Đào tạo linh mục tại Việt
I. LƯỢC SỬ:
1/ 1954-1975: Thời kỳ chiến tranh
– 1954: Biến cố
di cư, hầu hết hàng giáo phẩm từ Bắc vào
– 1960: Thành
lập hàng giáo phẩm. Việc đào tạo linh mục tại các Đại Chủng Viện được các cha
thừa sai trao lại cho hàng giáo phẩm Việt
a) Miền Bắc
– ĐCV Hà Nội: năm 1954
các cha Xuân Bích Di cư vào Nam à Đại Chủng Viện Hà Nội trở thành Tiểu Chủng
Viện Hà Nội do cha Phạm Đình Tụng là giám đốc.
– ĐCV Vinh: vẫn tiếp
tục đào tạo linh mục, dù khó khăn và nhiều giới hạn.
b) Miền Nam
– Hầu hết các địa phận
đều có Tiểu Chủng Viện.
– Thống nhất các ĐCV di
cư từ Bắc vào
– ĐCV Huế – ĐCV Sài gòn
– Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt – ĐCV Vĩnh Long – ĐCV Tôma…
2/ 1975-1986: Việt
– Trên nguyên tắc, hầu
hết các ĐCV và TCV đều ngưng hoạt động.
– Nhưng các giáo phận
vẫn tìm cách đào tạo: những lớp dự tu, những lớp thần học phân tán mỏng…
– Các ĐCV cũng cố tìm
cách sinh hoạt: học và lao động
3/ 1986-2007: Thời kỳ ổn định với 6 Đại
Chủng Viện
– 1986-1990: Nhà Nước chính thức
chấp nhận 6 ĐCV: lúc đầu 6 năm chiêu sinh một lần, sau đó 2 năm chiêu sinh một
lần. Số chiêu sinh bị giới hạn, tùy theo địa phương
– 1990-2007: Cứ 2 năm được
chiêu sinh một lần, số chiêu sinh vẫn giới hạn.
1. ĐCV Hà Nội
2. ĐCV Vinh Thanh
3. ĐCV Huế
4. ĐCV Nha Trang
5. ĐCV Tp.HCM
6. ĐCV Cần Thơ
– Sau năm 2004: Lớp bổ túc được
tổ chức tại ĐCV Nha Trang để hợp thức hóa những chủng sinh đã cao tuổi đã được
đào tạo “âm thầm” trong nhiều năm trước đó tại các giáo phận. Có 2 khóa bổ túc
đã được tổ chức cho hơn 140 chủng sinh cao tuổi.
3/ 2007- đến nay: Thời kỳ phát triển
– 2007: ĐCV Xuân Lộc, cơ
sở II của ĐCV Thánh Giuse Sàigòn được thành lập
– Mỗi năm các ĐCV được
chiêu sinh một lần, và số chiêu sinh “thoải mái” hơn.
II. NHẬN ĐỊNH:
1/ Ý thức tầm quan trọng “đào tạo linh
mục” và “tổ chức Chủng Viện”:
GHVN
qua các Giám Mục đã luôn ý thức “việc đào tạo linh mục” là vô cùng quan trọng.
Nên trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, vẫn luôn tìm cách duy trì việc đào
tạo.
Theo hướng dẫn của CĐ Vatican II, việc
đào tạo linh mục luôn đi đôi với việc tổ chức Chủng Viện (x. OT 1): cụ thể là
cơ sở và sinh hoạt của Chủng Viện luôn được các giám mục và cộng đoàn dân Chúa
quan tâm một cách đặc biệt.
2/ Những sáng kiến của mỗi giáo phận và
liên đới giữa các ĐCV:
Mỗi
giáo phận với sự quan tâm của Giám Mục, tùy theo hoàn cảnh địa phương, đã luôn
có những sáng kiến rất linh động, để duy trì công việc đào tạo linh mục: những
lớp “dự tu đào tạo âm thầm”, những “lớp thần học” di động và theo nhóm nhỏ tại
các giáo xứ…
Các cuộc họp các ĐCV để chia sẻ kinh
nghiệm và đào sâu những hướng dẫn của Giáo Hội về việc đào tạo linh mục.
Liên đới, chia sẻ các giáo sư giữa các
ĐCV
3/ Một số giới hạn
– Nhân sự (các nhà đào
tạo và giáo sư): từ năm 1975 đến 1993, 18 năm đóng cửa, không có đào tạo thêm
các giáo sư… Các cha giáo sư lớn tuổi dần dần qua đi. Năm 1993, một số cha trẻ
được chấp nhận cho đi du học tại
– Bản thân chủng sinh: là lớp trẻ được
đào tạo trong nền văn hóa Xã Hội Chủ Nghĩa nói riêng và trong nền văn hóa tục
hóa nói chung. Những chọn lựa và suy nghĩ theo những tiêu chuẩn của trần thế
hơn là theo tiêu chuẩn phúc âm. Ví dụ: hai tiêu chuẩn hàng đầu để chọn lựa là
lợi nhuận và hường thụ. Điều gì có lợi, có tiền là làm, bất chấp những tiêu
chuẩn đạo đức (hàng giả, bằng giả, thuốc giả…). Tiếp đến, luôn đòi hưởng thụ,
tiện nghi, tránh tối đa những vất vả, hy sinh… Vì thế chỉ trong thời gian 6, 7
năm tại Chủng Viện, rất khó uốn nắn một con người đã hình thành trong bầu khí
tục hóa đã hơn 20 năm.
– Cơ sở: những cơ sở đào tạo xuống cấp
và thiếu thốn… Hiện đang có chương trình tôn tạo và xây cất thêm.
– Thư viện, sách vở: giới hạn… Các ĐCV
đang cố gắng xây dựng và bổ túc. Hiện nay nhờ có Internet và phương tiện truyền
thông, có thể tham khảo được những văn kiện và tài liệu thời sự…
III. ĐỀ XUẤT CHO TƯƠNG LAI:
1/ Đường hướng đào tạo linh mục thống
nhất:
Từ năm 2005, tình hình
đã khá cởi mở… Các ĐCV dưới sự hướng dẫn cụ thể của Đức Cha Chủ Tịch Ủy Ban
Giáo Sĩ và Chủng sinh đã bắt đầu soạn thảo Tài Liệu Hướng Dẫn Về Đào Tạo Linh
Mục tại Việt Nam (Ratio Institutionis Sacerdotalis). Bản dự thảo đã trình cho
HĐGM vào tháng 10/2007 tại Hà Nội. Đây là Ratio đầu tiên của Việt
2/ “Đào tạo toàn diện”
Đây là đường hướng lớn
trong việc đào tạo linh mục tương lai tại Việt
a) Đào tạo linh mục bao gồm cả 3 thời kỳ
– Trước Chủng Viện:
thời kỳ dự tu
– Tại Chủng Viện: thời
kỳ đào tạo tập trung
– Sau Chủng Viện:
thường huấn
c) Về nội dung, việc đào tạo linh mục
bao gồm
– Đào tạo “động lực”
hay ý ngay lành
– Đào tạo những khả
năng thích hợp với đời sống linh mục dưới 4 chiều kích: nhân bản, thiêng liêng,
tri thức và mục vụ.
b) Công việc đào tạo linh mục là của
toàn thể Dân Chúa. Dưới sự hướng dẫn của Giám Mục, các thành phần Dân Chúa
(linh mục, tu sĩ, giáo dân) sẽ phối hợp chặt chẽ với Ban Mục Vụ Ơn Gọi (dự tu),
Ban đào tạo tại Chủng Viện (chủng sinh), Ban Thường huấn của Giáo phận (linh
mục)
3/ Những điều cần thiết phải lưu ý:
Để đáp ứng việc đào tạo
toàn vẹn bao gồm cả 3 giai đoạn (trước, tại và sau Chủng Viện), cần lưu ý những
điểm quan trọng sau:
a) Đào tạo nhân sự: đào tạo thêm cho đủ
các giáo sư và nhà đào tạo cho cả 3 thời kỳ đào tạo. Đồng thời có chương trình
bồi dưỡng, tu nghiệp cho các giáo sư và các nhà đào tạo.
b) Xây dựng cơ sở để có những điều kiện
cần thiết cho việc đào tạo của cả 3 thời kỳ.
c) Lưu ý đến những tác động luôn thay
đổi đến từ môi trường văn hóa, xã hội hôm nay luôn tác động đến việc đào tạo,
đến người đào tạo và người được đào tạo.
UB Giáo sĩ-Chủng sinh / HĐGMVN