Vai trò của người giáo dân trong Giáo
Hội Việt
WHĐ (16.11.2010) – Trong khuôn khổ Năm
Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam –kỷ niệm 350 năm thành lập hai giáo phận Tông
tòa Đàng Ngoài và Đàng Trong và kỷ niệm 50 năm thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt
Nam–, tiếp theo Bài viết ”Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt Nam 50
năm qua” của Ủy ban Thánh nhạc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt
Nam, Trang tin điện tử HĐGMVN xin giới thiệu bài viết của Ủy ban Giáo dân trực
thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam: ”Vai trò của người giáo dân trong Giáo
Hội Việt Nam 50 năm qua”.
Bài này sẽ được giới thiệu trong 2 kỳ.
***
Giáo hội Công giáo được hình thành vào
ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, “rào rào như thể do cuồng
phong thổi đến”, dưới hình “những lưỡi như thể là lửa”,[1] với các tông đồ được
tràn đầy Thánh Thần, trên nền tảng của lòng tin mạnh mẽ vào ơn cứu độ Đức Giêsu
Kitô đã thực hiện qua cái chết và sống lại của Người. Dưới sự thúc đẩy của
Thánh Thần trong việc loan báo Tin mừng cứu độ của Đức Kitô là Con và là Đấng
mạc khải Thiên Chúa, Giáo hội ấy đã phát triển ra ngoài thế giới của Do Thái
giáo để đến với muôn dân.
Theo Niên giám Hội đồng Giám mục Việt
Nam năm 2005, cũng chính Giáo hội ấy đã được loan báo, được thiết
lập tại Việt Nam, liên tục từ đầu thế kỷ thứ XVI qua các thời kỳ đã không ngừng
lớn lên: (1) khai sinh 1533-1659; (2) hình thành 1659-1802; (3) thử thách
1802-1888; (4) phát triển 1888-1960; và (5) trưởng thành 1960 đến nay. Vào năm
1960, Giáo hội ấy đã được Tòa thánh nhìn nhận là một giáo hội trưởng thành qua
việc thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, chấm dứt thời kỳ hơn ba trăm năm là
giáo hội tại một xứ truyền giáo với hàng giáo phẩm tông tòa.
Do hoàn cảnh của lịch sử truyền giáo tại
Việt
Hội Các Thày Giảng, một tổ chức do Cha
Alexandre de Rhodes thiết lập vào năm 1630, quy tụ những người giáo dân nhiệt
thành để được đào tạo kỹ lưỡng về mặt giáo lý, nhằm có thể sát cánh với các
thừa sai trong công cuộc truyền giáo. Rồi Dòng Mến Thánh Giá đầu tiên do Đức
giám mục Pierre Lambert de la Motte, Đại diện tông tòa giáo phận Đàng Trong và
Giám quản tông tòa giáo phận Đàng Ngoài, thành lập vào các năm 1670-1671, cũng
cho thấy rằng người giáo dân đã có những đóng góp đặc biệt trong việc thiết lập
và phát triển Giáo hội tại Việt Nam.
Trong tổng số 117 vị được phong thánh tử
đạo Việt Nam năm 1988, những người đã đổ máu và hy sinh mạng sống để góp phần
xây dựng nền móng của Giáo hội tại Việt Nam, đã có đến 44 vị là giáo dân, và 13
vị là thày giảng. Thêm vào đó, Thày giảng Anrê Phú Yên, tử đạo ngày 26 tháng 7 năm
1644, cũng đã được phong chân phước.
Do đó, việc thiết lập Hàng Giáo phẩm
Việt Nam vào năm 1960 có thể được xem là một xác nhận sự trưởng thành của Giáo
hội Công giáo Việt Nam; và như thế, cũng là xác nhận vai trò của người giáo dân
trong tiến trình lịch sử của đạo Công giáo, góp phần rất tích cực để đưa Giáo
hội Công giáo Việt Nam đạt tới bước trưởng thành này.
Và Năm thánh kỷ niệm 50 năm việc thành
lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam vào năm 2010 tới đây sẽ là dịp, theo cách nói của Đề
cương Giáo hội tại Việt Nam: Mầu nhiệm – Hiệp thông – Sứ vụ, “là
thời điểm của ân sủng”,[3] để Giáo hội nhắm đến những bước phát triển mới qua
việc canh tân, củng cố niềm tin vào Thiên Chúa, nỗ lực làm tỏa sáng hình ảnh
Nước Trời và sống trọn vẹn căn tính đích thực của các môn đệ Đức Kitô.
Đây hẳn cũng sẽ là “thời điểm của ân
sủng” đối với người giáo dân trong Giáo hội Công giáo Việt
1. mọi người cùng nhau xem lại bước
đường 50 năm qua;[4]
2. dưới ánh sáng của Tin mừng và giáo
huấn của Giáo hội, của các chủ chăn về vai trò của người giáo dân, nhận ra
những điểm được và chưa được;[5] và
3. từ đó có những quyết tâm mới giúp nối
tiếp ngọn lửa đã được thắp lên nơi cha ông, đồng thời thực hiện “ơn gọi riêng”
của người giáo dân trong việc cùng với các thành phần khác của dân Chúa “làm
tỏa sáng hình ảnh Nước Trời” hơn nữa ở Việt Nam và trong thế giới.[6]
Thật vậy, Tông huấn Kitô hữu giáo dân
(Christifideles laici), ban hành năm 1987, cũng khẳng định:
Suốt thời gian nghiên cứu, Thượng hội đồng luôn
luôn đề cập đến Công đồng Vaticanô II, vì các giáo huấn của Công đồng về vai
trò giáo dân, mặc dù đã sau hai chục năm vẫn luôn hợp thời một cách lạ lùng,
mang dấu chỉ của lời tiên tri: Một giáo huấn như thế có thể soi sáng và hướng
dẫn để giải đáp vấn đề mới của thời đại hôm nay.[7]
Nếu canh tân trong Giáo hội có nghĩa là
trở về nguồn của mạc khải, như Công đồng chung Vaticanô II đã khẳng định và kêu
gọi, thì điều ích lợi và cần thiết đối với chúng ta là bắt đầu ở đây với việc
nhìn lại giáo huấn của Giáo hội vốn diễn tả cách cô đọng qua mạc khải của chính
Thiên Chúa về vai trò của các thành phần khác nhau thuộc dân Chúa và về mối
quan hệ giữa các thành phần này trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua
Đức Kitô và Giáo hội của Người. Chính đó sẽ là chỗ dựa vững chắc cho việc nhìn
lại vai trò của người giáo dân trong Giáo hội, rồi mới đưa ra những nhận định,
và tiếp đến sẽ là những đề xuất cụ thể cho các vị trí hoạt động tông đồ của
người giáo dân trong Giáo hội và trong xã hội.
Mà thật vậy, dân Chúa bao gồm các tín
hữu vốn là những người, nhờ bí tích thánh tẩy, được hiệp thông với Đức Kitô, và
do đó, tham dự, theo cách thế riêng, vào chức vụ tư tế, sứ ngôn và vương giả
của Người.[8] Cũng do sự thiết lập của Thiên Chúa, giữa các tín hữu trong Giáo
hội, có các thừa tác viên có chức thánh, theo luật, được gọi là giáo sĩ và các
tín hữu khác được gọi là giáo dân.[9] Các tín hữu, giáo sĩ và giáo dân, theo
điều kiện và ơn gọi riêng của mỗi người, cùng được kêu gọi thực hành sứ mệnh
Thiên Chúa đã giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế giới, trong sự bình đẳng
về phẩm giá và hoạt động.[10]
Giáo sĩ và giáo dân đều là thành viên của dân Chúa với ơn gọi chung
là nên thánh. Ơn gọi riêng của giáo dân là tìm kiếm Nước Thiên Chúa, làm thấm
nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Tin mừng, làm cho mọi người
khắp thế giới biết đến và đón nhận sứ điệp cứu rỗi của Thiên Chúa.[11]
Người giáo dân thực hiện ơn gọi riêng
của mình bằng cách sống trong trần thế, làm thấm nhập tinh thần Tin mừng vào
mọi hành động của mình, để xếp đặt các việc trần thế theo thánh ý của Thiên
Chúa. Mà Giáo hội được Thiên Chúa thiết lập, cũng luôn có nhiệm vụ do Thiên
Chúa giao phó là chu toàn việc bổn phận hằng ngày sao cho tinh thần Tin mừng
được thấm nhập vào thế giới mỗi ngày một hơn.
Tất cả cần được thực hiện trong sự bình
đẳng và tôn trọng ơn gọi riêng của mỗi người. Bình đẳng vì cùng “được tái sinh
trong Đức Kitô”. Ơn gọi riêng vì được Thiên Chúa đặt để trong những hoàn cảnh,
điều kiện sống riêng để khắp nơi trên thế giới đều được nghe Tin mừng cứu rỗi
và mọi người mọi nơi đều có thể lên tiếng ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa là Đấng
tạo dựng và cứu chuộc.[12]
Giáo hội Công giáo được thiết lập tại
Việt
Giáo hội không thuộc thế gian nhưng
không tách khỏi thế gian. Năm mươi năm qua của Giáo hội là những năm tháng hồng
ân Chúa ban nhưng cũng là những năm tháng “không yên tĩnh” của cả dân tộc.
Lịch sử Việt Nam trong 50 năm này có thể
được xem là đã lần lượt trải qua ba thời kỳ lớn: (1) thời kỳ phân chia hai miền
Nam Bắc (1954-1975), (2) thời kỳ thống nhất Nam Bắc và xây dựng chế độ xã
hội xã hội chủ nghĩa trên cả nước (1975-1986), và (3) thời kỳ của một nước Việt
Nam chọn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1986 đến
nay). Trong đó, Giáo hội Công giáo thường xuyên bị đặt trước nhiều vấn đề đòi
hỏi Giáo hội phải “luôn tỉnh thức” để có thể thực thi nhiệm vụ Thiên Chúa giao
phó trong sự trung tín với Lời của Chúa.
1/ Thời kỳ phân chia hai miền
Khi Tòa thánh thành lập Hàng Giáo phẩm
Việt Nam vào năm 1960, Giáo hội Công giáo Việt Nam đang sống trong một đất nước
bị chia cắt thành hai phần Nam Bắc, theo hai chế độ chính trị khác nhau, nếu
không nói là đối nghịch nhau: một nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và một nước
Việt Nam cộng hòa. Cuộc chiến tranh kéo dài và ác liệt trên cả hai miền Nam Bắc
càng làm cho sự chia cắt này thêm gay gắt. Do đó, sự khác biệt cũng hiện rõ
trong sinh hoạt của Giáo hội tại hai miền và đặc biệt qua việc thực thi vai trò
của người giáo dân trong Giáo hội và trong xã hội.
a. Giáo hội tại miền Bắc
Hiệp định Genève chia đôi đất nước ngày
20 tháng 7 năm 1954, đã gây nên một thay đổi lớn trong tổ chức của Giáo hội
Công giáo Việt Nam.
Thi hành quyền tự do chọn nơi cư trú
được quy định trong hiệp định, một lượng rất đông những người Công giáo sống
tại miền Bắc, trong đó có nhiều giáo sĩ,[13] lo sợ cho niềm tin tôn giáo của
mình bị ảnh hưởng cách bất thuận lợi do phải sống dưới chế độ do Đảng cộng sản
lãnh đạo, đã chọn con đường di cư vào miền Nam. Do bởi một số đông giáo sĩ di
tản, miền Bắc thiếu hẳn những hoạt động cần thiết của các vị mục tử, làm ảnh
hưởng đến sự hướng dẫn và giáo dục đoàn chiên về mặt đức tin; hơn nữa, hoàn
cảnh xã hội chính trị xem ra không thuận lợi cho việc phát triển niềm tin Kitô
giáo.
Một trong những hậu quả của sự việc trên
là: Giáo hội tại miền Bắc lâm vào tình trạng thiếu giáo sĩ một cách trầm trọng.
Cụ thể là Tổng giáo phận Hà Nội:
Sau năm 1954, nước Việt
Tình hình ở một số giáo phận khác ở miền
Bắc còn khó khăn nhiều mặt, điển hình như: Phát Diệm, Bùi Chu, Thái Bình, Hải
Phòng, Bắc Ninh, không có giám mục. Mỗi giáo phận chỉ còn lại từ 10 đến 20 linh
mục, phần nhiều là các vị đã già yếu; nhưng nhìn chung, người giáo dân vẫn can
đảm giữ vững niềm tin của mình. Các giáo phận không có giáo sư, thiếu chủng
sinh để kế tiếp ơn gọi linh mục, dẫn đến tình trạng thiếu giáo sĩ trầm trọng và
kéo dài. Đến năm 1955, Tổng giáo phận Hà Nội mở chủng viện, được một thời gian
ngắn, nhằm bổ sung cho số linh mục đã già yếu, bệnh hoạn, và vì hoàn cảnh mà xa
rời nhiệm sở.
Ngoài ra, sinh hoạt công khai của Giáo
hội bị hạn chế tới mức tối đa và bị đóng khung trong khuôn viên nhà thờ, sinh
hoạt hội đoàn trong giáo xứ hay giáo phận do đó cũng bị hạn chế. Quan hệ giữa
Giáo hội Việt
Trong bối cảnh trên, cuộc sống đạo của
người giáo dân chủ yếu chỉ còn là những cuộc tập họp tại nhà thờ để dâng thánh
lễ (nếu may mắn có linh mục tới được), cử hành các “á phụng vụ”, nghe đọc sách
đạo đức, hay tổ chức rước kiệu, dâng hoa, ngắm mười lăm sự thương khó. Nói
chung, đó là những việc đạo đức đã được vun đắp từ xa xưa và mang nặng “tính
cách giáo dân” vì không có giáo sĩ vẫn có thể được cử hành cách “trọng thể và
sốt sắng”. Các việc đạo đức này có thể đã đáp ứng được ít nhiều lòng đạo của
phần đông tín hữu sống ở nông thôn miền Bắc. Đối với nhiều người trong số các
tín hữu này, đó còn là cách thức để thể hiện lòng gắn bó của họ đối với Giáo
hội, với Đạo.
Thế đấy, đức tin đơn giản, phụng vụ đơn
giản, nhưng trong suốt thời gian khó khăn ấy, anh chị em miền Bắc vẫn kiên trì
bám trụ quanh ngọn đèn chầu chẳng bao giờ tắt. Thật đáng phục hình ảnh của một
cụ trùm họ mỗi tuần đạp xe hàng chục cây số để cung nghinh Mình Thánh Chúa về
cho cộng đoàn rước lễ sáng Chúa nhật và duy trì ngọn đèn chầu cho cộng đoàn
kinh hạt sáng chiều.
Lòng gắn bó với Giáo hội, sự quyết tâm
giữ đạo này cũng đã thúc đẩy đông đảo anh chị em giáo dân, theo gót của các vị
tử đạo Việt Nam, đã kiên trì, bất chấp mọi khó khăn, bắt bớ, tù đày để gắn bó
với công việc của Giáo hội, như tổ chức sinh hoạt trong giáo xứ, duy trì các
buổi đọc kinh cầu nguyện của cộng đoàn, dạy kinh bổn, làm việc truyền giáo….
Qua sự gắn bó nhiệt tình này, niềm tin vào Tin mừng của Đức Giêsu Kitô, vào ơn
cứu độ của Người, vẫn được duy trì và phát triển trên một phần lãnh thổ rất
quan trọng này của đất nước Việt
Tuy nhiên, chỉ các việc đạo đức đó không
mà thôi thì không thể góp phần tích cực vào việc giúp người giáo dân phát triển
đức tin của mình và thể hiện vai trò của mình trong xã hội. Người giáo dân cần
có dịp thuận lợi và phương tiện thích ứng để đào sâu giáo lý, cần có cơ hội
được nâng đỡ đầy đủ để có thể cảm thấy dễ dàng hơn trong việc vượt thắng các
khó khăn đặt ra cho lòng tin của họ trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Không ít
người, đặc biệt tại các nơi thành thị, đã lơ là với cách sống đạo và cử hành
việc đạo mà họ cho là không còn thích hợp. Và từ đó, đã đi tới chỗ lơ là với
chính Giáo hội, với chính niềm tin Kitô giáo của mình.
b. Giáo hội tại miền
Khác với tình hình trên đây của miền
Bắc, Giáo hội tại miền
Giáo hội có những điều kiện để phát
triển cách bình thường, rất tự nhiên: một hàng ngũ giáo sĩ người Việt đông đảo,
đa dạng và tăng trưởng không ngừng, các dòng tu cũng phát triển mạnh, các tu sĩ
tham gia hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Người giáo dân có nhiều cơ
hội để thực hiện vai trò của mình trong mối tương quan thích đáng với hàng giáo
sĩ và tu sĩ; họ có nhiều cơ hội thuận lợi để thể hiện những đặc trưng đoàn sủng
của mình. Một trong những thuận lợi dành cho quảng đại quần chúng giáo dân là
việc giáo dục tôn giáo và văn hóa. Các hội đoàn được hình thành, được thiết lập
chính thức, hoạt động hầu như khắp nơi, quy tụ giáo dân theo tuổi tác, nghề
nghiệp.
Năm 1956, bốn năm trước khi diễn ra sự
kiện trọng đại là việc thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, Tòa thánh đã phê
chuẩn và cho thi hành bản Hiến chương Công giáo tiến hành Việt Nam, một tổ chức
thúc đẩy người giáo dân Việt Nam thi hành ơn gọi riêng của mình trong Giáo hội
và trong xã hội.
Năm 1957, tổ chức đã có trụ sở riêng đặt
tại Sài Gòn với Trung tâm sinh hoạt đào tạo là biệt thự Thánh Tâm ở Đà Lạt. Có
thể nói, tổ chức này có đủ nhân sự cần thiết để thực hiện công việc điều hành,
huấn luyện, triển khai các dự án mục vụ.
Người giáo dân, ở mọi lứa tuổi, đều có
nhiều cơ hội để dấn thân phục vụ Giáo hội qua việc thường xuyên được mời gọi để
sinh hoạt trong các hội đoàn. Các hội đoàn này được chia ra làm hai loại: (1)
chuyên biệt, tức dành cho một giới tính, hạn tuổi, ngành nghề, môi trường hoạt
động nào đó; và (2) không chuyên biệt, chung cho mọi thành phần giáo dân.
Ngoài ra, Phong trào Công giáo tiến hành
còn bao gồm nhiều tổ chức chuyên biệt khác như: (1) Caritas Việt Nam để chăm lo
các việc bác ái xã hội; (2) Trung tâm ATAS (âm thanh và ánh sáng) đặc trách các
hoạt động truyền thanh, truyền hình, phim ảnh; (3) Ủy ban giáo dục đặc trách
các hoạt động giáo dục trong các trường tư thục Công giáo; (4) Ủy ban báo chí xuất
bản đặc trách các hoạt động truyền thông xã hội….
Mục tiêu của các hội đoàn Công giáo tiến
hành này rất đa dạng: đạo đức, giáo dục đức tin và nhân văn, làm việc tông đồ.
Thật vậy, các hội đoàn hoạt động để giúp người giáo dân, ở mỗi độ tuổi, sống
cuộc sống đạo đức, kết hiệp với Đức Kitô, chu toàn bổn phận đối với bản thân,
gia đình và xã hội. Hoạt động của các hội đoàn này giúp người giáo dân sống sứ
mạng tông đồ bằng nhiều cách thức khác nhau và theo những độ tuổi khác nhau, để
làm chứng cho Đức Kitô đang hiện diện giữa thế gian. Bằng những cách thức khác
nhau, nhưng các hội đoàn Công giáo tiến hành luôn có một ước muốn rất giống
nhau: được góp phần cùng với những người thiện chí xung quanh biến đổi trật tự
xã hội theo chiều hướng tiến tới một xã hội lành mạnh hơn, công bằng hơn, và
biết tôn trọng con người hơn.
Với tính cách cá nhân và đoàn thể, người
giáo dân ở miền
Được tiếp xúc rộng rãi với các trào lưu
tư tưởng, triết học, thần học, xã hội, chính trị trong và ngoài nước, nhất là
với tinh thần của Công đồng chung Vaticanô II diễn ra vào những năm đầu của
thập niên 60, một lớp không ít những giáo dân thức thời, biết ưu tư về những
vấn đề cấp bách của Giáo hội và của xã hội đã xuất hiện. Họ lập ra các diễn đàn
để phát biểu những suy nghĩ của mình về Giáo hội và về xã hội. Một số tờ báo,
tạp chí do một số giáo dân chủ trương, quy tụ giáo sĩ, giáo dân và cả những
người ngoài Giáo hội Công giáo để chia sẻ những suy nghĩ của mình về việc xây
dựng Giáo hội và xã hội.
Báo chí Công giáo từ sau Công đồng
Vaticanô II đã là một trong những họat động nổi bật nhất của cộng đồng Kitô hữu
miền Nam Việt
Báo chí Công giáo Việt Nam toát lên nỗ lực canh
tân của Giáo hội Việt Nam và đặc biệt nhất là sự khẳng định vài trò giáo dân
trong việc diễn tả đức tin trong cuộc sống xã hội. Văn học Công giáo Việt Nam
từ sau Công đồng Vatican II đã trở thành bức tranh sinh động phản ánh những
hoạt động, đời sống và đặc biệt là chân dung tinh thần của người tín hữu Công
giáo Việt Nam cuối thế kỷ XX.[15]
Trong tất cả các tờ báo nêu trên đây đều
có sự tham gia đông đảo của anh chị em giáo dân; có những tờ báo do chính những
người giáo dân trực tiếp sáng lập. Nói chung, họ cộng tác sát cánh với các linh
mục, các tu sĩ.
Ở đây, chúng ta cũng phải kể đến những
anh chị em giáo dân đã tích cực hành động trong các phong trào góp phần xây
dựng một Giáo hội dấn thân hơn vì người nghèo, sẵn sàng chia sẻ niềm vui, hy
vọng và cả những khắc khoải lo âu của thế giới và con người nói chung; họ thực
sự muốn góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, công bằng, một nền kinh tế
không tạo những hố sâu quá lớn giữa người giàu và người nghèo, một đất nước
Việt Nam hòa bình nói riêng.
2/ Thời kỳ thống nhất đất nước
(1975-1986)
Năm 1975, chiến tranh chấm dứt trên cả
nước. Đức Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền đã lên tiếng thật rõ ràng:
Chiến tranh đã chấm dứt trên giáo phận Huế. Đó
là điều chúng ta mong ước và cầu nguyện từ ba mươi năm nay. Thời gian sống
trong hãi hùng, lo âu qua rồi…[16]
Và sự kiện lịch sử này cũng đã được hai
đức tổng giám mục: Nguyễn Văn Bình và Nguyễn Văn Thuận của Sài Gòn chào đón
trong tinh thần yêu chuộng hòa bình, một mối phúc của Tin mừng: các diễn biến
sau 1975 được kỳ vọng là khởi đầu cho một cuộc sống mới của quê hương không còn
bom đạn, hướng đến tương lai của người Kitô hữu với “niềm phấn khởi cao siêu,
thiêng liêng, bất diệt từ nơi Thiên Chúa mà đến” dẫu biết rằng không dễ gì mà
người Kitô hữu có thể chung sống, chung xây với xã hội thực tại ấy: “… mà vẫn
là Kitô hữu”.
Điều quan trọng là hướng về tương lai…. Đối với
người tín hữu, chúng ta còn có một niềm phấn khởi cao siêu, thiêng liêng, bất
diệt từ nơi Thiên Chúa mà đến. Niềm phấn khởi đó, Phụng vụ của mùa Phục sinh
luôn luôn nhắc lại trong những ngày này…[17]
Bước chân chúng tôi đã dứt khoát, nhưng vấn đề
căn bản vẫn tồn tại: làm sao chung sống với người cộng sản mà vẫn là Kitô hữu
và đem được phần đặc thù của mình vào trong công cuộc xây dựng này?[18]
Phải chăng chúng ta có thể hy vọng lời Thánh
vịnh (Tv 71,2-3) xưa sẽ ứng nghiệm cho hoàn cảnh chúng ta đang sống:
Quyền lợi kẻ nghèo sẽ
được bênh vực
Núi đem lại cảnh hòa
bình trăm họ,
Đồi rước về nền công lý
vạn dân,
Người bảo toàn quyền
lợi hàng lê thứ,
Ra tay cứu độ đám dân
nghèo,
Đập tan lũ cường hào ác
bá.[19]
Sự
thống nhất đất nước đã được tái lập. Dường như cả nước được hô hào phải tuyệt
đối một lòng, quyết tâm xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Người ta cũng
đọc được ý tưởng này trong Thư của Hội nghị giám mục hai giáo tỉnh Sài Gòn –
Huế. [20]
Nhưng rồi qua “Một chặng đường…”,[21]
nhiều nhân vật trong Giáo hội Việt
Để có Thư chung, không những phải có Công đồng,
mà Giáo Hội miền Nam đã làm quen và đã thấm nhuần không nhiều thì ít, nhưng
cũng phải có Thư chung của các giám mục hai giáo tỉnh Sài Gòn và Huế năm 1976,
những phát biểu, những thư mục vụ, những bài giảng dạy của nhiều vị chủ chăn,
cũng như những suy tư, tranh luận, bài viết và thực hành của nhiều nhóm, nhiều
tổ chức, nhiều người trong và ngoài Hội đồng Giám mục trước và sau Thư chung
1976.[22]
Thư chung năm 1980 của Hội đồng Giám mục Việt
Nam được công bố ngày 01 tháng 5 năm 1980 tại Hà Nội, đã vạch ra đường hướng rõ
rệt: sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào.
Anh em cũng hãy làm cho Chúa Giêsu Kitô hiện
diện thật sự giữa đoàn chiên, khi anh em phục vụ các tín hữu cách tận tâm và
khiêm tốn (LM 15). Nhất là được nhìn nhận như là người đại diện chính thức của
Hội Thánh tại địa phương, anh em hãy trở nên hình ảnh của Chúa Cứu Thế, vị Mục
Tử hiền lành và khiêm nhường, để cống hiến ơn cứu độ cho mọi người. Xin anh em
hãy cùng với chúng tôi đưa Hội Thánh ở Việt
Tuy nhiên, thực tế đã không tạo được một niềm
tin cần phải có để mọi người an tâm bước vào “vận hội mới” của đất nước. Không
ít anh chị em giáo dân tại miền Nam Việt
Thế rồi, nhờ có dịp trao đổi, chia sẻ
kinh nghiệm giữa giáo hội hai miền Nam Bắc, nhờ được hấp thụ tinh thần của Công
đồng chung Vaticanô II, nhờ chính tầng lớp giáo sĩ và giáo dân trong Giáo hội
Việt Nam vốn đã ý thức hơn về vai trò của người giáo dân trong xã hội… và nhờ
một số hoàn cảnh chính trị riêng biệt, người giáo dân nói chung cũng vẫn có thể
thực hiện vai trò của mình trong hoàn cảnh mới của đất nước. Chính trong thời
kỳ đất nước thống nhất này, Công đồng Vaticanô II có cơ hội thuận tiện để được
phổ biến rộng rãi hơn cho giáo dân miền Bắc:
Sau 1975, những thông tin tốt đẹp của Công đồng
Vaticanô II được phổ biến cho giáo dân miền Bắc trong các nhà thờ, các lớp giáo
lý. Sự đi lại dễ dàng hơn giữa hai miền Nam Bắc đã giúp giáo dân Việt
Thật ra, tuy sống trong hoàn cảnh không
nhiều thuận lợi, nhưng nhờ vào tác động của Chúa Thánh Thần, người giáo dân
miền Bắc trước đấy vẫn đã có những bước đi phù hợp với nội dung Công đồng
Vaticanô II: sống đức tin mạnh mẽ, trung thành với Giáo hội, sùng kính Đức
Maria cách đặc biệt.
Đối với giáo dân miền
… giống như Giáo hội ở miền Bắc ngay cả trước
khi biết đến Công đồng đã sống các lý tưởng của Công đồng, thì Giáo hội ở miền
Nam sau biến cố lịch sử 1975, với chút nhận thức rõ hơn về tinh thần Công đồng,
xem ra cũng đã nỗ lực khẳng định: người Kitô hữu không chỉ sẵn sàng chia sẻ số
phận vật chất, bấp bênh chung của dân tộc, mà còn cần sẵn sàng chia sẻ, thể
hiện tinh thần phục vụ, trở nên gần gũi với anh chị em đồng bào của mình hơn.
Bởi khi người Kitô hữu thực sự sống cuộc đời hành hương tiến về Nước Trời, họ
đang cùng với toàn thể Giáo hội làm biểu lộ rõ hơn khuôn mặt của Đức Kitô, vị
Thầy hiền lành, khiêm nhường, khó nghèo, và chịu đóng đinh.[25]
Thật vậy, mặc cho những khó khăn và thử
thách, người giáo dân vẫn tiếp tục sự hiện diện của mình với niềm tin Kitô giáo
trong nhiều lĩnh vực khác nhau: y tế, giáo dục, xưởng thợ, truyền thông,
và cả trong các lĩnh vực chuyên môn nghệ thuật.
Một số giáo dân họat động trong lĩnh vực
y tế tiếp tục có nhiều hoạt động trong những phạm vi xã hội khác nhau và góp
phần không nhỏ trong việc phục vụ con người.[26] Ngay từ những năm 1979, vốn là
những năm còn rất khó khăn về kinh tế cũng như về nhiều phương diện khác, người
giáo dân đã biết phối hợp tương đối thường xuyên với một số bác sĩ, y sĩ, nha
sĩ, nha công, dược sĩ, dược tá—đôi khi còn có sự tham gia của các nhóm giáo
viên Công giáo—để tổ chức thăm và khám bệnh cho các bệnh nhân trại phong, các
viện cô nhi, những người neo đơn và những người tàn tật; thực hiện phẫu thuật
mắt, phẫu thuật xương và giúp tập “vật lý trị liệu”; cung cấp thuốc miễn phí,
tổ chức những bữa ăn đặc biệt, sửa chữa những căn nhà bị hư hại cho các người
già yếu, nghèo đói.[27]
Vào những giai đoạn đầu của các công tác
xã hội này, khi chưa hình thành được một trung tâm nào ổn định, nhiều anh chị
em còn tình nguyện đến tận nhà người bệnh thăm khám và chăm sóc miễn phí. Sau
này nhiều trung tâm cũng như phòng khám được hình thành nhằm phục vụ các
đối tượng đặc biệt này. Ngoài việc khám bệnh và phát thuốc, họ còn chu đáo tổ
chức cung cấp một số phần ăn cho các bệnh nhân có hoàn cảnh kinh tế khó
khăn.
Một số anh chị em giáo dân lao động
khác, thuộc các đoàn thể giáo xứ tại các giáo phận,[28] hàng tuần vẫn quy tụ
nhau tìm những phương cách khả thi nhất để giúp những người nghèo trong vùng
quê có được một căn nhà lành lặn che nắng, che mưa. Họ tổ chức “nồi cháo bệnh
viện”, cắt tóc cho học sinh nghèo tại một số trường học, giúp đỡ người vướng
mắc phải “căn bệnh của thế kỷ” sớm được hòa nhập lại vào môi trường sống tự nhiên
của xã hội, hay được chăm sóc cách tận tình lúc căn bệnh trở nên nguy tử và rồi
được chôn cất cách tử tế khi qua đời.
Có thể nói, làm bác ái, từ thiện là hình
thức rất quen thuộc và phổ biến của người giáo dân để thể hiện vai trò làm
chứng cho Đức Giêsu Kitô giữa xã hội. Qua các việc bác ái từ thiện này, người
giáo dân đã có thể góp phần làm cho sống động hơn sự hiện diện của Chúa Giêsu
Kitô trong cuộc đời, Đấng cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, chữa lành kẻ bệnh
tật… và dạy các môn đệ của Người làm như thế để mọi người biết họ đích thực là
môn đệ của Người.
Thật vậy, đường hướng phục vụ trong Thư
chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt
3/ Thời kỳ từ “Đổi mới” đến nay (1986
đến ngày nay)
Nhờ những giáo huấn của Giáo hội giúp
người giáo dân biết chọn cách sống tốt hơn: sống đạo theo tinh thần Tin mừng
thay vì giữ đạo theo thói quen, giáo dân dấn thân nhiều hơn, biết chia sẻ trách
nhiệm với tu sĩ, giáo sĩ.[29]
Đại hội Liên hội đồng giám mục Á châu (Federation
of Asian Bishops’ Conference) (FABC) năm 2000 đã khích lệ việc phát
huy các tài năng và chuyên môn của giáo dân.
Đại hội Liên hội đồng giám mục Á châu (FABC)
năm 2000 tại Thái Lan đã nhắc lại một tư tưởng thường xuất hiện trong các văn
kiện thần học châu Á: phải phát huy những cơ cấu tham gia (participative
structures) trong Giáo hội, ngõ hầu các tài năng và chuyên môn của giáo dân
nam nữ có cơ hội được sử dụng đến. Có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong
Giáo hội và nhờ vào ân sủng các bí tích củng cố, giáo dân phải quyết tâm dấn
thân vào trong cuộc sống góp phần thực hiện sứ mệnh của Giáo hội, đem Tin mừng
của Đức Giêsu áp dụng vào trong các lãnh vực nghề nghiệp: chính trị, giáo dục,
y tế, phương tiện truyền thông và lao động.[30]
Trong hiện tại, đất nước Việt
Một số lượng không nhỏ anh chị em giáo
dân, tại nông thôn cũng như thành thị, đã tích cực đi theo chiều hướng đổi mới
và đã ít nhiều thành công trong lĩnh vực kinh tế. Tại thành phố Hồ Chí Minh,
nhiều anh chị em giáo dân trong số các anh chị em tương đối thành công trên
thương trường này, đã tập họp nhau lại thành nhóm doanh nhân Công giáo (giới
doanh nghiệp). Nhóm này tích cực gắn bó với Giáo hội qua các sinh họat tôn giáo
đều đặn, thực hiện các công cuộc bác ái từ thiện nơi này nơi khác, nhất là
trong môi trường sống và phạm vi làm việc hằng ngày của mình.
Tuy nhiên, cũng có một số anh chị em
giáo dân bị các thay đổi của thời cuộc đẩy vào trạng thái hoang mang về mặt tôn
giáo. Chẳng hạn, do nhu cầu cuộc sống và công ăn việc làm, không ít người giáo
dân ở các vùng sâu, vùng xa, những vùng nông thôn nghèo khổ… đã kéo về các
trung tâm đô thị. Đời sống đạo của những người giáo dân này chưa được ổn định,
giáo hội tại chỗ hầu như chưa có chương trình rõ ràng, cách thức hoặc biện pháp
thích hợp để phục vụ cho những anh chị em di dân, giúp họ thích nghi với môi
trường sống mới, và giúp họ thực thi vai trò người giáo dân tại nơi họ làm
việc, tại nơi họ cư trú. Bị thời cuộc đưa đẩy ra khỏi khung cảnh sống đạo đơn
giản và quen thuộc và bị ném vào một môi trường văn hóa hoàn toàn khác và xa
lạ, một số anh chị em di dân này dường như không còn chỗ dựa cần thiết để tiếp
tục cuộc sống đạo của mình.
Người giáo dân ngày nay vẫn đang phải
đối diện với những vấn đề của thời đại mình, những vấn đề mới được đặt ra trong
hầu hết mọi lĩnh vực. Tiếc rằng, ngoài một đức tin truyền thống nói chung rất
đáng quý của gia đình truyền lại, thì hành trang vào đời của một số anh chị em
này lại chỉ là những kiến thức tôn giáo đã được thiết lập từ một thời xa xưa.
Thật vậy, sự hội nhập của những anh chị em này với xã hội trong tư cách là Kitô
hữu chưa thực sự thích đáng; và các hoạt động phục vụ của Giáo hội cũng chưa
được cập nhật hóa cách kịp thời để giúp đỡ họ. Giáo hội cần đồng hành với họ
nhiều hơn… để giúp họ có thể tự tin hơn mà bước vào môi trường sống mới.
Sinh hoạt của Giáo hội vẫn còn không ít
những hạn chế: linh mục vẫn chưa tới được một số vùng, như ở cao nguyên, dù chỉ
là để cử hành thánh lễ cho các tín hữu thuộc các dân tộc ít người. Tại đây,
người điều khiển cuộc sống đạo của cộng đoàn vẫn là một “giáo phu” ( yao phu),
được giáo dân đưa lên vì tư cách đạo đức và uy tín của người này. Vị giáo phu
sắm vai nhà lãnh đạo tinh thần của giáo xứ.
–––––––––––––––––––––––––––
[1] Cv 2,1-3.
[2] Hai thầy giảng là
Gioan Huệ và Bênêđictô Hiền được truyền chức linh mục tại Siam năm 1668. Tháng
giêng năm 1670, bảy tân linh mục người Việt được phong chức lần đầu tiên trên
đất Đàng Ngoài (x. Nguyễn Hữu Trọng, Les origines du Clergé Vietnamien [Buổi
đầu của hàng giáo sĩ người Việt] Tinh Việt: Sàigòn, 1959, trg. 188-190).
Đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng là người Việt Nam đầu tiên được tấn
phong giám mục (1933).
[3] X. Hội đồng Giám
mục Việt Nam, Đề cương Giáo hội tại Việt Nam: Mầu nhiệm – Hiệp thông – Sứ vụ
(TP. Hồ Chí Minh: Ban tổ chức Năm thánh 2010, 2008).
[4] Phần I: Nhìn lại.
[5] Phần II: Nhận định.
[6] Phần III: Đề xuất.
[7] CL 2.
[8] X. đ. 204.
[9] X. đ. 207.
[10] X. GLGHCG 872; đ.
208; LG 32.
[11] X. GLGHCG 898; LG
31; đ. 225.
[12] X. GLGHCG 898; đ.
227.
[13] Trên hai phần ba
số linh mục miền Bắc di cư vào Nam.
[14] Bài Phỏng vấn
Đức cha Lôrenxô Chu Văn Minh—người lúc bấy giờ đang sống ở Chủng viện Hà
Nội, đã kinh qua giai đoạn lịch sử này—trên website của Hội đồng Giám
mục Việt Nam (WHĐ), ngày 02 tháng 02 năm 2009.
[15] Nhiều tác giả,
“Văn học Công giáo Việt Nam” trong Từ điển văn hóa Kitô giáo (sắp xuất
bản).
[16] Nguyễn Kim Điền, Tâm
thư 01-4-1975.
[17] Nguyễn Văn Bình, Thư
gửi anh chị em Tổng giáo phận Sài Gòn 05-5-1975.
[18] Nguyễn Văn Bình, Tham
luận tại Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ V năm 1977.
[19] Nguyễn Văn Bình và
Nguyễn Văn Thuận, Thư luân lưu gửi các linh mục, tu sĩ và giáo dân Tổng giáo
phận Sài Gòn ngày 12 tháng 6 năm 1975.
[20] Phiên họp bắt đầu
từ 10-7-1976 đến 16-7-1976 tại TP. Hồ Chí Minh.
[21] Những từ đầu tên
gọi một tác phẩm của Lm. Nguyễn Hồng Giáo: Một chặng đường Giáo hội Việt Nam,
xuất bản tại Học viện Phanxicô, TP. Hồ Chí Minh, năm 2008.
[22] Nguyễn Hồng Giáo, Một
chặng đường Giáo hội Việt Nam (TP. Hồ Chí Minh: Học viện Phanxicô, 2008),
173.
[23] Hội đồng Giám mục
Việt Nam, Thư chung năm 1980, lấy 01-4-2009 tại
http://v3.hdgmvietnam.org/Default.aspx?tabid=75&ctl=ViewArticle
Deail&mid=431&ArticlePK=35. “Có thể nói rằng Thư chung năm 1980
của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi toàn thể dân Chúa trong hội nghị thường niên
đầu tiên của các giám mục hai miền Nam-Bắc (kể từ ngày nước nhà thống nhất),
được xem là kim chỉ nam cho đường hướng mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam
trong nhiều năm qua”. [Tạ Huy Hoàng, Hội đồng, hội đoàn giáo xứ, Tập I
(TP. Hồ Chí Minh: Học viện Mục vụ Tổng Giáo phận, 2008), 69]
[24] Tạ, Quản trị
mục vụ, Tập I (TP. Hồ Chí Minh: Học viện Mục vụ Tổng Giáo phận, 2008),
34-5. Trong bài phái biểu tại Thượng hội đồng thế giới về giáo dân ngày 15
tháng 9 năm 2005, Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang nói: “Giáo dân Việt
Nam đã sống các lý tưởng của Công đồng trước khi biết đến Công đồng theo đúng
câu phương ngôn La Tinh: Primum vivere, deinde philosophare (đầu tiên
hãy sống trước đã, rồi thì mới triết lý sau)”.
[25] X. Tạ, Quản trị
mục vụ, 35.
[26] Gồm đủ mọi thành
phần trong lĩnh vực này: bác sĩ, y sĩ, y tá, y công.
[27] Sau này, một số y
bác sĩ và cán sự xã hội còn được mời gọi phục vụ trong những hoàn cảnh đặc biệt
hơn như chăm sóc các bệnh nhân HIV-AIDS.
[28] Tại giáo xứ chính
toà Long Xuyên chẳng hạn.
[29] Các văn kiện Công
đồng Vaticanô II của những năm 60 nói chung, Sắc lệnh về tông đồ giáo dân
(Apostolicam actuositatem) nói riêng, rồi nhiều văn kiện khác cũng đã có
những hướng dẫn cụ thể cho vai trò của người giáo dân: Bộ giáo luật 1983;
Tông huấn Người Kitô hữu giáo dân (Christifideles laici), Huấn thị về một số
vấn đề liên quan đến sự hợp tác của các tín hữu không có chức thánh vào tác vụ
của các linh mục (Instruction on Certain Questions Regarding the Collaboration
of the Non-Ordained Faithful in the Sacred Ministry of Priests), Tông thư Thiên
Chúa là tình yêu (Deus Caritas est)….
[30] Tạ, Quản trị
mục vụ, 42.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Huấn
từ về tông đồ giáo dân dịp Năm thánh 2000, đã phát biểu tại Quảng trường
Thánh Phêrô:
Giờ giáo dân đã điểm. Làm một Kitô hữu, chưa
bao giờ là một việc dễ dàng, ngày xưa cũng vậy mà ngày nay cũng thế. Muốn theo
Chúa Kitô cần phải can đảm chọn lựa dứt khoát, thường thường là phải lội ngược
dòng…[31]
Thích ứng nhiều hơn với tinh thần Công
đồng Vaticanô II, người giáo dân Việt Nam hôm nay nói chung rất tích cực trong
việc tham gia vào các hội đồng, hội đoàn của giáo phận, giáo xứ, thực hiện các
hoạt động tông đồ với nhiều sáng kiến trong ý thức vâng phục “các chủ chăn có
nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô”.[32]
Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời
của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà các chủ
chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô, đã quyết định với tư cách là những
thầy dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo hội; làm như thế, họ đã theo gương
Chúa Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết, để mở đường hạnh phúc của sự tự do
con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện
phó dâng cho Thiên Chúa các vị lãnh đạo của mình, để các ngài hoan hỉ mà không
than vãn thi hành nhiệm vụ chăm sóc linh hồn chúng ta, nhiệm vụ mà các ngài sẽ
phải trả lẽ (x. Dt 13,17). Phần các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn
nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo hội, các ngài
nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ, tín cẩn giao cho họ
những công tác để họ phục vụ Giáo hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động;
hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm theo sáng
kiến của họ. Với tình cha con, các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Kitô,
những kế hoạch, thỉnh cầu, và khát vọng của họ (x. 1 Tx 5,19 và 1 Ga 4,1). Đàng
khác, các chủ chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người
trong lãnh vực trần thế.[33]
Về phương diện hình thức, Giáo hội Công
giáo Việt Nam hiện cũng đang có dáng vẻ chuyển mình khá rõ rệt. Sự trợ giúp
quảng đại của kiều bào, các giáo hội chị em từ nước ngoài và các tổ chức quốc
tế cùng với những đóng góp chắt chiu của dân chúng trong nước, nhiều công trình
xây dựng của Giáo hội đã và đang được trùng tu, tôn tạo, hoặc xây dựng mới: nhà
xứ, nhà sinh hoạt, trung tâm mục vụ, chủng viện, tòa giám mục….
Từ một số thực tế trong phần được “Nhìn
lại”, chúng ta có thể đi đến những nhận định khái quát về việc thực thi vai trò
của giáo dân trong Giáo hội và trong xã hội Việt Nam 50 năm qua.
1/ Kiên cường trong khó khăn thử thách
Tuy hoàn cảnh sống xem ra không mấy
thuận lợi cho sinh hoạt bình thường của Giáo hội, nhưng thực tế đó lại đã tạo
cơ hội để người giáo dân tại nhiều nơi thực hiện một cách tích cực hơn các vai
trò của mình như được nhìn nhận và cổ vũ trong Giáo hội. Người giáo dân ở đây
đã nối tiếp truyền thống của tầng lớp giáo dân trong buổi đầu và trong suốt quá
trình phát triển của Giáo hội tại Việt Nam. Những người giáo dân này đã thực
thi vai trò của mình cách dũng cảm vì Giáo hội và trong lòng tin ở Chúa, bất
chấp các hiểm nguy đối với cuộc sống, thậm chí mạng sống của mình, của gia đình
và người thân.
Lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam ghi
nhận tên tuổi vẻ vang của những người giáo dân đã bị cầm tù, bị kỳ thị… vì hoạt
động tôn giáo của mình. Sự gắn bó của những người giáo dân này với niềm tin nơi
Đức Kitô và Giáo hội của Người quả rất đáng trân trọng. Họ cũng có thể được
sánh ví với những người giáo dân thuở xưa, những người được Giáo hội chính thức
nhìn nhận công đức qua việc phong thánh năm 1988. Trong những hoàn cảnh đặc
biệt như được nêu lên trên đây, khó có thể đòi hỏi gì hơn nơi anh chị em giáo
dân ngoài sự gắn bó với lòng tin Kitô giáo, với Giáo hội và với cộng đoàn, dù
qua những hình thức giữ đạo và cử hành đạo có thể họ có lúc đã bị đánh giá là
quá nặng về mặt đạo đức tình cảm.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng đây
là một hoàn cảnh bất thường: người giáo dân đã thực hiện vai trò của mình một
cách đơn độc trong sự thiếu vắng giáo sĩ. Con số ít ỏi các giáo sĩ ở nhiều nơi
xem ra không đủ để “ban thánh lễ” mỗi tuần một lần cho các cộng đoàn; nói gì
đến việc giáo dục đức tin, giảng dạy, tạo cơ hội để người giáo dân sống đầy đủ
cuộc sống bí tích, để càng ngày càng thấm nhập tinh thần Tin mừng và để từ đó
làm thấm nhập tinh thần Đức Kitô vào đời thường của xã hội. Vai trò sống Tin
mừng của người giáo dân gần như chỉ còn gói ghém vào việc “thuần túy” gắn bó
với Giáo hội và duy trì niềm tin Kitô giáo. Trong khi đó, sự phục vụ đầy đủ
nhất phải là một sự phục vụ của toàn thể các thành phần trong Giáo hội “do sự
thiết lập của Thiên Chúa” gồm giáo sĩ và giáo dân để:
… theo điều kiện của mỗi người, họ được kêu gọi
thực hành sứ mệnh mà Thiên Chúa đã giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế
giới.[34]
Ở một số nơi và trong một số hoàn cảnh,
khi việc đào tạo giáo sĩ không gặp khó khăn và ơn gọi linh mục tương đối dồi
dào, hiện tượng ngược lại đã diễn ra trong Giáo hội: giáo sĩ đảm nhận hầu như
mọi công việc trong Giáo hội với tính cách là người lãnh đạo và người giáo dân
chỉ biết vâng phục, đóng vai người phụ thuộc, thừa hành.[35]
Đành rằng, tại một số nơi, chúng ta đã
chứng kiến sự xuất hiện của những người giáo dân có ý thức về trách nhiệm của
người có niềm tin Kitô giáo đối với xã hội và thế giới; họ đã có những hành
động cụ thể để thực thi trách nhiệm này. Và gần đây, được xem như một tín hiệu
vui, sự xuất hiện những nỗ lực càng ngày càng lớn của nhiều giới trong việc
thực hiện một sự kết hợp hài hòa, bình đẳng trên cơ sở tôn trọng ơn gọi riêng
của giáo sĩ và của giáo dân, trong các hoạt động mục vụ khác nhau, như mục vụ
gia đình, mục vụ giới trẻ….
Cũng vậy, tại một số nơi khác, nhiều
phần việc thuộc phạm vi quản lý giáo xứ đã được giao phó cách tín nhiệm cho hội
đồng giáo xứ gồm chủ yếu là những người giáo dân. Việc đào tạo các linh hoạt
viên cho mục vụ giới trẻ, giáo lý viên để hợp tác với linh mục và tu sĩ lo việc
dạy giáo lý cho trẻ em… đã phát triển thành phong trào. Tuy nhiên, luồng gió
đổi mới này vẫn chưa đến được quảng đại quần chúng giáo dân.
Thực ra, theo giáo luật thì người đứng
đầu giáo xứ vẫn là linh mục chính xứ.[36] Với sự hợp tác lãnh đạo của các giáo
sĩ khác, các tu sĩ và giáo dân, linh mục chính xứ là người anh em với anh chị
em đồng loại, nhưng cũng là người mục tử cho anh chị em của mình, và vì anh chị
em đồng loại của mình. Tất cả các tín hữu Kitô trong một giáo xứ đều được mời
gọi, mỗi người ở vào vị trí của mình trong gia đình giáo xứ, để cùng tham gia
tích cực vào công việc chăm sóc và điều hành giáo xứ.[37]
Giám mục giáo phận ủy thác giáo xứ cho mục tử (pastor,
parochus). Với những quyền hạn và trách vụ được giáo luật… và qui chế của
giáo phận ban cho, mục tử thực sự lãnh đạo giáo xứ, không phải như một tổ chức,
nhưng như một cơ thể nhỏ bé. “Chức linh mục được thụ phong của ngài tuyệt đối
không thể thay thế.”[38]
2/ Để kiện toàn trật tự trần thế với
tinh thần Phúc âm
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trên, chính là việc đào tạo giáo dân trong Giáo hội cho tới gần đây xem
ra đặt nặng vào việc giữ đạo hơn là sống đạo; lẽ ra việc giáo dục Kitô giáo
phải làm cho người giáo dân “thấm nhập tinh thần của Đức Kitô” để họ “kiện toàn
trật tự trần thế với tinh thần Phúc âm”. Thật vậy, về phương diện giữ đạo và
tạo được tình cảm đạo đức nơi các tín đồ, chúng ta có thể bằng lòng với thành
quả đạt được. Nhưng đối với nhiệm vụ “thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế
với tinh thần Tin mừng” thì còn cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa từ mọi phía.
Cuộc sống đạo, việc thực thi ơn gọi
riêng của giáo dân trong xã hội trần thế nơi một số không nhỏ những Kitô hữu
Việt Nam chưa được tổ chức một cách có hệ thống, có phương pháp để công việc
bác ái từ thiện và đời sống chứng nhân của người Kitô hữu, hay nói một cách
chính xác hơn, tình yêu thương cứu độ của Đức Kitô, được thể hiện một cách liên
tục và hữu hiệu, tích cực góp phần đẩy lui tận căn cái xấu và góp phần thiết
yếu vào việc xây dựng một trời mới, đất mới.
Thao thức về một “trời mới, đất mới” cho
thế hệ trẻ hôm nay, có vị giám mục giáo phận đã từng đưa ra những nhận xét thật
xác đáng, đề cập đến chính nỗi lo âu tự nhiên của người lớn trong tư cách là
bậc cha mẹ. Do đó, lời phát biểu của ngài cũng tiềm ẩn sự đề cập đến nỗi sợ hãi
của người giáo dân trẻ trước cuộc sống với những khó khăn họ phải trực diện.
Bởi lẽ,
… những gì họ tiếp nhận được từ gia đình, học
đường, giáo xứ không đủ khả năng giúp họ đương đầu với những phức tạp và khó
khăn trong cuộc sống ngày một gia tăng.[39]
Từ đó, những người giáo dân trẻ có thể
hoặc theo truyền thống văn hóa của gia đình, của Giáo hội: đi theo bước đường
ngay thẳng của cha ông; hoặc đi lệch hướng: có hướng đi tự chọn trong cuộc
sống, nhưng lại là hướng đi sai lạc vì lẫn lộn giữa phương thế và mục đích,
tuyệt đối và tương đối; hoặc thậm chí hoàn toàn lạc hướng, sống buông thả, sống
cho qua ngày.
Lời mời gọi từ Thư mục vụ năm 2003
của Hội đồng Giám mục Việt Nam thật đáng lưu tâm:
Có thể đó là những môi trường địa lý chưa bao
giờ được nghe rao giảng Tin mừng, những vùng đất chưa in sâu dấu chân nhà
truyền giáo. Đó là những môi trường văn hóa, chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ
thuật…. Đó là những lãnh vực cần có sự hiện diện của Chúa Kitô, chứng tá của
Giáo hội và ánh sáng của Tin mừng. Hãy đến với những con người chưa được nghe
rao giảng Tin mừng, hoặc đã nghe mà chưa sống Tin mừng. Hãy hiện diện trong mọi
môi trường của nhân loại, vì không có gì của con người mà xa lạ với Giáo
hội.[40]
Thực vậy, Thiên Chúa lúc nào cũng muốn
con người, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, được vào dự tiệc trong nước
Người.[41] Lệnh truyền trang trọng của Chúa Giêsu đã được ghi lại rõ ràng trong
Phúc âm theo Thánh Mátthêu:
Vì vậy các con hãy đi thâu nạp môn đồ
khắp muôn dân, thánh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ vâng giữ
hết mọi điều Thầy đã truyền cho các con.[42]
3/ Đào tạo, huấn luyện giáo dân
Sự đồng thuận trong lãnh đạo, điều hành
luôn luôn là việc rất cần thiết; không chỉ là điều cần thiết đối với mối quan
hệ giữa các nhà lãnh đạo các cấp đối với nhau, mà cũng còn rất cần thiết đối
với mối tương quan “mục tử-con chiên” giữa giáo sĩ và giáo dân. Người giáo dân
mong ước—với ý thức đây cũng là ước mong của chính Giáo hội—được thấy vai trò
tích cực của mình trong các hoạt động mục vụ, các hoạt động tông đồ… trong đời
sống Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Giáo dân mong ước mình được huấn luyện
thành những Kitô hữu trưởng thành, có đủ năng lực để phục vụ Giáo hội trong
cương vị của mình.
Người giáo dân chưa thực hiện đúng vai
trò của mình trong Giáo hội và trong xã hội vì những khó khăn khách quan, nhưng
cũng vì sự mất cân bằng giữa việc đào tạo dành cho hàng giáo sĩ, tu sĩ và việc
đào tạo dành cho giáo dân về nhiều mặt: (1) cơ sở huấn luyện, (2) nhân sự huấn
luyện và được huấn luyện (formateurs et formation des formateurs), (3) tài
liệu huấn luyện.
Nghĩa là, có sự mất cân bằng trong việc
chăm sóc và huấn luyện giáo dân ở thành phố cũng như giáo dân ở nông thôn; có
sự mất cân bằng trong đời sống thiêng liêng của người giáo dân: giữa việc đọc
kinh, việc đạo đức bình dân, đời sống nội tâm và việc cố gắng sống niềm tin tôn
giáo của mình trong xã hội.
Do vậy, người giáo dân rất cần một nền
linh đạo thực sự thích hợp cho mình. Những người hữu trách nói chung, cần tránh
áp dụng “nguyên xi” những nền linh đạo giáo sĩ, tu sĩ—dù rất hữu hiệu với các
bậc sống tu trì—lên đời sống người giáo dân. Bởi sứ vụ của người giáo dân là
thực hiện những công việc trần thế theo tinh thần Tin mừng, sống ơn gọi Kitô
hữu của mình ngay giữa trần thế.
Sự thiếu sót trong đào tạo này chắc chắn
sẽ dẫn đến việc người giáo dân, đặc biệt là người trẻ thiếu khả năng trực diện
với những vấn đề cuộc sống xã hội không ngừng đặt ra. Trước những vấn đề này,
thay vì tìm cách giải quyết theo tinh thần Kitô giáo, không ít người giáo dân
đã lui về tìm nơi an toàn dưới tháp chuông nhà thờ, giữa những người đồng đạo,
và cũng không ít người lại tìm giải pháp buông thả.
Ngoài ra, do hoàn cảnh đặc biệt của đất
nước trong 50 năm qua, giữa các cộng đoàn giáo hội địa phương xem ra chưa có sự
đồng thuận cao trong việc chọn hướng đi cụ thể cho Giáo hội. Sự đồng thuận cao
đặt nền tảng trên ích lợi chung của Giáo hội, của quê hương Việt Nam cần sớm
được thực hiện; những khoảng cách cần phải được rút ngắn. Giáo hội sẽ khó có sự
phát triển mạnh và đồng đều, trong một nước Việt Nam đã thống nhất, nếu tinh
thần “thống nhất trong điều chính, tương nhượng trong điều phụ, bác ái trong
mọi sự”[43] không được đề cao tối đa.
Từ những nhận định trên đây về vai trò
người giáo dân Việt Nam đã thể hiện trong năm mươi năm qua, trong những hoàn
cảnh và môi trường khác nhau, và cũng là để việc thể hiện vai trò của mình mỗi
ngày một tốt hơn trong ý định của Thiên Chúa, Ủy ban Giáo dân xin trình bày một
số đề xuất.
Bản đề cương Giáo hội tại Việt Nam:
Mầu nhiệp – Hiệp thông – Sứ vụ của Ban tổ chức năm thánh 2010, khẳng định
“Năm thánh 2010… là kairos qua đó Thiên Chúa muốn làm bừng dậy cuộc canh
tân Giáo Hội của Ngài tại Việt Nam.”[44] Canh tân trong Giáo hội luôn được xem
là biểu hiện công cuộc hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng đổi mới mọi sự trong
ngoài. Một trong những canh tân, đổi mới chúng ta chờ mong ở đây là sự đổi mới
cách nhìn về Giáo hội của Thiên Chúa ở Việt Nam. Sự đổi mới này, như Công đồng
chung Vaticanô II đã khẳng định, lại cũng có nghĩa là trở về nguồn. Nguồn ở đây
là mạc khải của Thiên Chúa chứa đựng trong Thánh kinh và giáo huấn của Giáo
hội, là những thôi thúc của Chúa Thánh Thần nơi mỗi cộng đoàn, ở bất cứ nơi nào
có những người họp lại vì danh Đức Kitô.
Do đó, đề xuất tiên quyết là Giáo hội
cần xúc tiến việc giảng dạy, giới thiệu nhiều hơn nữa, trong các chương trình
học tập cho mọi thành phần của Giáo hội, về mô hình một giáo hội lý tưởng—vốn
chính là hình ảnh nguyên vẹn về Giáo hội của Đức Giêsu Kitô—một giáo hội hiệp
thông, trong đó có sự tham gia tích cực của mọi thành phần dân Chúa, nhất là
những tín hữu giáo dân của thiên niên kỷ thứ ba này. Bởi lẽ, một trong những
mục tiêu rõ rệt khi Đức Giêsu Kitô thiết lập Giáo hội là: để tất cả mọi người
tin theo Chúa có thể cùng nhau tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng cho đến tận
cùng các bờ cõi trái đất. Nghĩa là, để người tín hữu Việt Nam có thể chu toàn
sứ mạng Người trao trong thế giới và trong nước Việt Nam hôm nay.
Một ý thức đúng đắn về Giáo hội sẽ góp
phần xây dựng nền tảng cho các hành động thực thi vai trò của người giáo dân
trong Giáo hội và trong xã hội. Hành động hữu hiệu và đầy đủ ý nghĩa nhất của
Giáo hội phải được thực thi trong sự kết hợp hài hòa giữa giáo dân và giáo sĩ;
nghĩa là trong sự tôn trọng vai trò, chức năng riêng biệt của nhau “do sự thiết
lập của Thiên Chúa”.
Vì tầm quan trọng của dân Chúa trong
Giáo hội nói chung, và trong việc Giáo hội có bổn phận chu toàn sứ mệnh Thiên
Chúa đã trao cho mình nói riêng, Giáo hội Công giáo Việt Nam, đặc biệt là Hội
đồng Giám mục Việt Nam, cần quan tâm đặc biệt hơn nữa đến thành phần giáo dân.
Bởi lẽ, thời gian qua, Giáo hội xem ra đã chú trọng nhiều đến việc đào tạo giáo
sĩ, tu sĩ, nhưng chưa đồng bộ trong việc đưa ra chương trình cũng như kế hoạch
cụ thể để đào tạo hàng ngũ giáo dân trưởng thành, mà công việc này lại thường
chỉ trao cho các linh mục chính xứ.
Hy vọng trong tương lai, việc huấn luyện
giáo dân trưởng thành sẽ được mọi cấp bậc trong Giáo hội lưu tâm chăm sóc chu
đáo và tích cực hơn. Việc xây dựng tầng lớp giáo dân trưởng thành “bằng tinh
thần Phúc âm” để làm “thấm nhập và kiện toàn trật tự thế giới với tinh thần
Phúc âm” nhất thiết cần được đặt lên hàng đầu trong số các ưu tiên phát triển
Giáo hội hiện nay.
Nội dung của việc đào tạo giáo dân bao
gồm, dĩ nhiên, việc giúp giáo dân có được những kiến thức căn bản, hiểu rõ và
chính xác các khái niệm liên quan đến đức tin Kitô giáo, đời sống bí tích. Nội
dung này cũng phải bao hàm việc giúp giáo dân, và cùng với giáo dân, nhận ra
đòi hỏi của Tin mừng trong các tình huống khác nhau của cuộc sống. Điều cần
thiết của chương trình đào tạo người giáo dân trưởng thành chính là giúp giáo
dân tìm được câu trả lời của lòng tin, cho các vấn đề mà họ phải đương đầu và
phải tìm ra câu giải đáp từ Tin mừng của Đức Kitô, Đấng là “… đường, là sự thật
và là sự sống”.[45] Bởi nội dung của việc đào tạo phải giúp người giáo dân sống
có ích cho đời và cho chính hạnh phúc vĩnh cửu của họ—con đường sự thật và sự
sống không miễn chước những gian nan thử thách cho người đi đường—qua việc diễn
tả niềm tin kiên vững vào chính Đức Kitô, Đấng duy nhất là Chúa của muôn dân,
là Thầy của cả giáo sĩ lẫn giáo dân.
Nội dung đào tạo này sẽ chỉ thiết thực,
đem lại nhiều ích lợi thực sự và lâu bền khi được thiết lập bởi sự hợp tác giữa
giáo sĩ và giáo dân. Người giáo dân, với những hiểu biết của họ về các khoa học
“trần thế”, với những kinh nghiệm phong phú, đa dạng họ thu thập được trong
cuộc sống lăn lộn với xã hội, chắc chắn sẽ có những đóng góp cụ thể và thiết
yếu cho nội dung của việc đào tạo này. Cho tới nay, dường như Giáo hội vẫn chưa
thực sự tận dụng hết và trân trọng đủ những khả năng đóng góp to lớn mà sự hiểu
biết và kinh nghiệm của người giáo dân, trong lĩnh vực trần thế, có thể đem lại
cho sự phát triển của lòng tin Kitô giáo tại Việt Nam.
Điều 225: §1. Vì các giáo dân cũng như
mọi tín hữu Kitô, do bí tích thánh tẩy và thêm sức, được Thiên Chúa sai đi làm
việc tông đồ, nên, hoặc đứng riêng rẽ từng người hoặc tập họp trong các đoàn
thể, họ có nghĩa vụ chung và quyền lợi phải ra sức làm cho mọi người trên khắp
hoàn cầu hiểu biết và đón nhận Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa; nghĩa vụ này còn
cấp bách hơn trong những trường hợp mà chỉ nhờ họ người ta mới có thể nghe Tin
mừng và nhận biết Đức Kitô.
§2. Mỗi người, theo địa vị riêng, còn có
nhiệm vụ đặc biệt làm cho trật tự các thực tại trần thế thấm nhuần tinh thần
Phúc âm và trở nên hoàn hảo, và như thế, họ làm chứng cho Đức Kitô cách đặc
biệt trong việc điều hành những thực tại trên và trong việc thi hành những
nghĩa vụ trần thế.
Cụ thể, Ủy ban Giáo dân kính đề nghị Hội
đồng Giám mục Việt Nam nên thiết lập cách quy mô hơn (đầu tư thật nhiều, đồng
bộ và dài hạn) một nhóm nghiên cứu gồm linh mục, tu sĩ, giáo dân chuyên tìm
hiểu về nhu cầu của giáo dân hiện nay để đưa ra một kế sách đào tạo giáo dân
cho hiện tại và tương lai, trước mắt là kế hoạch cho 10 và 20 năm sắp tới.
2/ Củng cố các ủy ban giáo dân
Rất nên tăng cường thêm sức làm việc cho
Ủy ban Giáo dân của Hội đồng Giám mục Việt Nam, giúp củng cố các ủy ban giáo
dân cấp giáo phận, giáo hạt, giáo xứ.
Trong bối cảnh thực tế hiện nay, để góp
phần cụ thể hóa sự canh tân trong ý thức và thực hành này, nên củng cố Ủy ban
Giáo dân của Hội đồng Giám mục Việt Nam bằng cách giúp ủy ban có thêm điều kiện
và nhân sự làm việc tích cực hơn, hiệu quả hơn, nhất là mau chóng trở thành một
bộ phận điển hình của sự kết hợp hài hòa giữa giáo sĩ và giáo dân trong việc
thúc đẩy việc thực thi vai trò của giáo dân.
Ủy ban Giáo dân thuộc các cấp phải trở
thành nơi trao đổi, thúc đẩy, thu tập và nhân lên các kinh nghiệm của sự hợp
tác hài hòa và bình đẳng trong đó có sự tôn trọng những khác biệt khả dĩ. Cũng
cần thường xuyên tổ chức những khóa học hỏi nhằm giúp giáo dân thực hiện nhiệm
vụ làm thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc âm; giúp
chính họ sống tinh thần Phúc âm và vâng phục quyền giáo huấn của Giáo hội cách
trưởng thành.
Cho tới nay, cơ cấu tổ chức Ban điều
hành của Ủy ban Giáo dân thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam bao gồm một vị giám
mục trong Hội đồng Giám mục làm chủ tịch và một linh mục làm tổng thư ký. Liệu
có nên hay chăng: có thêm một số giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân làm phụ tá tổng thư
ký. Ủy ban Giáo dân thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ bao gồm, ngoài ban điều
hành, các linh mục đứng đầu các ủy ban giáo dân giáo phận và cả các vị đại diện
giáo dân—cộng sự viên của các ngài trong các ủy ban này—làm thành viên.
Ủy ban Giáo dân cũng cần lưu tâm đặc
biệt tới sự đóng góp công sức vào sinh hoạt Giáo hội và xã hội của các giáo dân
cựu chủng sinh, cựu tu sĩ, vốn là những người cũng đã được hấp thụ một nền giáo
dục đào tạo về tôn giáo, tu đức tại các chủng viện, tu viện, và thường là những
người hoạt động rất tích cực trong Giáo hội và xã hội hiện nay.
Ủy ban Giáo dân phải được tổ chức cách
khoa học, có hệ thống, ở cấp giáo hội toàn quốc, giáo tỉnh, giáo phận và giáo
xứ. Giáo hội nói chung, Giáo hội Việt Nam nói riêng, và đặc biệt Ủy ban Giáo
dân nên tạo nhiều cơ hội, nhất là trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay, để các
thành viên có thể trao đổi những kinh nghiệm, những hiểu biết với gần một triệu
anh chị em giáo dân Việt Nam đang sinh sống tại hải ngoại, đặc biệt tại các
quốc gia có truyền thống Kitô giáo lâu đời. Những chuẩn bị chu đáo từ xa như
thế có thể sẽ giúp người giáo dân thích ứng cách hiệu quả hơn với những vấn đề
sẽ đặt ra cho lòng tin Kitô giáo của một Giáo hội Việt Nam, vẫn từng ngày không
ngừng mạnh tiến trong một đất nước đang dần phát triển.
Đối với các ủy
ban giáo dân, những người hữu trách cần phải thực sự ý thức rằng bổn phận chủ
yếu của mình là chăm sóc và quan tâm đến các sinh hoạt của chính giáo dân: chăm
sóc các thành viên hội đồng, hội đoàn giáo xứ chẳng hạn, và quan tâm đến những sinh hoạt của các hội đồng, hội đoàn này.[46]
3/ Chính
thức tái lập các hội đoàn Công giáo tiến hành
Biết
rằng, có ít là 17 hội đoàn Công giáo tiến hành—liệt kê trong Giáo hội Công
giáo Việt Nam: Niên giám 2005—đã được Nhà nước nhìn nhận cách này hay cách
khác,[47] Ủy ban Giáo dân kính đề nghị Hội đồng Giám mục Việt Nam vẫn nên có chương
trình làm việc với các nhà cầm quyền lãnh đạo đất nước nhằm giúp cho tất cả các
hội đoàn Công giáo tiến hành, chuyên biệt và không chuyên biệt, có thể được
chấp nhận chính thức bằng văn bản cụ thể.
Một
khi được chấp nhận bằng văn bản cụ thể, các hội đoàn Công giáo tiến hành sẽ có
thêm những điều kiện thuận lợi hơn trong hoạt động: (1) để công việc đào tạo
người giáo dân của Giáo hội diễn ra cách tự nhiên bình thường; qua đó Giáo hội
có thể góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội lành mạnh và phát triển;
và (2) để các sinh hoạt phục vụ của các hội đoàn có thể dễ dàng giúp Giáo hội
thực hiện sứ vụ của mình (Church mission) trong đường lối riêng của
chính các hội đoàn và trong các điều kiện cụ thể của giáo xứ, giáo phận….
Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Bài giảng lễ bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục
VII ngày 30 tháng 10 năm 1987, đã nói về những đóng góp quý giá của các vị đại
diện giáo dân nam nữ:
Chúng ta cảm ơn Chúa vì
suốt khóa họp Thượng hội đồng này không những chúng ta đã vui mừng đón nhận sự
tham dự của giáo dân (dự thính viên nam nữ), mà hơn nữa trong lúc bàn
luận còn được nghe tiếng của những đại diện giáo dân khắp nơi trên thế giới tới
từ các quốc gia khác nhau. Nhờ đó, chúng ta có dịp lắng nghe những kinh nghiệm,
ý kiến và đề nghị của họ phát xuất từ lòng tha thiết với quyền lợi chung.[48]
Vậy,
để hướng vọng tới một tương lai tốt đẹp hơn, Giáo hội Việt Nam rất cần đào tạo
hàng ngũ những giáo dân trưởng thành:
Hiến chế tín lý về
Giáo hội (Lumen gentium) và Sắc lệnh
về tông đồ giáo dân (Apostolicam actuositatem) của Công đồng
Vaticanô II đã mạnh mẽ nêu lên vấn đề giáo dân và đòi hỏi phải có sự đào tạo
giáo dân trưởng thành. Vì thế, sau Công đồng, việc đào tạo giáo dân trở thành
chủ đề rất được quan tâm của nhiều văn kiện và tổ chức của Giáo hội.[49]
Việc
xây dựng sức sống hiệp nhất trong Giáo hội cũng đòi hỏi sự cấp thiết của vấn đề
phải đào tạo một hàng ngũ giáo dân trưởng thành với chương trình thần học và
mục vụ dành cho giáo dân. Người có nhiệm vụ đào tạo là mọi thành phần dân Chúa,
cách riêng là Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ủy ban Giáo dân, các giáo sĩ chuyên
trách công việc đào tạo giáo dân, các tu sĩ và đặc biệt, chính giáo dân cũng
phải tích cực tham gia vào công việc đào tạo giáo dân.
Mô hình Giáo Hội như là
hiệp thông được coi là mô hình lý tưởng trong việc xây dựng Giáo Hội. Mô hình
này đã được các giám mục tại Á Châu nồng nhiệt đón nhận và tìm cách khai triển
trong đời sống của từng giáo phận như chính Đức Gioan Phaolô II đã viết trong
tông huấn Giáo Hội tại Á Châu…[50]
Những
tiếng chuông cảnh tỉnh liên tục vang lên, những nỗ lực phải được thực hiện để
Kitô hữu dấn thân xây dựng nền văn minh tình thương. Thư mục vụ năm 2005
của Hội đồng Giám mục Việt Nam viết:
… trong một xã hội còn
thiếu tôn trọng sự thật, Kitô hữu phải tập và nêu gương sống ngay thẳng. Trong
một xã hội còn thiếu tôn trọng sự sống con người, Kitô hữu quyết tâm cổ võ và
bảo vệ nền văn hóa sự sống. Trong một xã hội chạy theo lợi nhuận, thiếu tôn
trọng phẩm giá con người, gạt người nghèo sang bên lề cuộc sống… Kitô hữu được
mời gọi dấn thân xây dựng nền văn minh tình thương. [51]
Ủy
ban Giáo dân tin rằng: Năm thánh kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt
Nam sẽ là điểm khởi đầu cho một nỗ lực mới, một lễ Ngũ Tuần mới để người giáo
dân, dưới sự thúc đẩy của cùng một Thánh Thần, sẽ hòa với các thành phần khác
của dân Chúa, tạo thêm được những bước tiến mới trong việc thể hiện sự hiện
diện của Đức Kitô và Tin mừng cứu độ của Người, trên nền tảng những gì tốt đẹp
nhất mà Giáo hội đã thu thập được trong suốt chiều dài lịch sử rất vẻ vang của
mình tại Việt Nam.
–––––––––––––––––––––––––––
[31]
Gioan Phaolô II, Huấn từ về tông đồ giáo dân (26-11-2000).
[32] X. Hoang H. Ta, A
Training Program to Promote Collaborative Leadership in a Parish Pastoral
Council of Vietnamese People ( Washington, DC: The Catholic University of
America, 2005), 95.
[33] LG 37.
[34] Đ. 207.
[35] Thành ngữ Anh-Mỹ ở
trời Tây có thể cũng đã đúng cho hoàn cảnh này của trời Ta: Bổn phận của người
giáo dân là “vâng phục, cầu nguyện và chi trả” (obeying, praying, and
paying).
[36] X. đđ. 519; 532.
[37] X. Thánh bộ giáo
sĩ, “Huấn thị về một số vấn đề liên quan đến sự hợp tác của các tín hữu không
có chức thánh vào tác vụ của các linh mục” trong The Sacrament of Orders and
the Clerical State (Bí tích truyền chức và địa vị giáo sĩ), ed. Woestman,
289-94.
[38] X. Tạ Huy Hoàng, Lãnh
đạo hợp tác, Tập I (TP. Hồ Chí Minh, Đại chủng viện Thánh Giuse, 2007), 27.
[39] Trích trong bài
chia sẻ của Đức hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn tại Nhà thờ chánh tòa Sài
Gòn, nhân Ngày giới trẻ thế giới lần thứ 13.
[40] Hội đồng Giám mục
Việt Nam, Thư mục vụ năm 2003.
[41] X. Mt 8,11; 22,9;
Lc 13,29; 14,23.
[42] Mt 28,19-20.
[43] Cụm từ La Tinh nổi
tiếng này “In necessariis unitas, in dubiis libertas, in omnibus caritas”
được gán cho Thánh Âutinh là tác giả. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã sử dụng cụm
từ này trong Thông điệp Ad Petri cathedram (về chân lý, hiệp nhất, bình
an trong tinh thần bác ái), ban hành ngày 29 tháng 6 năm 1959.
[44] X. Hội đồng Giám
mục Việt Nam, Đề cương Giáo hội tại Việt Nam: Mầu nhiệm – Hiệp thông – Sứ vụ
(TP. Hồ Chí Minh: Ban tổ chức Năm thánh 2010, 2008), 4.
[45] Ga 14,6.
[46] Một trong những
công việc hiện nay của Ủy ban giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam
là tiếp tục soạn thảo và hoàn chỉnh bản đề cương chung về quy chế hội đồng
mục vụ giáo xứ. Quy chế hội đồng mục vụ giáo xứ này phải là phương tiện giúp
các thành viên dấn thân tận tụy hơn với công việc giáo xứ. Trong thực
tế tại nhiều nơi, quý chức hội đồng mục vụ thường rất quảng đại trong
việc hy sinh thời gian, công sức và tiền của cho công việc chung của giáo
xứ.
[47] X. Văn phòng Tổng
Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam: Niên giám
2005 (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2005), 425.
[48] CL 2.
[49] Tạ, Quản trị
mục vụ, 51.
[50] Nhiều tác giả, Như
Thầy yêu thương (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2008), 329.
[51] Hội đồng Giám mục
Việt Nam, Thư mục vụ năm 2005.
UB Giáo dân / HĐGMVN