Rao giảng Lời Chúa tại Việt
(1960-2010)
Hàng Giáo Phẩm Việt
Thế rồi, trải dài 4 năm qua các Khoá họp
của Công đồng, trước khi bế mạc, Ðức Phaolô VI cùng các Nghị phụ Công đồng đã
long trọng công bố Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum vào
ngày 18-11-1965. Ðức Hồng Y Walter Kasper nhận định: “Tiếng sấm sét buổi ban
đầu” nhường chỗ cho bầu khí hân hoan, an bình, vui mừng và hy vọng,
khi Công đồng lên tiếng khai mở Hiến chế Dei Verbum: “Trong niềm
thành kính lắng nghe và tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa, Thánh Công đồng lặp
lại lời Thánh Gioan: Chúng tôi loan truyền cho anh em sự sống đời đời, đã có
nơi Chúa Cha và đã hiện đến với chúng tôi: điều chúng tôi đã thấy, đã nghe,
chúng tôi loan truyền cho anh em, để anh em cũng được hiệp nhất với chúng tôi
và chúng tôi hiệp nhất với Chúa Cha và với Chúa Giêsu Kitô, Con Ngài (1 Ga
1,2-3)” (Dei Verbum religiose audiens et fidenter proclamans, Sacrosancta
Synodus.) (MK 1). Lắng nghe với thái độ thành kính, vì Lời Thiên
Chúa là Lời hằng sống; tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa, vì đây là sứ điệp cứu
độ.
Nếu ơn gọi và sứ mạng của Hội Thánh là
“lắng nghe Lời Thiên Chúa trong niềm thành kính” và “tin tưởng công bố
Lời Thiên Chúa”, thì ơn gọi và sứ mạng của Hội Thánh Việt Nam cũng không
thể khác. Cùng với Hội Thánh toàn cầu, là Dân Thiên Chúa, Hội Thánh Việt Nam
thể hiện đúng ơn gọi của mình, khi “thành kính lắng nghe Lời Thiên Chúa”; và
càng thành kính lắng nghe, thì mới “tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa”.
1. Hội Thánh Việt
Ðức Hồng Y Carlo Maria Martini, SJ,
nguyên Tổng Giám Mục Milano, nguyên Viện trưởng, Giáo sư tại Giáo Hoàng Học
Viện Kinh Thánh (Biblicum) ở Rôma, và là bậc thầy nổi tiếng về Kinh Thánh trên
thế giới, đã trích một nhận xét của Paul Claudel nói về người tín hữu trong Hội
Thánh cho đến đầu thế kỷ thứ XX: “Họ đã có một sự tôn kính Kinh Thánh cho đến
độ họ sống xa cách Lời Chúa”[4]; người Việt Nam chúng ta thường gọi là thái độ
“kính nhi viễn chi”. Lời nhận định này có vẻ thái quá, nhưng thể hiện khá đúng
thực trạng của người tín hữu Kitô, cách riêng là hàng ngũ giáo dân. Ngay bên xã
hội Tây Phương, một xã hội có gốc rễ là Kitô giáo, thì cũng phải nhìn nhận
rằng, một trong những rào cản là tình trạng mù chữ của đại đa số dân chúng, mãi
cho đến thế kỷ XVIII; thêm vào đó, thái độ của thẩm quyền trong Giáo Hội không
muốn cho người giáo dân đọc Kinh Thánh! Thái độ này hình như phát xuất từ phản
ứng chống lại Phong trào cải cách của Thệ phản, cũng như chống lại một số trào
lưu từ thời Trung Cổ là những phong trào khuyến khích giáo dân tiếp xúc nhiều
hơn với Kinh Thánh nhằm mục đích đẩy người giáo dân thoát ly khỏi khung cảnh
đời sống nề nếp của Giáo Hội! Thêm vào đó, một số quyết định của Giáo quyền hạn
chế giáo dân tiếp cận với Kinh Thánh như Công đồng miền Tôlêđô năm 1229, trong
thời gian Giáo Hội phải chiến đấu chống lại bè rối Albigeois; hay như một số
hạn chế khác tại các Giáo Hội ở Anh, ở Pháp, và một số nơi khác. Vào năm 1559,
Ðức Thánh Cha Phaolô IV, và vào năm 1564, Ðức Thánh Cha Piô IV đã công bố danh
sách liệt kê một số sách bị cấm lưu hành (Index), thì các ngài cũng cấm
in ấn và lưu giữ những sách Kinh Thánh được dịch ra tiếng bản xứ, ngoại trừ có
phép đặc biệt. Như vậy, hàng ngũ giáo dân thời bấy giờ chắc chắn không thể tiếp
xúc với Kinh Thánh trong ngôn ngữ địa phương. Thời gian ấy, chỉ có bản văn Kinh
Thánh bằng tiếng La-tinh (Bản Vulgata = Bản Phổ thông) được phép lưu hành mà
thôi. Ngay tại nước Italia, phải chờ đến năm 1700, mới có bản dịch Kinh Thánh
ra tiếng Ý của Antonio Martini để phổ biến cho người công giáo. Ðến năm 1757,
tại Italia, mới có phép của Giáo quyền để dịch bản La-tinh Vulgata ra tiếng bản
xứ; và phải được Giáo quyền chuẩn ấn (Imprimatur), cùng phải kèm theo
những ghi chú, giải thích cụ thể. Mãi đến đầu thế kỷ XX, tại nước Italia, mới
xuất hiện những bản dịch Kinh Thánh từ nguyên bản Do-thái, Hy-lạp, do những
người Công giáo thực hiện. Thế mà tại Việt Nam chúng ta, trước khi Dei
Verbum ra đời, đã có hai bản dịch Kinh Thánh trọn bộ do các tác giả công
giáo thực hiện; đó là bản dịch Kinh Thánh của Cố Chính Linh, xuất bản năm 1913
và bản phỏng dịch Kinh Thánh của Cha Gérard Gagnon CSsR, vào năm 1963. Ðấy cũng
là những điểm son đáng ghi nhận.
Ở đây, chúng ta còn phải gợi lên một sự
kiện này - dầu không nói ra, nhưng vẫn ảnh hưởng đến những sinh hoạt trong Giáo
Hội cách chung trước Công đồng Vatican II - đó là bầu khí và tâm lý lo sợ, dè
dặt đối với các Phong trào cổ võ học Kinh Thánh. Biết bao nhiêu học giả tiên
phong trong lãnh vực này, đặc biệt từ khoảng thời gian sau Ðệ nhất thế chiến
1914-1918; họ ước mong Kinh Thánh không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ
hay những hạng ưu tú, mà phải được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi thành phần
Dân Chúa: “Lời Chúa phải được loan báo cho những người nghèo hèn”. Họ muốn tạo
điều kiện cho người tín hữu trực tiếp đọc Lời Thiên Chúa được dịch ra từ các
nguyên bản; họ ước mong người tín hữu có thể cầu nguyện với quyển Kinh Thánh;
họ muốn người tín hữu trở về nguồn, như thời Giáo Hội sơ khai. Một trong những
câu nói rất thời danh của Thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu như thúc đẩy và gợi nguồn
cảm hứng cho nhiều học giả trong lãnh vực này. Ngài nói: “Nếu tôi là linh mục,
tôi sẽ học tiếng Do-thái và tiếng Hy-lạp, để có thể đọc được Lời Thiên Chúa
trong chính nguyên bản”.
2. Lời kinh, tinh hoa của Lời Chúa
Thế nhưng tại Việt Nam, trước khi nói
đến việc đọc trực tiếp các bản văn thánh, chúng ta nên ghi nhận một hiện tượng
đặc biệt đã giúp các Kitô hữu Việt Nam sống Lời Chúa cách đơn giản, nhẹ nhàng
mà sâu sắc.
Vào thời gian đất nước chúng ta còn bị
chia đôi thành hai quốc gia của những anh em thù nghịch (thờt Trịnh-Nguyễn phân
tranh), để rồi rơi vào một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn khốc liệt, chính
Lời Chúa đã mang lại một an ủi lớn lao cho các tín hữu. Trong thực tế, Lời Chúa
vẫn luôn đóng vai trò nâng đỡ đời sống luân lý và thiêng liêng của Hội Thánh
tại Việt Nam, một trong những Hội Thánh bị thử thách nhất do các cuộc bách hại
đẫm máu và những giới hạn kỳ thị. Giáo dân Việt
Lời Chúa đã được cô đọng lại và đi vào
lòng người giáo dân Việt
3. Hội Thánh Việt
Công đồng Vatican II, với cuộc canh tân
phụng vụ và Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum, dưới làn hơi thổi
mới của Thánh Thần, đã gây ra một đà lao mới mẻ và một sinh lực lớn lao trong
Hội Thánh tại Việt Nam, khi được Mẹ Hội Thánh nhìn nhận là đã trưởng thành bằng
cách thiết lập Hàng giáo phẩm địa phương cho Hội Thánh tại Việt Nam vào năm
1960.
Trong Thư mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục
Việt Nam năm 2005 với tựa đề “Sống Lời Chúa”, tại số 8, nói về việc tăng cường
vai trò ưu tiên của Kinh Thánh, các Ðức Giám Mục của chúng ta đã nhận định: “Yêu
mến Kinh Thánh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến sách Kinh Thánh, mà còn là
siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời sống cụ thể của mình. Nói
cách khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm hướng đi cho
cuộc đời”. Với nhận định trên, các vị Chủ chăn cho thấy lòng “yêu mến Kinh
Thánh” là điểm son của người tín hữu chúng ta.
a) Phiên dịch và phổ biến bản văn Kinh
Thánh
Chính phát xuất từ lòng yêu mến này, mà
đã có những nỗ lực không nhỏ trong Giáo Hội Việt
Nỗ lực của Nhóm Phiên dịch CGKPV trong
việc phiên dịch và xuất bản, phổ biến Kinh Thánh rất đáng được trân trọng. Nhóm
đã hình thành vào năm 1971, nghĩa là 6 năm sau khi Dei Verbum ra đời; và
đã kiên trì làm việc trong lãnh vực phiên dịch và chú thích toàn bộ Kinh Thánh
cho tới nay, liên tục 38 năm miệt mài với công trình phiên dịch. Một vài thành
quả phổ biến Kinh Thánh của Nhóm này tính cho đến đầu tháng 3 năm 2009 là đã
dịch và xuất bản các sách: Ngũ Thư; Lịch sử; Ngôn sứ; Giáo huấn; Bốn Sách Tin
Mừng; Ðối chiếu Bốn Sách Tin Mừng; Kinh Thánh trọn bộ có dẫn nhập và chú thích
đơn giản; Kinh Thánh trọn bộ cỡ lớn để trưng; Tân Ước có dẫn nhập và chú thích
đơn giản; Lời Chúa trong Thánh lễ; Lời Chúa cho mọi người với dẫn nhập và chú
thích của Bernard Hurault và Louis Hurault (Kinh Thánh trọn bộ và Tân Ước); Kể
chuyện Kinh Thánh cho trẻ em (6-9 tuổi) dịch từ bản văn của Pat Alexander; Kể
chuyện Kinh Thánh cho thiếu niên (10-15 tuổi) dịch từ bản của Pat Alexander; và
trong năm 2008, Nhóm xuất bản cuốn Tân Ước với dẫn nhập và chú thích có hiệu
đính[8].
Trước năm 1975, tại miền Nam Việt Nam,
đã có phong trào “mỗi quân nhân một Tân Ước”, cốt đưa Lời Chúa vào trong các
gia đình binh sĩ Công giáo; bản văn Tân Ước được dùng lúc đó là bản dịch của
cha Nguyễn Thế Thuấn. Ðến nay, người công giáo Việt
b) Học hỏi và chia sẻ Lời Chúa
Nhiều giáo dân, nhất là 52.500 giáo lý
viên rải rác tại mọi giáo xứ của đất nước, tạo thành những nhóm học hỏi và chia
sẻ Lời Chúa, và ngày càng quan tâm hơn đến việc đào tạo giáo lý và thần học. Có
những thủ bản ra đời như “Phương pháp Chia sẻ Phúc âm - Tài liệu huấn luyện
các linh hoạt viên nhóm chia sẻ” giúp đào tạo các linh hoạt viên nhóm chia
sẻ theo “phương pháp bảy bước”. Các nhóm chia sẻ Lời Chúa cũng được giúp làm
quen với “phương pháp Ðọc, Suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện” (= Lectio divina).
Ngoài các Ðại Chủng viện giáo phận vẫn
cung cấp các giáo trình tốt về Kinh Thánh cho các linh mục tương lai, Học viện
Liên Dòng Phaolô Nguyễn Văn Bình và Trung Tâm Mục Vụ TPHCM với Chương trình đào
tạo giáo dân cũng là những nơi phát hành các giáo trình Kinh Thánh với nhiều
trình độ, giúp cho anh chị em tu sĩ và giáo dân có cơ hội hiểu rõ hơn bản văn
cũng như tiếp thu được các phương pháp đọc Kinh Thánh. Sau 1975, Liên Tu Sĩ
TPHCM ra đời. Trong thời gian đầu, các bài suy niệm từ Lời Chúa do một số thành
viên trong Liên Tu Sĩ viết, đã là một lương thực quý báu cho các linh mục và tu
sĩ Dòng.
Các sách soạn thảo hoặc các bản dịch các
bài giảng ngày Chúa Nhật, thậm chí các bài gợi ý cho ngày trong tuần, vẫn đang
là những sách được phổ biến nhất nhắm đến các giáo sĩ và tu sĩ. Trong khi đó,
các nhà thơ và và nhạc sĩ công giáo cũng ra sức khai thác kho tàng giàu có
phong phú vô tận của Kinh Thánh. Dĩ nhiên, đôi khi những cảm xúc dâng trào đã
đưa các nhạc sĩ và thi sĩ đến những lời kết dệt có phần xa bản văn ; nhưng
điều này vẫn chứng tỏ là Kinh Thánh đang là nguồn cảm hứng dồi dào. Chúng ta
đứng trước một hiện tượng rất thuyết phục: không những “máu của các thánh tử
đạo” mà cả Lời Chúa được suy gẫm, được chia sẻ, được ngâm nga ca hát, được sống
và được loan báo, đang sản sinh ra các Kitô hữu mới và giúp dọn các tâm hồn
biết bao người trẻ thành miền đất tốt mà đón lấy hạt giống ơn gọi linh mục và
tu sĩ.
Ngoài ra, Kinh Thánh cũng được các Vị
Mục tử, các Dòng Tu nam, nữ và Ðại Chủng viện quan tâm rất nhiều, không những
trong việc cử hành Phụng vụ, giảng dạy, mà còn trong việc tổ chức nhiều lớp
học, khoá học về Kinh Thánh, Khoá Thường huấn cho các Linh mục trong các Giáo
phận, trong các Hội Dòng Tu sĩ.
c)
Sống Lời Chúa
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận như điều
các Ðức Giám Mục đã nói trong lá Thư Mục vụ 2005: “Nhìn chung, Kitô hữu Việt
d)
Lời chứng về việc Hội Thánh Việt Nam sống Lời Chúa tại THÐGM Thế giới XII
Một hồng ân hiếm có cho Giáo Hội Việt
Nam chúng ta: Ðức Cha Giuse Võ Ðức Minh, Giám mục phó Giáo phận Nha Trang, và
Ðức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục Giáo phận Thanh Hoá là những đại biểu
của Giáo Hội Việt Nam, cùng với Cha Vinhsơn Nguyễn Văn Bản (đã được bổ nhiệm
làm Giám mục Chánh toà Ban Mê Thuột) được chính thức tham dự Thượng Hội Ðồng
giám mục thế giới lần thứ XII vừa qua tại Rôma, họp từ ngày 5 đến 26 tháng 10
năm 2008. Khoá họp đã quy tụ 253 Nghị phụ, được tuyển chọn từ các đại biểu của
Toà Thánh, của các Hội Ðồng Giám Mục thế giới, các đại diện Bề trên thượng cấp
các Hội Dòng, v.v., quy tụ quanh Ðức Giáo Hoàng để bàn về đề tài “Lời Chúa
trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh”. Hai Ðức Cha Giuse và Cha Vinhsơn của
chúng ta đã tham gia tích cực trong các phiên họp khoáng đại cũng như những
buổi thảo luận ở tổ; các ngài đã có những đóng góp ý kiến, những bài phát biểu
thay mặt cho Giáo Hội Việt Nam về những đề tài liên quan đến “Lời Chúa là nguồn
an ủi, là sức mạnh, là ánh sáng, là nguồn hy vọng cho đời sống và sứ vụ của Dân
Chúa tại Việt Nam”. Ðặc biệt, Ðức Cha Giuse Võ Ðức Minh còn được Ban tổ chức
Thượng Hội Ðồng mời chia sẻ Lời Chúa trong bài giảng ngày 7-10-2008 liền sau
bài giảng của Ðức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI ngày 6-10-2008.
4.
Một chút lịch sử: Hội đồng Giám mục Việt Nam và trách nhiệm phổ biến Kinh Thánh
Một điều hiển nhiên, đó là các vị chủ
chăn trong Hội Thánh Việt
a) Quan hệ với Liên Hiệp Kinh Thánh
Công Giáo (LHKTCG) trước 2002
Một trong những cơ quan mà chúng ta cần
tháp nhập vào, đó là Liên Hiệp Kinh Thánh Công Giáo (Catholic Biblical
Federation “CBF”), vì cơ quan này hỗ trợ chiều hướng mục vụ Kinh Thánh, giúp
các thành viên trên thế giới phổ biến Lời Chúa có phương pháp. Vào ngày
28/11/1995, LHKTCG đã gửi Chứng chỉ công nhận HÐGMVN là thành viên chính
thức của LHKTCG; Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ là thành viên
liên kết. Lúc đầu, Ðức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nho, Giám Mục Phó Nha Trang, là
người liên lạc (contact person) với LHKTCG. Sau này, sau khi Ðức Cha Phêrô qua
đời, cha Giuse Nguyễn Công Ðoan, SJ, thay thế ngài trong nhiệm vụ liên lạc với
LHKTCG.
Vào năm 2002, Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc
và cha Giuse Nguyễn Công Ðoan, SJ, đã tham dự Ðại Hội LHKTCG lần IV tại
Liban từ 03-12/9, với chủ đề: “Lời Chúa: một phúc lành cho mọi dân tộc” - Mục
vụ Kinh Thánh trong một thế giới đa dạng.
b) Quan hệ với Liên Hiệp Kinh Thánh
Công Giáo Ðông
Là thành viên của LHKTCG thế giới, đương
nhiên chúng ta cũng sinh họat với LHKTCG Ðông Nam Á. Cụ thể là:
Ngày 14-18/2/2005, Ðại Hội Kinh Thánh
châu Á và châu Đại Dương lần IV, tại
Ngày 19-21/2/2005, Hội Thảo ÐNA về
việc Tông đồ Kinh Thánh lần IV, cũng tại địa điểm trên. Chủ đề: Ðáp trả các
thách đố về Hoà bình trong thế giới hiện đại. Cha PX Vũ Phan Long và cha Giuse
Trần Hoà Hưng, SDB, tham dự.
c) Sinh hoạt của Tổ Mục vụ Kinh Thánh
(MVKT) 2002 và Ủy Ban Kinh Thánh(UBKT)
Trong kỳ Ðại Hội 2002, HÐGMVN đã thành
lập Ủy Ban Giáo lý Ðức tin trực thuộc HÐGMVN, chọn Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc
làm Chủ tịch. Ngày 21/6/2002, UBGLÐT, với Ðức Cha Chủ tịch, đã có buổi họp đầu
tiên để xác định phương hướng.
Ngày 12/12/2002, trong lần họp tiếp
theo, UBGLÐT đã thành lập Tổ MVKT và đề nghị cha FX Vũ Phan Long, OFM,
làm tổ trưởng, cha Phêrô Nguyễn Văn Võ (ÐCV Giuse TpHCM) làm phó. Cha Ðoan SJ
đã đi sang Rôma để làm công tác của Nhà Dòng, nay cha FX Long thay mặt HÐGMVN
để liên lạc với LHKTCG. Kỳ họp này cũng xác định trách nhiệm của Tổ MVKT:
Nghiên cứu để có thể trình bày Lời Chúa dưới nhiều góc cạnh khác nhau trong
lãnh vực mục vụ. Vào lúc này, UB lưu ý: Dùng bản dịch Kinh Thánh nào cũng được,
vì HÐGMVN chưa có bản dịch chính thức; chỉ yêu cầu dùng Bản dịch được HÐGMVN
phê chuẩn để đọc trong Phụng vụ (lúc này chưa có).
Ngày 30/9/2003, Ðức Cha Chủ tịch UBGLÐT
gặp các anh chị em làm công việc phổ biến Lời Chúa, để thảo luận về các lãnh
vực mà Tổ MVKT có thể dấn thân vào: nói chung, Tổ cần suy nghĩ để vận dụng mọi
phương tiện có thể (sách vở, website, phim ảnh) để phổ biến Lời Chúa.
Ngày 15-16/3/2006, Tổ MVKT phối hợp với
Học viện Mục Vụ của Giáo phận TpHCM tổ chức hai ngày sinh hoạt về MVKT với chủ
đề: “Lời Chúa với Dân Chúa”. Ðức Cha Chủ tịch HÐGMVN, Ðức Cha Chủ tịch UBGLÐT,
Ðức Cha Giuse, Giám mục phó Nha Trang, một số Ðức Cha, và đông đảo đại diện các
nhóm trẻ các giáo phận về tham dự. Có các bài thuyết trình và các giờ thảo luận
tổ. Hai ngày sinh hoạt kết thúc bằng thánh lễ “sai đi” tối 16/3/2006.
Ngày 30/9/2006, một nhóm anh chị em đã
gặp nhau để trao đổi về những việc có thể làm. Ngày 04/11/2006, anh chị em của
Tổ gặp nhau để phân công viết bài về Tin Mừng Luca trong Năm sống Thư Mục vụ
của HÐGMVN, “Sống đạo hôm nay”. Anh chị em đã viết được mấy bài đầu; sau đó,
một phần vì anh chị em bận quá nhiều việc, phần vì có Ðức Cha chủ tịch mới, nên
muốn chờ xem ngài phác thảo ra chương trình sinh hoạt thế nào, nên đã ngưng
viết.
Ngày 03/12/2006, trang web của Tổ MVKT
được chính thức đưa vào hoạt động: www.kinhthanhvn.org.
Các bài suy niệm Lời Chúa, các gợi ý bài giảng, một số vấn đề Kinh Thánh được
đưa lên trên trang này.
Sau Hội nghị HÐGMVN tháng 9/2006, Ðức
Cha Giuse Võ Ðức Minh được bổ nhiệm làm Chủ tịch Tiểu Ban MVKT (hiểu là “Tổ”
MVKT lâu nay được trở thành Tiểu Ban Mục Vụ Kinh Thánh, ở trong UBGLÐT.
Tại phiên họp Ban Thường Vụ (mở rộng)
của HÐGMVN vào tháng 8-2007, Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc, Chủ tịch UBGLÐT và Ðức
Cha Giuse Võ Ðức Minh, Chủ tịch Tiểu Ban Mục vụ Kinh Thánh, đề nghị tách Tiểu
Ban Mục vụ Kinh Thánh ra khỏi UBGLÐT và thành lập Ủy Ban Kinh Thánh để UB mới
này vừa có thể đẩy mạnh việc học hỏi, nghiên cứu vừa phổ biến Lời Chúa rộng rãi
hơn. UB Kinh Thánh đang vừa quy tụ các chuyên viên Kinh Thánh và những anh chị
em yêu thích Lời Chúa lại để cộng tác với nhau mà phổ biến Lời Chúa vừa tận
dụng các phương tiện truyền thông mà đưa Lời Chúa đến mọi nơi và mọi tầng lớp
Dân Chúa.
5.
Ðịnh hướng cho tương lai
(1)
Giúp Dân Chúa tôn kính Lời Chúa như Mình Thánh Chúa
Trong chương VI của Hiến chế tín lý về
Mặc khải Dei Verbum, Công đồng Vatican II mở rộng kho tàng Lời Chúa cho
mọi sinh hoạt của Hội Thánh, cũng như cho mọi thành phần Dân Chúa trong Hội
Thánh. Với tựa đề “Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội”, ở số 21 của Dei
Verbum, các Nghị phụ đã viết như sau: “Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh
như chính Thân thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy
bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để
ban phát cho các tín hữu. Cùng với Thánh Truyền, Kinh Thánh đã và đang được
Giáo Hội xem như quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh ứng
và đã được ghi chép một lần cho muôn đời, Kinh Thánh phân phát cách bất di bất
dịch lời của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các
Ngôn Sứ cùng các Tông Ðồ. Bởi vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như
chính Ðạo thánh Chúa Kitô phải được Kinh Thánh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Thực
thế, trong các Sách thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp
gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng
có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo
Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu
cho con cái Giáo Hội. Bởi thế, lời nói sau đây thật xứng hợp cho Kinh Thánh:
“Thực vậy, Lời Thiên Chúa sống động và linh nghiệm” (Dt 4, 12), “có
khả năng gây dựng và ban gia tài cho mọi người đã được thánh hoá” (Cv 20,
32; 1 Tx 2, 13)”. Thật là kỳ diệu, khi Công đồng quả quyết: “Giáo Hội luôn
tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể của Chúa”. Tưởng không có lời tuyên
xưng nào long trọng và cao quý hơn lời này mà Công đồng dành cho Kinh Thánh. Từ
lời tuyên xưng này mà nẩy sinh ra trong lòng Giáo Hội từ ngữ “bàn tiệc Lời
Chúa” bên cạnh “bàn tiệc Thánh Thể”.
Nhà thần học Lawrence Cunningham, giáo
sư Thần học tại Ðại học Notre Dame, USA, trong hội nghị với các Ðức Giám Mục
Hoa Kỳ, được tổ chức tháng 6 năm 2005, tại Ðại học Notre Dame (South Bend,
Ind.), nhằm đánh dấu kỷ niệm 40 năm Hiến chế Dei Verbum, đã có một bài thuyết
trình thật đặc sắc[9]. Ông nói: “Ðiều gây ấn tượng chớ không làm ngạc nhiên, là
chương VI của Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum, thường sử dụng những hình
ảnh của ăn và dinh dưỡng khi nói về Kinh Thánh”.
Từ xưa, trong Giáo Hội, chúng ta đã quen
với Mình Thánh Chúa Giêsu như là lương thực nuôi dưỡng người tín hữu. Nay, Công
đồng lại viết: “Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa
cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu” (ex mensa
tam verbi Dei quam Corporis Christi panem vitae). Làm sao Lời Chúa trở nên
“bánh ban sự sống”, trở nên lương thực để nuôi dưỡng Dân Chúa? Công đồng chỉ rõ
cho các tín hữu biết, qua kinh nghiệm ngàn đời trong Hội Thánh, khi chuyên cần
lắng nghe lời rao giảng trong Hội Thánh đã được Kinh Thánh soi sáng và nuôi
dưỡng (nutriatur), thì Lời Chúa trở nên lương thực cho chính bản thân
của mình; khi đó, Lời Chúa không những là của ăn nuôi dưỡng linh hồn (animae
cibus), mà còn là nguồn nước tinh sạch cho đời sống thiêng liêng (vitae
spriritualis fons purus). Hội Thánh, trong tư cách là Hiền Thê của Ngôi Lời
nhập thể, luôn thụ giáo với Chúa Thánh Thần, để hiểu biết ngày càng sâu rộng
hơn về Kinh Thánh, mà không ngừng thi hành sứ mạng của người Mẹ hiền “lấy Lời
Chúa nuôi dưỡng (pascat) con cái mình”.
Ðây chính là Ðề nghị 7 THÐGMTG
XII trình lên Ðức giáo hoàng: “Lời Chúa trở thành xác thịt bí tích trong biến
cố Thánh Thể và đưa Kinh Thánh tới chỗ hoàn tất. Thánh Thể là nguyên lý giải
thích của Kinh Thánh, cũng như Kinh Thánh soi sáng và giải thích mầu nhiệm
Thánh Thể. Trong chiều hướng này, các Nghị phụ ước mong rằng một suy tư thần
học sẽ được cổ võ về phương diện bí tích của Lời Chúa. Nếu không có sự nhận
biết sự hiện diện thực hữu của Chúa trong Thánh Thể, sự hiểu biết về Kinh Thánh
vẫn chưa được hoàn tất”.
(2) Giúp Dân Chúa gặp được Chúa Giêsu
Ngôi Lời, để đi đến những thay đổi đời sống
Cần phải giúp
cho giáo dân gặp được chính Ðức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, trong Kinh Thánh,
chứ không chỉ đọc Kinh Thánh như những lời kỷ niệm vô hồn (Ðề nghị 9).
Như vậy phải giúp họ cầu nguyện bằng Lời Chúa (Ðề nghị 22). Cũng cần
phải giúp người tín hữu gặp được Lời Chúa như thế trong Phụng vụ (Thánh Thể và
Các Giờ kinh: Ðề nghị 14). Khi đã gặp được Ðức Giêsu là sức mạnh giao
hoà và hoán cải Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại, người tín hữu sẽ thay đổi đời
sống: “Trong những thời gian xung đột đủ loại và căng thẳng giữa các tôn giáo,
trung thành với công trình hoà giải Thiên Chúa đã thực hiện nơi Ðức Giêsu,
người công giáo dấn thân vào việc cống hiến những tấm gương về hoà giải, bằng
cách tìm cách chia sẻ những giá trị nhân bản, luân lý và tôn giáo như nhau
trong các tương quan của họ với Thiên Chúa và với người khác. Họ tìm cách xây
dựng một xã hội công bình và hoà bình”. Như thế họ chứng tỏ được rằng Lời Chúa
đã thật sự đi sâu vào đời sống họ (Ðề nghị 8).
(3) Nhấn mạnh việc chuyên cần đọc và học
hỏi Kinh Thánh
Ðể “Lời Chúa trở nên đèn rọi bước
chân, ánh sáng cho nẻo đường đi” (Tv 119, 105) của người tín hữu, Công đồng
đã khuyên nhủ mọi tín hữu chuyên cần và siêng năng đọc Lời Chúa: “Vì
thế, tất cả các giáo sĩ, trước hết là các linh mục của Chúa Kitô và những người
có bổn phận phục vụ Lời Chúa, như các Phó tế và những người dạy giáo lý, phải
gắn bó với Kinh Thánh nhờ việc chăm đọc và ân cần học hỏi, để khi họ truyền đạt
kho tàng bao la của Lời Chúa, nhất là trong Phụng vụ thánh, cho các giáo hữu
được ủy thác cho họ, không ai trong họ sẽ trở thành “kẻ huênh hoang rao giảng
Lời Thiên Chúa ngoài môi miệng bởi không lắng nghe Lời Thiên Chúa trong lòng”.
Thánh Công Đồng cũng tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu, cách
riêng các tu sĩ, hãy năng đọc Kinh Thánh để học biết “khoa học siêu việt của
Chúa Kitô” (Pl 3, 8). Vì “không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”.
Việc năng đọc Kinh Thánh, trong truyền thống ngàn đời của Giáo Hội -
trước kia đặc biệt dành riêng cho các Ðan viện - được gọi là Lectio divina
(việc đọc sách Kinh Thánh). Ðức Hồng Y Carlo Maria Martini, SJ, qua kinh nghiệm
bản thân là nhà nghiên cứu, là bậc thầy nổi tiếng về Kinh Thánh và là mục tử
sáng chói ở Giáo phận Milano trong nhiều thập kỷ vừa qua, chia sẻ cho chúng ta
phương pháp của ngài về việc đọc sách thánh cho hữu ích qua 3 quá trình:
lectio, meditatio, contemplatio (đọc, suy gẫm, chiêm niệm). Ðây là Ðề nghị 9
của THÐGM XII.
Song song với việc chuyên đọc và học hỏi
Kinh Thánh của người tín hữu, cần có sự trợ giúp của các mục tử trong việc đào
tạo Kinh Thánh cho người giáo dân. Ðề nghị 33 của THÐGM XII nói rằng:
“Rất nên ao ước là trong mỗi miền văn hoá được thiết lập những trung tâm đào
tạo Lời Chúa cho các giáo dân và các nhà thừa sai, tại đó, người
ta học để hiểu biết, để sống và loan báo Lời Chúa. Ngoài ra, tùy theo các nhu
cầu khác nhau, phải thiết lập các học viện chuyên môn về nghiên cứu Kinh Thánh
cho các nhà chú giải, để họ có một sự hiểu biết thần học vững chắc và họ nhạy
cảm với các bối cảnh của sứ mạng của họ. Ðiều này cũng có thể thực hiện được
bằng cách cứu xét lại hoặc củng cố các cơ cấu hiện có, như các chủng viện hoặc
các phân khoa. Cuối cùng, cần phải cung cấp một nền đào tạo tương hợp về các
ngôn ngữ Kinh Thánh, cho những người sẽ dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ hiện
đại khác nhau”.
(4) Cung cấp những bản dịch tốt bằng
ngôn ngữ bản xứ
Thật vậy, Công đồng đã nêu ra một nguyên
lý vững vàng: “Mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính Ðạo thánh
Chúa Kitô phải được Kinh Thánh nuôi dưỡng và hướng dẫn” (MK 21).
Chính vì thế, Công đồng long trọng tuyên bố: “Phải mở rộng lối vào Kinh
Thánh cho các Kitô hữu” (MK 22). Do đó, cần tạo điều kiện cho các
tín hữu tiếp cận với Lời Chúa trong Kinh Thánh, lý tưởng nhất là trong chính
nguyên bản, được viết bằng tiếng Do-thái và A-ram (bộ sách Cựu Ước) và bằng
tiếng Hy-lạp (bộ sách Tân Ước); trên thực tế, cần tạo điều kiện để có những
bản phiên dịch tốt, có chất lượng ra tiếng bản xứ, đặc biệt dịch từ nguyên
bản. Giải thích điều này, chính Công đồng đã nói rõ: “Chính vì thế mà từ
buổi đầu, Giáo Hội đã công nhận như của riêng mình bản dịch Cựu Ước bằng tiếng
Hy-lạp, một bản văn rất cổ và được gọi là bản Bảy Mươi. Ngoài ra Giáo Hội luôn
coi trọng các bản dịch của Ðông Phương hay các bản dịch latinh, nhất là bản
thường gọi là bản “Phổ thông”. Vì phải đem Lời Chúa đến cho mọi thời
đại, Giáo Hội như một người mẹ ân cần lo liệu cho các sách thánh được dịch ra
các thứ tiếng cách thích hợp và đúng đắn, đặc biệt dịch từ nguyên bản. Mọi Kitô
hữu có thể sử dụng những bản dịch được thực hiện chung với cả những anh em ly
khai trong trường hợp thuận tiện và được Giáo quyền chấp thuận” (MK
22). Dịch Kinh Thánh ra tiếng bản xứ, mới chỉ là bước khởi đầu, lối vào Kinh
Thánh cho các Kitô hữu còn cần phải có các môn học chuyên về Kinh Thánh,
thường được gọi là dẫn nhập vào Kinh Thánh, chú giải Kinh Thánh, v.v. Học Viện
Kinh Thánh Giáo Hoàng ở Rôma đã được Ðức Thánh Cha Piô X thiết lập vào năm
1909, mục đích đào tạo những chuyên viên về Kinh Thánh trong Hội Thánh; rồi
nhiều Phân khoa, Học viện về Kinh Thánh cũng được thiết lập tại Giêrusalem cũng
như tại một số nơi khác. Tất cả những Học viện và Phân Khoa này thực hiện quyết
tâm của Giáo Hội trong tư cách là “Hiền Thê của Ngôi Lời nhập thể, được Chúa
Thánh Thần dạy dỗ, hằng cố gắng hiểu biết Kinh Thánh ngày càng sâu rộng hơn,
hầu không ngừng lấy Lời Chúa nuôi dưỡng con cái mình. Do đó, Giáo Hội có lý khi
khuyến khích việc học hỏi các Thánh Giáo Phụ Ðông Phương và Tây Phương cũng như
Phụng vụ thánh. Thánh Công đồng khuyến khích con cái Giáo Hội đang chuyên cần
học hỏi những khoa học Kinh Thánh, hãy tiếp tục theo đuổi công trình đã khởi sự
cách tốt đẹp với những năng lực ngày được đổi mới, và bằng tất cả hăng say hợp
với cảm thức của Giáo Hội” (MK 23). Ngoài ra, Công đồng cũng lập lại
điều mà Ðức Thánh Cha Lêô XIII, trong Thông điệp Providentissimus Deus đã
nói “Kinh Thánh là Linh hồn của Khoa Thần học thánh”; vì Kinh Thánh chứa
đựng Lời Chúa và vì được linh hứng, nên thực sự là Lời Chúa. Do đó, “Khoa
Thần học thánh dựa trên Kinh Thánh và Thánh Truyền như dựa vào một nền tảng
vĩnh cửu. Trên nền tảng này, thần học được củng cố, trở nên vững chắc và được
trẻ trung mãi, trong khi tìm kiếm, dưới ánh sáng đức tin, tất cả chân lý tiềm
ẩn trong Mầu nhiệm Chúa Kitô” (MK 24). Chính trong buổi tiếp kiến
các đại biểu tham dự Khoá hội nghị về Kinh Thánh vừa qua ở Rôma, Ðức Thánh Cha
cũng có một nhận định tương tự: “Lời Chúa không già cỗi bao giờ; vì thế,
Giáo Hội cần được đổi mới không ngừng”. Công đồng cũng không quên nhắc nhở
những ai thi hành “thừa tác vụ Lời Chúa - nghĩa là việc rao giảng mục vụ,
dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trong đó bài giảng phục vụ phải
chiếm một chỗ quan trọng - phải được nuôi dưỡng lành mạnh và gia tăng sinh lực
cách thánh thiện nhờ lời Kinh Thánh” (MK 24).
(5) Trau dồi bài giảng, bằng cách học
hỏi Lời Chúa và cầu nguyện
Muốn cho Lời Chúa đến được với các tín
hữu trong tình trạng tốt nhất, chúng ta không thể nào không nghĩ đến bài giảng
(homélie). Có biết bao thừa tác viên đã nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng
của các tín hữu bằng Lời Chúa được trình bày sống động, phong phú, mà luôn tôn
trọng được bản chất của Lời. Nhưng cũng không thiếu thừa viên đã để cho các
công việc khác lấn chiếm, nên việc giảng Lời Chúa trong thánh lễ đã trở thành
một việc chiếu lệ.
THÐGM XII đã lưu ý là các thừa tác viên
phải hiện tại hóa Lời Chúa trong bài giảng và đề nghị cho soạn một “Cẩm nang về
bài diễn giảng”. Lời Chúa được hiện tại hoá đưa người tín hữu đến mầu nhiệm
được cử hành, mời ra đi truyền giáo và chia sẻ niềm vui và những đau đớn, các
hy vọng và các nỗi sợ hãi của các tín hữu (Ðề nghị 15). THÐGM đề nghị là
các vị giảng thuyết (giám mục, linh mục, phó tế) phải dọn lòng trong cầu
nguyện, để cho các ngài rao giảng cách xác tín và say mê. Các ngài phải đặt ra
cho mình ba câu hỏi: (1) Các bài đọc nói gì? (2) Các bài đọc nói gì với riêng
tôi ? (3) Tôi phải nói gì với cộng đoàn, trong tình trạng cụ thể của cộng
đoàn này?
Vị giảng thuyết trước hết phải để cho
Lời Chúa mà mình loan báo thôi thúc, cật vấn mình. Bài giảng phải được nuôi
dưỡng bằng giáo lý và truyền đạt giáo huấn của Hội Thánh để củng cố đức tin,
kêu gọi hoán cải trong khung cảnh cuộc cử hành và chuẩn bị đi vào cuộc hoàn tất
mầu nhiệm Vượt Qua trong cử hành Thánh Thể. Chúng ta chờ đợi đề nghị của các
Nghị phụ nên thành sự: làm một quyển Cẩm nang về bài giảng để trình bày các
nguyên tắc của thuyết giảng và nghệ thuật truyền thông, nhất là nội dung các
chủ đề Kinh Thánh thường có trong các Sách Bài đọc được sử dụng trong Phụng vụ.
(6) Quan tâm đưa Lời Chúa hội nhập vào
trong môi trường văn hoá
Chúng ta không thể nào phủ nhận yếu tố
hội nhập văn hoá trong công việc phổ biến Lời Chúa.
Mặc khải được thành hình nhờ kín múc
trong các nền văn hoá khác nhau của loài người những giá trị trung thực khả dĩ
diễn tả chân lý, mà để cứu độ chúng ta, Thiên Chúa đã thông tri cho loài người
(x. MK 11). Quả thế, Lời Chúa, trong tư cách là Mặc khải, đã nhấn chìm
vào trong các nền văn hoá sự hiểu biết chân lý, mà nếu làm cách khác, chân lý
này hẳn là sẽ không được biết đến và đã tạo ra sự tiến bộ và phát triển về văn
hoá. Lệnh truyền Chúa đã ban cho Hội Thánh là loan báo Tin Mừng cho mọi loài
thọ tạo (x. Mc 16,15) hàm chứa việc gặp gỡ của Lời Chúa với tất cả các dân tộc
trên trái đất và nền văn hoá của họ. Ðiều này giả thiết là cũng có một tiến
trình hội nhập văn hoá của Lời Chúa, đã xảy ra trong Mặc khải.
Như thế, Lời Chúa phải thấm nhập vào mọi
môi trường sao cho văn hoá sản sinh ra những cách diễn tả độc đáo sự sống,
phụng vụ, tư tưởng Kitô giáo. Những đức tính của mọi thời như được Lời Chúa làm
cho phong phú từ bên trong, được củng cố, bổ túc, và tái tạo trong Chúa Kitô (MV
58), và bằng cách đó gợi ra những cách thức mới diễn tả đời sống Kitô hữu.
Nhằm một việc hội nhập văn hoá trung
thực sứ điệp Tin Mừng, ta phải đảm bảo việc đào tạo các nhà truyền giáo bằng
những phương tiện thích hợp để hiểu biết tận chiều sâu môi trường sống, hoàn
cảnh văn hoá xã hội, sao cho họ có thể tháp nhập vào trong môi trường, trong
ngôn ngữ cũng như trong các nền văn hoá bản địa. Trách nhiệm đầu tiên của Hội
Thánh địa phương là làm cho sứ điệp Tin Mừng có thể hội nhập văn hoá trung
thực, trong khi dĩ nhiên vẫn lưu ý đến nguy cơ chiết trung. Phẩm chất của công
việc hội nhập văn hoá tùy thuộc mức độ chín chắn của cộng đoàn có nhiệm vụ loan
báo Tin Mừng.
Kết luận
1. Lời Chúa, nguồn Hy vọng
Ðể kết thúc, chúng ta nên nhìn lại quá
khứ một chút, để rồi nhìn về tương lai với niềm hy vọng: sau Năm Thánh Mẫu của
Hội Thánh toàn cầu năm 1985 và sau lễ phong hiển thánh 117 vị Tử đạo Việt Nam
vào năm 1988, người ta ghi nhận có một hiện tượng bất ngờ: một con số đông các
dân tộc thiểu số rải rác trên các vùng đồi núi của đất nước chúng ta, đã hàng
loạt trở lại đạo Công giáo hoặc các giáo phái Tin Mừng và Tin lành: người
Mường, người H’mong... tại miền Bắc ; người Bana, Sêđang, Giarai... tại
giáo phận Kontum; người K’Ho, người Churu trong giáo phận Ðà Lạt. Bí mật của
hiện tượng này, chính là sức thu hút phi thường của Lời Chúa. Nhiều
người mới trở lại với đức tin công giáo đã tuyên bố rằng họ vẫn nghe đều đặn
các chương trình phát thanh hằng ngày của Ðài Phát thanh ở Manila, phổ biến sứ điệp
Kinh Thánh và Tin Mừng. Chính các hoàn cảnh ngẫu nhiên đã dẫn đưa họ đến với
Hội Thánh Công giáo. Có những người đã nghe các bài suy niệm Kinh Thánh được
Ðài Phát thánh Chân lý Á châu, cũng ở tại Manila, phổ biến và đã trực tiếp tìm
ra nẻo đường về với Hội Thánh Công giáo. Các giáo phận Kontum, Ban Mê Thuột, Ðà
Lạt và Nha Trang, tại đó, các dân tộc thiểu số chiếm một tỷ lệ quan trọng về
dân số, đã lên cả một chương trình truyền giáo có tổ chức chặt chẽ, năng động
và hữu hiệu. Một trong các mục tiêu ưu tiên là dịch Kinh Thánh ra ngôn ngữ địa
phương. Cho tới nay, người ta đã xuất bản Tân Ước bằng tiếng H’mong tại Hưng
Hoá; bằng tiếng Bana, tiếng Sêđang, tiếng Giarai tại Kontum; tiếng K’Ho tại Ðà
Lạt; tiếng Raglai tại Nha Trang. Lời Chúa mở âm thầm nhưng hữu hiệu con đường
hy vọng cho các dân tộc thiểu số đang ở giữa những dân tộc nghèo nhất của đất
nước. Niềm vui và sự hãnh diện được lắng nghe Lời Chúa trực tiếp bằng tiếng mẹ
đẻ và đáp trả Lời Chúa bằng những bài ca và những lời kinh đã được thích ứng với
tinh thần của nền văn hoá của họ củng cố thêm chân tính văn hoá của họ và góp
phần thật sự vào việc phát triển họ toàn diện. Những người Việt, còn được gọi
là người “Kinh”, chiếm 85% dân số của toàn đất nước, cũng đã sống một kinh
nghiệm tương tự khi trở thành Kitô hữu.
2. Huyền nhiệm Thánh Giá
Lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam đã cho
thấy các hoa trái phong phú tuyệt vời của huyền nhiệm Thánh Giá được đã
được sống và được chuyển cho Dân Kitô hữu bởi vị giám mục đầu tiên, Ðức Cha
Pierre Lambert de la Motte. Lời cứu chuộc của Thiên Chúa, diễn tả tình yêu cứu
chuộc lớn lao nhất của Ngài (x. Ga 3,16), đạt tới đỉnh cao trong mầu nhiệm
Thánh Giá, nguồn an ủi, sức mạnh và khôn ngoan (x. 1 Cr 1,22-25). Tình yêu đối
với Thánh Giá đã được tỏ ra mạnh mẽ và gắn bó trong lòng của các Thánh Tử đạo
Việt Nam, đến nỗi các ngài đã sẵn sàng chết vì tình yêu đối với Ðức Chúa chịu
đóng đinh của các ngài hơn là chà đạp dấu chỉ ơn Cứu chuộc dưới chân. Lời cứu
chuộc này cô đọng trong quyển sách Thánh Giá đã đào luyện ra một đoàn các chứng
nhân - các vị tử đạo theo nguyên ngữ - trước tiên là những chứng nhân về niềm
hy vọng. Quả thật, khi hy sinh mạng sống các ngài trên mặt đất, các ngài hy
vọng tìm lại được sự sống vĩnh cửu trên trời (x. Ga 12,25) ; khi từ chối
chà đạp Thánh Giá dưới chân, các ngài hy vọng khuyến khích được con cháu hoặc
những anh chị em đồng đạo sống trung thành với đức tin ; khi chấp nhận
chịu bách hại và chết như Chúa mình, các ngài hy vọng trở thành hạt lúa mì rơi
xuống đất, chết đi và mang lại hoa trái dồi dào (x. Ga 12,24). Và trong thực
tế, máu các ngài đổ ra, được Lời Chúa đã được suy gẫm và cầu nguyện làm cho nên
phong phú, đang mang lại hoa trái dồi dào, mà các dấu chỉ nhận ra được hôm nay
là đời sống đức tin mạnh mẽ của Dân Thiên Chúa và con số ngày một gia tăng các
ơn gọi tu sĩ và linh mục tại quê hương. Tất cả các thánh Tử đạo chúng ta, trước
khi bị hành hình, đã xin phép được cầu nguyện, thay vì ăn một bữa ăn thịnh sọan
người ta cho như một dấu chỉ về lòng nhân đạo in extremis theo luật hình sự
Việt
Cũng thế, đau khổ không chỉ là một nơi
khác để học tập về niềm hy vọng, mà còn được biến đổi bởi sức mạnh của niềm hy
vọng, phát xuất từ đức tin, thành lời kinh ca ngợi và tạ ơn. Ðể minh họa phương
diện này, Ðức Thánh Cha đã trích trong Thông điệp Spe salvi cả một đoạn
từ bức thư nổi tiếng của thánh tử đạo Phaolô Bảo Tịnh [12].
* * *
Nhìn lại biết bao điều kỳ diệu trong Hội
Thánh kể từ ngày Thánh Công đồng công bố Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei
Verbum thời gian hơn 40 năm qua, chúng ta chỉ biết dâng lời chúc tụng, tôn
vinh, cảm tạ Thiên Chúa Ba Ngôi đã đoái thương ban cho Hội Thánh kho tàng mặc
khải vô cùng quý báu ẩn chứa nơi bộ Kinh Thánh; để nhờ đó, chúng ta khám phá ra
điều mà Mẹ Maria đã tuyên bố trong lời kinh Magnificat: “Lòng nhân
nghĩa Chúa trải qua đời nọ đến đời kia, trên những kẻ kính sợ Chúa”; và
trong tư cách là con cái của Hội Thánh Việt Nam, chúng ta sẽ mãi mãi hiệp thông
với mọi thành phần Dân Thiên Chúa thuộc mọi thời đại trên toàn thế giới, để “thành
kính lắng nghe Lời Thiên Chúa mà có thể tin tưởng công bố Lời của Ngài” (MK
1).
––––––––––––––––––––––––
[1] Ngày 11-10-1962, Công đồng Vatican II được khai mạc bằng một
nghi thức long trọng.
[2] John Onaiyekan,
“From Dei Verbum to Novo Millennio Ineunte - The Reception
Process of Dei Verbum”, Dei Verbum 76/77 (2005) 24tt.
[3] Walter Kasper,
“The Constitution on Devine Revelation Dei Verbum”, Dei Verbum
76/77 (2005) 14tt.
[4] Paul Claudel
trong tác phẩm “L’ Ecriture Sainte dans La Vie intellectuelle” 16.
[5] X. Alexandre de Rhodes, S.J. Histoire du Royaume
de Tunquin et des grands progrez que la prédication de l’Évangile y a faits en
la conversion des Infidèles depuis l’Année 1617, jusques à l’Année 1646. A
Lyon 1651, Livre II, Chapitre XII, tr. 161-165.
[6] “Đây là linh mục
Nam bộ Việt Nam tên Louis Doan (Lữ Y Đoan), một trong những thầy giảng kỳ cựu
nhất và trí thức của Vương quốc” (Cf. A. Launay,
Histoire de la Mission de Cochinchine. Documents historiques I (1658-1728),
Paris 1923, tr.197.
[7] X. Jean-Paul II, Rosarium Virginis
Mariae, s. 21.
[8] Xin ghi lai đây
một vài con số: Ngũ Thư (3.000 cuốn); Lịch sử (3.000 cuốn); Ngôn sứ (3.000
cuốn); Giáo huấn (3.000 cuốn); Bốn Sách Tin Mừng (20.000 cuốn); Ðối chiếu Bốn
Sách Tin Mừng (10.000 cuốn); Kinh Thánh trọn bộ có dẫn nhập và chú thích đơn
giản (200.000 cuốn); Kinh Thánh trọn bộ cỡ lớn để trưng (500 bản); Tân Ước có
dẫn nhập và chú thích đơn giản (1.535.000 cuốn); Lời Chúa trong Thánh lễ
(80.000 bản); Lời Chúa cho mọi người với dẫn nhập và chú thích của Bernard
Hurault và Louis Hurault (Kinh Thánh trọn bộ: 20.000 bản; Tân Ước: 45.000 bản);
Kể chuyện Kinh Thánh cho trẻ em (6-9 tuổi) dịch từ bản văn của Pat Alexander
(10.000 bản); Kể chuyện Kinh Thánh cho thiếu niên (10-15 tuổi) dịch từ bản của
Pat Alexander (10.000 bản).
[9]
http://www.freewebs.com/nguyensj/NamLoiChua/DocKTvaCN.htm
[10] Đây là quyển
sách nhỏ quý báu “Prières d’espérance” (x. Spe salvi, s. 32) và
quyển Linh thao của ngài mang tựa đề Témoins de l’espérance”, Montrouge,
Cité Nouvelle (2000) (x. Spe salvi, s. 34).
[11] X. Bênêđitô XVI, Spe salvi, s. 32.
[12] X. Spe salvi,
s. 37.
UB Kinh Thánh / HĐGMVN