; do đó, cũng một cách tương tự, và khẩn
thiết, Lý Trí của khả năng và Lý Trí của thực hành, nhờ sự cởi mở
của nó, Lý Trí cần phải hội nhập trọn vẹn
vào những tiềm lực cứu độ của Đức Tin nữa, và biết phân biệt điều Thiện, điều Ác. Được
như vậy, thì Lý Trí mới thật sự là của
con Người, khi nó hướng dẫn đường đi cho
Ý Chí của con Người, và nó chỉ có thể làm được điều đó, khi nó nhìn xa hơn
chính nó. Trái lại, nếu nó gây nên sự bất
quân bình, chênh lệch giữa khả năng
về Vật chất, và sự thiếu phán đóan của con Tim, thì đó là một đe dọa cho
con người và thế giới.
Sự Tự Do của con người
phải liên hệ đến các thứ Tự Do khác, cùng có chung một tiêu chuẩn nội tại, làm nền tảng và mục đích của TỰ DO.
Nói một cách đơn giản:con người cần đến Thiên Chúa, nếu
không, sẽ trở thành VÔ VỌNG. Nói tóm lại: Lý Trí và Đức Tin cần nhau, để hiện
thực được bản tính và sứ mệnh của mình.
7-Những SAI LẦM của thuyết Mácxít.(coi: số 20-21)
Thế kỉ 19 đặt tin tưởng
vào Tiến Bộ như một niềm Tin mới, và coi “Lý Trí và Tự Do như những vì sao soi
dẩn trên đường tìm Hy Vọng cho thế giới.
Những phát minh về Kỹ thuật và công việc kỹ nghệ hóa đã tạo nên một tình trạng
xã hội mới: một giai cấp thợ thuyền,
tức “giai cấp vô sản”xuất hiện. Triết gia Friedrich Engels(1820-1895), năm 1845, đã mô tả tình trạng khốn khổ
của giới “vô sản kĩ nghệ”.Cần phải lật đổ cơ cấu xã hội quan liêu, tư
bản. Sau Cách Mạng lật đổ quí tộc, năm1789, thì đến Cách Mạng vô sản. Theo Karl
Max(Các Mác), bạn cộng sự viên với Engels, cấn phải nhảy vọt để thiết
lập một hướng lịch sử mới về “cứu độ”.
ĐGH phê bình phương
pháp phân tích tình trạng xã hội thời bấy giờ của Các Mác có phần đúng, mặc dầu
chứa chất nhiều thành kiến, một chiều, và thiếu quân bình, (như sẽ đề cập sau
). Các Mác đã hiểu nguyện vọng của xã hội Âu Châu sau Cách Mạng quí tộc. Nhưng
thay vì xây dựng một”Vương Quốc Thiên
Chúa” như Kant đề nghị, CácMác đảo
ngược lại tất cả. Mọi Chân Lý chỉ có ở trần gian này mà thôi.
Không cần bàn luận về Thế giới “bên kia”, nhưng chỉ lo đến trái Đất
này,
ở đây, không cần Khoa Thần học, mà cần khoa Chính trị học. Muốn Tiến
Bộ thật sự, thì chỉ nguyên Khoa Học không thể ban cho, nhưng cần Chính Trị, một
Tư tưởng Chính trị theo phương pháp khoa học, nghĩa là phân tích cơ cấu diễn
biến của Lịch sử và của Xã hội, để tiến đến Cách Mạng. Năm 1848, Các Mác đã ra bản Tuyên Ngôn về chủ nghĩa Cộng sản(Manifeste
du Communiste) trong đó đảng Cộng sản
giữ vai trò nòng cốt, chủ động. Cách Mạng đã thành công ở Nga, do
Lénine lãnh đạo
Ngay sau cách mạng lật đổ Nga hòang, Lénin đã nhận thức được: trong sách của ông thầy Các Mác không thấy đề cập đến vấn đề phải
tiến hành ra làm sao. Ông giả thiết rằng: một khi tước đọat tài sản của giai
cấp thống trị, chiếm chính quyền, và xã hội hóa các phương tiện sản xuất, thì
một“Thành Thánh Jerusalem mới”(tức
thiên đàng Cs) sẽ xuất hiện: mọi mâu
thuẫn sẽ tan biến, con người và thế giới sẽ nhận thấy rõ về chính mình. Mọi sự
sẽ tự nó tiến triển trên con đường chính trực, vì mọi sự thuộc về mọi người, và
mọi người đều ước muốn điều tốt nhất cho nhau.
Ông Các Mác, cũng
viết: “thời kì trung gian chuyển tiếp” do “độc tài vô sản” lãnh đạo là cần thiết. Nhưng qua giai đọan hai, thì
thật sự nó là dư thừa. Nhưng mọi
người chúng ta đã quá biết nó diễn biến ra sao. Nó không làm cho thế giới thêm
lành mạnh, nhưng để lại một sự tàn phá thật tang thương, tiều tụy. Các Mác
chẳng những thiếu sót không đề cập đến những cơ chế cần thiết cho thế giới mới-
có thể người ta sẽ không cần. Ông không nói gì hết, bởi vì đó là hệ quả của lý
luận(sai lầm) của công việc ông đã thực hiện. Ông đã SAI LẦM trầm trọng. Ông đã quên rằng: con Người luôn vẫn là con
Người. Ông đã quên con Người và TỰ DO của con Người. Ông quên rằng:
TỰ DO luôn luôn là TỰ DO, dầu hướng chiều về điều Ác.Ông tin rằng: kinh tế có
thể thu xếp ổn thỏa cho mọi sự. Nhưng SAI TRÁI chính của ông là:chủ thuyết VẬT
CHẤT(VÔ THẦN). Thật vậy, con Người không chỉ là sản phẩm của điều kiện, hòan cảnh kinh tế tạo nên, do đó, không thể
chữ lành con Người duy nhất chỉ từ phía
bên ngòai, nghĩa là tạo ra những hòan cảnh kinh tế thuận lợi.
8. Những “Lời Tiên Đóan” của ĐGH đã viết về những DI HẠI của Thuyết
Mácxít đối với Dân Nước Việt ngày nay,
thì rất đúng .
Các thế hệ trên dưới
50 tuổi, vẫn còn nhớ những kỉ niệm bi thảm cho thế giới, đặc biệt cho Tổ Quốc
Việt Nam do thuyết Mác xít lạc hậu, phi nhân gây ra. Nó đang trên đà tan rã,
dầu lừa bịp, xảo trá về tuyên truyền,
bưng bít. Nó đi đến đâu cũng bị xua đuổi, ghê sợ; trên bản đồ thế giới, chỉ còn sót hai dân tộc
sống trong ách gông cùm của thuyết MácLê là Trung Hoa và Việt Nam.
(Xin
lưu ý: Những nước nghèo nhất tại Phi
châu. Á châu..cũng đều ghê sợ mồi dụ dỗ ngon ngọt của Cs; Nước Pháp, trong cuộc
bầu cử gần đây cho thấy: đảng Cs chỉ còn tỉ lệ 0.9% phiếu bầu; tại Hoa kỳ,
trong cuộc vận động tranh cử Tổng thống sắp tới, các ứng cử viên đều lên án
những nước độc tài, không tôn trọng Nhân quyền; và dân chúng Mỹ đang tẩy chay
hàng triệu các đồ chơi do Trung cộng chế tạo, pha nhiều chất nhiễm độc, vì
thiếu lương thiện nghề nghiệp. Ngòai ra, hãy so sánh sự khác biệt về Kinh té,
về Dân Chủ giũa các Nước như: Bác Hàn-Nam Hàn; Trung Cộng-Đài Loan; Tây
Đức-Đông Đức: Bắc Việt- Nam Việt.. Nước Nga ngay nay giầu có hơn thời cộn
sản,và nhiều tỷ phú.)
Tại Việt Nam, Cs đã lợi dụng
lòng yêu nước của tòan dân Việt chống xâm lăng, để cướp chính quyền, sau khi đã tiêu diệt các nhà ái quốc bất đồng
chính kiến với thuyết Mác xít cộng sản.
Sau Ngày 30 Tháng Tư Năm 1975,
Cs đã phản bội các thỏa ước về đình chiến, xua quân chiếm Việt Nam Cộng Hòa, người dân
miền Nam đã chứng kiến cảnh hỗn độn kinh hòang chưa từng có trong Lịch Sử của
Dân Tộc. Các cán bộ đảng Cs ĐÃ KHÔNG KHÔNG BIẾT PHẢI LÀM GÌ để xây dựng lại đất nước-( đúng như
lời ĐGH đã nói về Lênin của Nga sô). Cộng quân chỉ biết trả thù: bắt đi
tù, trại cải tạo, biệt giam, các chiến sĩ, các phần tử trí thức, chuyên môn.
Chỉ sau một thời gian ngắn, tòan dân rơi vào cảnh đói khổ cùng cực. Các kế
họach về Kinh tế theo thuyết “Mác
–Mao-Hồ”, đều thất bại. Ngày nay, Cs xoay chiều ra”Kinh Tế Thị truờng”của thế
giới TỰ DO, nhưng vẫn chưa dứt khóat với thuyết Mác xít sai lầm. Do đó, các
Quyền TỰ DO, NHÂN PHẨM, không được tôn trọng. Giấc mơ ước một”thiên đàng trần gian”, hòan tòan là Ảo
Vọng, không bao giờ đến được. Trong thời gian “chuyển tiếp”, đảng Cs
trở thành độc tài, độc đảng về chính trị và nắm hết quyền lợi về kinh tế,
tạo ra giai cấp mới:”tư bản đỏ”. THAM
NHŨNG vô độ.
Theo ĐGH, sai lầm lớn nhất của thuyết Mác xít là: VÔ THẦN, VÔ TIN NGƯỠNG, vì Tự Do Tôn Tôn Giáo là căn nguyên của mọi
Quyền TỰ DO khác của con người. Trong những ngày vừa qua, tại Thủ đô HÀ
NỘI, thế giới đã chứng kiến sức mạnh tinh thần
và lòng dũng cảm, yêu chuộng HÒA BÌNH, CÔNG LÝ của các Tín Hữu Hà Thành,
cương quyết bảo vệ ĐỨC TIN và NHÂN QUYỀN, DÂN QUYỀN.
Nói tóm lại, nhờ Niềm TIN TÔN GIÁO, nhờ “Mến Chúa Yêu Người”, xã hội mới
được lành mạnh về tinh thần, giúp tiêu diệt các tội ác vì tính ích kỷ của con
người. Nhờ lòng Bác Ái, người dân mới tích cực tham gia công cuộc giáo dục, mở
mang kiến thức, khoa học, kinh tế để nước giầu dân mạnh. Thật đáng tiếc, thuyết
Cs vật chất,vô thần đã hủy diệt động lực quan trọng nhất để thăng
hóa con người và xã hội.
II. THEO GƯƠNG NHÂN CHỨNG: THÁNH PHAO LÔ TINH và ĐHY THUẬN
Vì Hy Vọng là lẽ sống của con Người, nên ĐGH BIỂN ĐỨC XVI, đã
đề cập đến bốn” Trường Sở” để tập luyện
nhân đức này.
Trường Huấn luyện Một: CẦU
NGUYỆN là gì?- Thưa: là con
người “thưa chuyện” với Thiên Chúa là
“CHA chúng ta”, về mọi vấn đề vui
buồn trong cuộc sống. “Nếu ta cô đơn lẻ loi, bị giam cầm trong phòng kín, “biệt giam”, thì ta vẩn còn có thể thưa
chuyện với Chúa là Đấng sinh thành ra mình(Coi:số 32).
ĐGH đã lấy kinh nghiệm sống của Đức
Cố HY Nguyễn Văn Thuận làm Chứng Nhân:
Ngài đã chỉ còn nuôi HY VỌNG bằng
cách cầu nguyện với Chúa, suốt trong 13 năm cầm tù, trong 9 năm “biệt giam”.
Dầu đau khổ cô đơn, bị hành hạ, ngài không tuyệt vọng, nhưng luôn than vãn với
Chúa để được an ủi, bền tâm vững chí. Ngài đã ghi lại những lời cầu nguyện, tha
thiết với Chúa trong tập sách nhỏ nhưng quí giá: “Những Lời Cầu Nguyện của Niềm HY
VỌNG”) Khi ra khỏi tù, Ngài đã là CHỨNG NHÂN anh dũng của niềm Hy Vọng
cho thế giới. Ngài cũng đã giảng thuyết cho Giáo Triểu Roma, về những kinh
nghiệm sống về “Nhân Đức Trông Cậy nơi Chúa”.
Chú ý: các Sách của ĐHY N.V.Thuận:”Đường Hy Vọng” và các bản dịch ra
Tiếng Anh, Pháp, Ý Đức, Tây Ban Nha..và sách”Chứng Nhân Hy Vọng”,các bài Giảng Tĩnh Tâm, có bán tại Tủ Sách
Regina (417)358.3740).
Đức Cố HY, Nguyễn
Văn Thuận đã dùng những phương thế cầu nguyện thông thường như: đọc thuộc lòng
các Kinh dọn sẵn trong Sách Kinh,
hoặc
” Các Kinh Phụng Vụ”(Prìeres de la
Liturgie). Nhờ cầu nguyện, thưa chuyện với Chúa là Đấng Thánh Thiện vô
cùng, nên tâm hồn ta được thanh tẩy, thanh luyện “cải tà qui chánh”, tự trong thâm tâm con người. Nhờ
cầu nguyện cùng Chúa, ta tăng thêm lòng Nhân Ái để phục vụ tha nhân. Cầu nguyện cho phần phúc đời đời cho riêng
mình, nhưng cũng tham gia việc truyền giáo để cứu đời.(Coi số 32-34)
Trường Huấn Luyện Hai: HÀNH
ĐỘNG. Ý nghĩa chính thực của nhân đức “Hy Vọng” của Kitô Giáo là hành động
tích cực để đem niềm Hy Vọng cho tha nhân,
giúp cho thế giới không bao giờ “tuyệt
vọng”, nhưng luôn mở tâm hồn hướng về THIÊN
CHÚA, luôn cậy trông vào Tình Yêu của Chúa ( Số 35)
Trường Huấn Luyện Ba:ĐAU KHỔ.
Mọi người, vô thần hay các tín hữu, đều cảm
nghiệm một sự thật hiển nhiên: trần gian
này chưa phải là nơi”Vĩnh Phúc”, vì còn chịu nhiều thứ đau khổ. Con
người cần phải chiến đấu, hết khả năng
mình, để làm giảm thiểu một phần nào
những đau khổ về thể xác cũng như tinh thần. Đó là điều mà các Tôn Giáo chân
chính vẫn làm. Nhưng không được chạy trốn trước những đau khổ, như“lửa thử vàng, gian nan thử Đức”,
nhẫn nại chịu đựng sẽ giúp ta rèn luyện tâm tính, để trưởng thành trong phấn đấu, vì chính những đau khổ có sức mạnh “chữa
lành” con người trở nên thiện tòan, nhất là khi kết hiệp với Chúa KYTÔ chịu Chết trên Thánh Gía, vì Tinh Yêu Thương Vô Hạn để chuộc tội cho nhân
lọai.(Coi số 36-39)
ĐGH BIỂN ĐỨC XVI, đã
nêu Gương Sáng của Thánh PHAO LÔ LÊ BẢO TỊNH( tử đạo, 1857) làm CHỨNG
NHÂN( martyr: nghĩa là Chứng
nhân).Khi bị bắt giam trong tù ngục, Thánh Phao Lô Tịnh đã viết một bức thư
bằng tiếng Latinh gửi cho các chủng sinh vì Ngài là Giám đốc Chủng Viện Vĩnh
Trị, năm 1843 . Bản văn thời danh này được ĐGH trích nguyên văn đã được Bộ
Phụng Tự của Hội Thánh chính thức in trong Sách Kinh”Phụng Vụ các Giờ Kinh”(The Liturgy of the Hours) để các Linh mục
tòan thế giới đọc Kinh Nguyện. (Chú ý:
vì là Sách Kinh chính thức của Hội Thánh, nên Bức Thư của Thánh Tịnh đã được
dịch ra các tiếng trên thế giới) Xin trích một
đọan để dẫn chứng:(Coi” Phụng Vụ
các Giờ Kinh, ngày Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bài đọc II)
“ Tôi, Phao Lô, đang bị xiềng xích vì danh Chúa KYTÔ, xin tường
thuật nhữg gian lao khốn khổ tôi đang phải chịu, nhưng với mục đích là thêm
lòng yêu mến, anh em(chủng sinh) sẽ cùng với tôi ca ngợi Thiên Chúa, vì muôn đời Chúa vẫn là Đấng từ bi nhân hậu.
Lao tù này quả thật là hình ảnh sống động của hỏa ngục đời đời. Ngòai xiềng
xích gông cùm, còng chân tay, còn có giận dữ, óan thù, nguyền rủa, tục tĩu, bậy
bạ, chửi thề, nói hành và sau đó là chán nản, buồn sầu…Nhưng Đấng hồi xưa đã
cứu thóat ba thiếu niên trong lửa hỏa hồng, vẫn ở bên tôi, cứu thóat tôi khỏi
những tai họa nói trên, và biến đổi tất cả thành êm dịu ngọt ngào, vì muôn đời
Chúa vẫn là Đấng Từ Bi Nhân Hậu…(coi: Launay A.,“Le clerge’ tonkinois et ses
prêtres martyrs, M.E.P, Paris 1925, trang 80-83)
Trường Huấn Luyện Bốn: NGÀY CHÚA PHÁN XÉT CHUNG.
ĐGH viết: CÔNG LÝ vẫn tồn tại. Sự sống lại của Thân Xác là sự thật.(Coi số 33) Do
đó, Ngày Phán Xét Chung Thẩm là Ngày Hy Vọng, để Chúa thưởng kẻ Lành và phạt kẻ
Dữ.
Niềm Hy Vọng không
có tính
chất cá nhân, ích kỉ.” Không ai sống một mình. Không ai phạm tội một
mình. Không ai được cữu rỗi một mình. Nhưng luôn có ảnh hưởng hỗ tương: đời sống của tha nhân xâm nhập vào nếp sống của tôi: đối với những điều
tôi nghĩ tưởng, nói, làm, thực hiện. Và ngược lại, cách sống của tôi cũng
xâm nhập vào lối sống của người thân cận: điều Tốt cũng như điều Xấu. Do đó,
làm sao tôi có thể “tự độ, tự cứu được? Tôi phải làm gì để tha nhân cũng được
cữu rỗi? Làm sao để mọi người cũng được Ngôi Sao Hy Vọng chiếu soi, dẫn
đường? Giúp tha nhân được cữu rỗi, chính là cách tốt nhất để cứu lấy bản thân
mình( coi só 38)
ĐỂ KẾT LUẬN, ĐGH BIỂN ĐỨC XVI, đã
dâng lời Cầu Nguyện lên Mẹ MARIA, là “NGÔI SAO BIỂN”chiếu sáng và dẫn đường cho chúng ta đang vượt biển dương thế đầy sóng gió,
bão táp, HY VỌNG sẽ cập Bến Hạnh
Phúc muôn đời(số 49-50)
(Kỉ Niệm, ngày Lễ
Dâng Hội Thánh và Nước Việt Nam cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, năm 2007, ngày
18/ tháng 12)