HỘI ĐỒNG
GIÁM MỤC VIỆT
THƯ CHUNG
HẬU ĐẠI
HỘI DÂN CHÚA 2010
GỬI TOÀN
THỂ
CỘNG ĐỒNG
DÂN CHÚA VIỆT
CÙNG NHAU
BỒI ĐẮP NỀN VĂN MINH
TÌNH THƯƠNG VÀ SỰ SỐNG
2011
Tựa đề Thư chung
“Cùng nhau bồi đắp
nền văn minh tình thương và sự sống”
trích từ Kinh Đức Mẹ
La Vang
Kính gửi:
Toàn thể Cộng đồng Dân
Chúa Việt
DẪN NHẬP
1.
Cử hành Năm Thánh kỷ niệm 350 năm thiết lập hai địa phận tông tòa đầu tiên Đàng
Trong và Đàng Ngoài, 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm, Giáo Hội tại Việt Nam
dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân, đồng thời nỗ lực đào sâu
và làm tăng trưởng đức tin cũng như hâm nóng lại nhiệt tình loan báo Tin Mừng.[1]
Trong tâm tình đó, ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 24.11.2009, cộng đoàn tín
hữu Việt Nam đã long trọng khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện thuộc Tổng giáo phận
Hà Nội. Sau một năm chuẩn bị, Đại Hội Dân Chúa được tổ chức tại Trung Tâm Mục
Vụ thuộc Tổng giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh từ ngày 21 đến 26.11.2010. Cuối
cùng, lễ Bế Mạc Năm Thánh được cử hành trọng thể tại Trung Tâm Hành Hương Đức
Mẹ La Vang thuộc Tổng giáo phận Huế ngày lễ Hiển Linh 06.01.2011.
2. Để phát huy những thành quả của Năm
Thánh, Hội Đồng Giám Mục Việt
3. Dưới ánh sáng Tin Mừng, Thư Chung
này trước hết trình bày sơ lược về hiện trạng quê hương, nơi người Công Giáo
Việt
Chương I
HIỆN TRẠNG XÃ HỘI VIỆT
“Cảnh
sắc đất trời thì các người biết nhận xét,
còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét” (Lc 12, 56).
4. Được mời gọi tìm kiếm Thánh ý Thiên
Chúa qua những dấu chỉ thời đại, Giáo Hội tại Việt
Hiện
nay Việt Nam đang hòa nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, cụ thể qua việc
tham gia các tổ chức khu vực như Khối Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) và quốc tế
như Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Việt Nam thu hút đầu tư của các tập đoàn
kinh tế trong và ngoài nước với những kỹ thuật hiện đại, tạo thêm công ăn việc
làm cho dân chúng và làm cho đất nước mang dáng dấp một quốc gia đang phát
triển.[3] Người dân được tiếp cận với những thông tin và thành quả đa dạng về
khoa học kỹ thuật, mở ra những cơ hội cho một phong thái làm việc mới.[4]
Tuy
nhiên, vì chưa được chuẩn bị đầy đủ để bước vào tiến trình toàn cầu hóa nên
Việt
5. Hiện trạng kinh tế ấy kéo theo nhiều
thay đổi trong xã hội Việt
Giới
trẻ Việt
6. Nền kinh tế thị trường phần
nào đã giúp cho đất nước phát triển. Tuy nhiên, chủ trương tập quyền, những
chính sách bất cập và luật pháp chưa nghiêm minh, qui chế ưu đãi cho một thiểu
số đặc quyền, nạn tham nhũng, v.v.... tạo nên lối sống ích kỷ, đùn đẩy trách
nhiệm và thiếu quan tâm đến công ích. 10] Ngoài ra, các tôn giáo cũng như nhiều
người thiện chí vẫn chưa có điều kiện pháp lý để đóng góp tích cực vào việc xây
dựng đất nước, cách riêng trong lãnh vực giáo dục, y tế và bác ái.
7. Truyền thống văn hóa Việt
8. Thừa hưởng truyền thống tôn giáo
Á Đông, được biểu lộ qua những hình thức tín ngưỡng đa dạng, người Việt
9. Những phân tích trên cho thấy sự
tương tác mật thiết giữa các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa và đời sống tôn
giáo.[16] Một mặt, sự phát triển hiện nay đã tác động sâu rộng trên đời
sống đức tin và luân lý. Mặt khác, sự thăng tiến con người toàn diện và sự phát
triển bền vững của xã hội phải được đặt nền trên những giá trị đạo đức và tôn
giáo.[17]
Đây
quả là một thách đố lớn cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội: Làm thế nào có thể
thi hành sứ mệnh yêu thương và phục vụ của Đức Kitô giữa những đổi thay không
ngừng của xã hội? Làm thế nào có thể chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho đại
đa số người Việt chưa biết Chúa Giêsu? Tuy nhiên, chính thách đố này lại trở
thành cơ hội thuận lợi thúc đẩy Giáo Hội canh tân, “tự vấn lương tâm trong tư
cách cộng đồng cũng như trong tư cách cá nhân, xem chúng ta có thể sống đức tin
thế nào cho tốt hơn và thi hành hiệu quả hơn sứ mệnh chúng ta đã lãnh nhận từ
Chúa Giêsu”.[18] Chính vì thế, trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại
Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông,
phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của
Đức Kitô trên đất nước này.
Chương II
MẦU NHIỆM GIÁO HỘI
“Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”
(Ga 15, 5).
10. Thiên Chúa không muốn cứu rỗi con người riêng
rẽ nhưng qui tụ họ thành một dân tộc,[19] một cộng đoàn,[20] một gia đình của
Ngài,[21] vượt lên trên những khác biệt về thể lý, chủng tộc, văn hóa.[22] Giáo
Hội là Dân Thiên Chúa được tuyển chọn từ ngàn xưa (x. St 17, 4-7),[23] trở
thành dấu chỉ và khí cụ của Thiên Chúa tình yêu giữa lòng lịch sử nhân loại,
một lịch sử vốn xen lẫn bóng tối và ánh sáng, đang rên xiết chờ ngày vinh quang
của con cái Thiên Chúa được tỏ hiện (x. Rm 8, 19-22).[24]
Giáo
Hội thực sự là gia đình của Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha, có Đức
Kitô là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc, và có Chúa Thánh Thần là tình yêu hiệp
thông.[25] Các tín hữu là những “người đồng hương với các người thuộc dân
thánh, và là người nhà của Thiên Chúa” (Ep 2, 19).[26] Hình ảnh Giáo Hội-Gia Đình
gần gũi với tâm thức, kinh nghiệm và suy nghĩ của tín hữu Việt Nam nói riêng và
người dân Việt nói chung.[27] Hình ảnh đó trình bày Giáo Hội như một cộng đoàn
hợp nhất yêu thương, liên đới, chung tay làm việc, chứ không nặng cơ cấu và
luật lệ, nên dễ được đón nhận hơn đối với tâm thức người Việt.[28] Do đó, cần
nghiên cứu, suy tư và trình bày Giáo Hội như gia đình của Thiên Chúa, để hội
nhập thần học Kitô giáo vào xã hội Việt Nam.[29] Trên nền tảng thần học đó, các
mục tử xây dựng những kế hoạch mục vụ “giáo xứ là gia đình của các gia
đình”,[30] canh tân cử hành phụng vụ và cầu nguyện trong bầu khí hiệp thông gia
đình, cũng như phát triển những hoạt động mục vụ gia đình.[31]
11. Được Lời Chúa qui tụ, Dân Thiên Chúa chỉ có thể
được xây dựng vững vàng trên nền tảng Lời Chúa.[32] Được lắng nghe với
lòng chân thành và kiên nhẫn, Lời Chúa sẽ trở thành nguồn sống dưỡng nuôi, ánh
sáng soi đường và sức mạnh củng cố đức tin của các tín hữu trong mọi hoàn cảnh.
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cho thấy các hình thức sống Lời Chúa qua những việc
đạo đức truyền thống như Đàng Thánh Giá, Kinh Truyền Tin, Kinh Mân Côi, Kinh
cầu nguyện sớm tối, v.v… đã nuôi dưỡng và củng cố đời sống đức tin của bao thế
hệ. Những việc đạo đức ấy thật đáng trân trọng và cần bảo tồn cũng như đổi mới
và phát huy. Đồng thời, các tín hữu Việt
Cùng
với việc học hỏi Lời Chúa, việc dạy và học giáo lý là đòi hỏi tối cần
thiết trong đời sống Giáo Hội, nhất là trong thời đại ngày nay đầy rẫy những
luồng tư tưởng nghịch với Tin Mừng.[37] Đại Hội Dân Chúa mong mỏi sớm có được
những nguyên tắc, đường hướng và chương trình chung, cũng như một thủ bản chung
về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam.[38]
Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho mọi chương trình thường huấn cũng như
đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên.[39]
12. Giáo Hội là Nhiệm Thể Đức Kitô, có Đức
Kitô là Đầu, Thủ lãnh, nguyên lý sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa.[40] Giáo Hội
được chuộc lại không phải bằng vàng bạc, nhưng bằng Máu châu báu của Đức Kitô
(x. 1 Pr 1, 18-19). Khi được qui tụ và hợp nhất quanh vị giám mục nơi bàn tiệc
Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, thông phần vào sự sống
Đức Kitô và được biến đổi nên giống Người,[41] được xây dựng thành cộng đoàn
hiệp thông huynh đệ và dấn thân rao giảng Tin Mừng.[42] Như thế, Thánh Thể
là trung tâm, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.[43]
Do đó, các mục tử phải chú tâm đến việc cử hành Thánh Thể thật sốt sắng và xứng
đáng, nhất là ngày Chúa Nhật, và hướng dẫn cộng đoàn tham dự Thánh Lễ cách ý
thức, tích cực và sống động hơn.[44] Các ngài cũng cần thúc đẩy và canh tân
việc sùng kính Thánh Thể, vốn đã từng nổi bật trong truyền thống Giáo Hội Công
Giáo tại Việt Nam.[45]
Ý
thức về thân phận tội lỗi của mình,[46] các tín hữu cần khiêm nhường thống hối
và đón nhận ơn tha thứ qua bí tích Giao Hòa, để xứng đáng là chi thể
trong Nhiệm Thể Đức Kitô. Bí tích Giao Hòa vừa là bí tích của hiện tại
qua việc tha tội vừa là bí tích của tương lai nhằm xây dựng tình hiệp thông
giữa gia đình con cái Thiên Chúa.[47] Ước mong các mục tử luôn quảng đại và sẵn
sàng hơn nữa trong việc giúp các hối nhân lãnh nhận bí tích Giao Hòa.[48]
13. Giáo Hội là Đền thờ của Chúa Thánh Thần,
được xây trên mười hai cột trụ là các tông đồ của Con Chiên (x. Kh 21, 14),
được trang hoàng bằng muôn vàn ân sủng của Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 12, 4-11;
Rm 12, 4-8), Đấng là nguyên lý hợp nhất, làm phát sinh và thúc đẩy đức ái.[49]
Trong đền thờ này, Giáo Hội kết hợp với Chúa Giêsu là Hy Tế chân thật, hiến
dâng chính mình làm của lễ thơm tho đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12, 1; Kh 8,
3-4; Tv 141, 2), dâng lên Thiên Chúa niềm tri ân và ngợi khen, cùng với những
âu lo và hy vọng của toàn thể nhân loại và tạo thành (x. Ep 5, 20; Pl 4, 6-7).
Cộng đoàn tín hữu Việt
14. Theo khuôn mẫu Ngôi Lời nhập thể, Giáo
Hội mang đặc tính vừa thần linh vừa nhân loại, trong đó những yếu tố nhân loại
phải qui hướng và lệ thuộc yếu tố thần linh.[51] Giáo Hội không phải là thực
thể duy linh cũng không phải là một tổ chức thuần túy nhân loại, nhưng nơi Giáo
Hội, “cái hữu hình là dấu chỉ và dụng cụ của cái vô hình, còn cái vô hình được
nhập thể trong cái hữu hình”.[52] Vì thế, Giáo Hội được gọi là bí tích cứu độ.
Như vậy, phẩm trật và nhiệm cục bí tích thuộc về yếu tính của Giáo Hội. Trong
chiều hướng đó, các tín hữu Việt Nam phải vượt qua lối sống đạo “vụ hình thức”,
đồng thời cần hiểu đúng ý nghĩa “đạo tại tâm”.[53] Vì là một thực tại tôn giáo
chứ không phải thực tại chính trị hay kinh tế, nên Giáo Hội không bao giờ tìm
cách thay thế chính quyền, nhưng chỉ mong muốn sử dụng tất cả khả năng để phục
vụ Thiên Chúa và con người.[54] Đàng khác, Giáo Hội rất quan tâm đến sự thăng
tiến nhân bản của các tín hữu và đồng bào của mình, xem đó là thành phần
thiết yếu trong việc phát triển con người toàn diện và phát triển vững bền của
xã hội.[55] Giáo huấn này phải hướng dẫn và chi phối mọi nỗ lực canh tân đời
sống cầu nguyện cũng như các kế hoạch về truyền giáo, công bằng xã hội và giáo
dục.
15. Cũng trong ánh sáng mầu nhiệm Ngôi Lời nhập
thể, Giáo Hội ý thức rằng hội nhập văn hóa và tính bản địa là đòi hỏi
nội tại của đức tin Kitô giáo.[56] Một khi đã đón nhận Tin Mừng, Giáo Hội địa
phương có trách nhiệm làm cho Tin Mừng thấm nhuần các giá trị văn hóa trong dân
tộc mình.[57] Tiến trình này không xóa bỏ nhưng thanh lọc và làm cho bản sắc
dân tộc thêm phong phú nhờ các giá trị Tin Mừng, nhất là giá trị của tình yêu
thương “đến cùng”, yêu thương “ngay cả kẻ thù”.[58]
Theo
đường hướng đó, Giáo Hội Việt Nam phải nghiên cứu tường tận bản sắc văn hóa dân
tộc, hầu có thể phân định những gì là tốt đẹp,[59] để diễn tả đức tin bằng
những nét văn hóa ấy đồng thời đem tinh thần Phúc Âm thấm vào các sinh hoạt văn
hóa, cụ thể như các dịp lễ tết và ma chay cưới hỏi.[60] Cũng thế, cần khuyến
khích và hướng dẫn các văn nghệ sĩ Công Giáo trong các sáng tác của họ. Ngoài
ra, những chương trình huấn luyện ở mọi cấp phải quan tâm đến việc học hỏi về
hội nhập văn hóa.[61]
16. Giáo Hội là bí tích của Nước Thiên Chúa
nơi đó Thiên Chúa là tất cả cho mọi người (x. 1 Cr 15, 25-28; Ep 1, 21-22), nên
phải luôn ý thức rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới làm cho Nước Trời đạt tới
viên mãn; vậy Giáo Hội không ngừng cầu xin cho “Nước Cha trị đến” (Lc 11, 2; Mt
6, 10). Đồng thời, Giáo Hội cũng là “Nước Chúa trong trạng thái hạt mầm”, là
“Nước Chúa đang tăng trưởng”.[62] Vì thế, Giáo Hội có sứ mệnh yêu thương và
phục vụ, hướng dẫn nhân loại đạt tới hạnh phúc chân thật.[63] Các môn đệ Đức
Kitô “không hề coi thường các thực tại nhân sinh”,[64] nhưng “sẵn sàng cộng tác
tích cực với mọi người xây dựng trần thế”,[65] vì tất cả những gì tốt lành và
thiện hảo sẽ không bị phá hủy mà được nên hoàn hảo trong Nước Chúa vĩnh cửu và
phổ quát.[66] Không có sự đối kháng giữa niềm chờ mong Nước Chúa và nỗ
lực xây dựng trần thế, do đó phải tránh xa quan niệm và lối sống phân cách giữa
đức tin và đời sống hàng ngày.[67] Cũng vì thế, cần phải cảnh giác trước mọi
hình thức tội lỗi và can đảm vượt thắng chủ nghĩa tục hóa, óc cục bộ và vô tín,
bởi vì những điều ấy hạ thấp phẩm giá con người.[68] Như vậy, Giáo Hội đồng
hành với thế giới như một ngôn sứ, chia sẻ những khổ đau và vui buồn của nhân
sinh, can đảm chống lại sự ác dưới mọi hình thức, vì hạnh phúc toàn diện của
con cái Thiên Chúa, và kiên trì khơi lên nơi lòng người niềm hy vọng vào Thiên
Chúa tín trung.[69]
17. Đang khi mong chờ Ngày Đức Kitô lại đến và
trong nỗi khát khao được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa, Giáo Hội sống thời
gian hiện tại trong tình hiệp thông với Giáo Hội thiên quốc và những chi thể
đã ra đi trước. Người giáo dân Việt
18. Trong thân phận lữ hành, Giáo Hội không
thể tránh khỏi những khó khăn, thử thách, và ngay cả bách hại. Tuy nhiên thay
vì bi quan, thù hằn hay sợ hãi,[70] các tín hữu được mời gọi khám phá ở đó
những ơn lành của Thiên Chúa: được nên giống Đức Kitô, được chia sẻ Chén và
Phép Rửa của Người (x. Mc 10, 38-39), và được thanh luyện nên Hiền Thê trung
tín của Người (x. Ep 5, 25-27; Kh 19, 8; 21, 9b-11). Thật vậy, “dù gian truân,
khốn khổ, đói rách, bắt bớ v.v…, không điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8, 39). Hơn nữa, bằng
chính kinh nghiệm lịch sử của mình, Giáo Hội tại Việt
19. Tóm lại, chúng ta tuyên xưng Giáo Hội là công
trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.[71] Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra;
nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước.[72] Chỉ một
mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước.[73] Qua cuộc
hành trình thiêng liêng của Năm Thánh 2010, chính Chúa Thánh Thần đốt nóng và
canh tân lòng trí chúng ta để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, xây dựng
tình hiệp thông sâu xa trong Giáo Hội và đi tới những biên cương mới của sứ vụ.
Chương III
HIỆP THÔNG TRONG GIA ĐÌNH CỦA THIÊN
CHÚA
“Để
tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng
ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17, 21).
20. Cộng đoàn các môn đệ được Chúa Giêsu thiết lập
tiên vàn là để ở với Người (x. Mc 3, 14), lắng nghe Người (x. Lc 10, 39) và
chia sẻ đời sống với Người (x. Ga 1, 39). Trong Chúa Thánh Thần, chúng ta nên
một với Đức Kitô và nhờ Người, nên một với Thiên Chúa Cha. Từ đó, chúng ta nên
một với nhau làm thành Giáo Hội. Mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi
vừa là suối nguồn vừa là mẫu mực và cùng đích của hiệp thông trong Giáo
Hội.[74] Theo giáo lý truyền thống, hiệp thông là thông phần cùng một
Chúa Thánh Thần, thông dự các thực tại thánh, và thông công giữa các thánh. Như
thế, nguồn mạch và nền tảng cơ bản cũng như điều kiện thiết yếu cho sự hiệp
thông giữa các tín hữu trong Giáo Hội, chính là sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Không kết hợp với Thiên Chúa thì không thể nói đến hiệp thông trong Giáo Hội
được.[75] Đồng thời, sự hiệp thông hữu hình trong cùng một giáo lý các tông đồ,
cùng một cử hành bí tích và cùng một tổ chức phẩm trật, là dấu chỉ và khí cụ
của sự hiệp thông vô hình với Thiên Chúa.[76]
21. Sự hiệp thông trong yêu thương giữa các tín hữu
là hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Rm 14, 17; Gl 5, 22-23) và là dấu chỉ hữu
hình của sự hiệp thông với Thiên Chúa, vì “ở đâu có tình yêu thương, ở đó có
Thiên Chúa”.[77] Đức tin công giáo và tông truyền đòi hỏi Giáo Hội tại Việt Nam
hiệp thông với Giáo Hội phổ quát và hợp nhất với Đức Giáo Hoàng là đầu
mối của đức ái, là nguyên lý và nền tảng hữu hình, trường tồn của sự hợp nhất
trong Giáo Hội.[78]
22. Hiệp thông với Giáo Hội phổ quát, Giáo Hội tại
Việt Nam củng cố và phát huy sự hiệp thông với các Giáo Hội chị em, cách riêng
tại Châu Á. Sự liên đới với các Giáo Hội tại Châu Á không những thể hiện
sự hợp nhất mà Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện: “Xin cho họ nên một” (Ga 17,
21), mà còn làm phong phú kinh nghiệm sống và cách trình bày đức tin nhờ những
trao đổi suy tư thần học, mục vụ và tu đức.[79] Giáo Hội tại Việt Nam cần tiếp
tục vun trồng tình hiệp thông liên đới này bằng nhiều cách thế khác nhau.
23. Sự hiệp thông đích thực và sâu xa trong Giáo
Hội cần được thể hiện nơi từng giáo phận cũng như giữa các giáo phận. Qua sự hợp
nhất yêu thương giữa mọi thành phần Dân Chúa như trong một gia đình,
các cộng đoàn vừa là dấu chỉ vừa là trường dạy hiệp thông. Mối tương quan giữa
giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân được đặt nền trên phẩm giá bình đẳng của
mọi tín hữu, cũng như tinh thần đồng trách nhiệm của từng tín hữu nơi Thân Mình
Đức Kitô trong đức tin, cậy, mến.[80] Đại Hội Dân Chúa mong muốn Giáo Hội tại
Việt Nam củng cố sự hiệp thông và tham gia trong đời sống Giáo Hội ở mọi cấp
bậc, tạo điều kiện để mọi thành phần Dân Chúa tích cực tham gia vào đời sống và
sứ vụ của Giáo Hội”.[81] Trên thực tế, điều này chưa được thể hiện đồng đều và
rõ nét ở cấp giáo phận cũng như giáo xứ. Vì thế, việc xây dựng một Giáo Hội
hiệp thông và tham gia phải là mối quan tâm mục vụ hàng đầu của Giáo Hội tại
Việt
24. Xây dựng Giáo Hội hiệp thông và tham gia không
hề làm giảm vai trò lãnh đạo của các vị mục tử và hàng giáo phẩm. Lòng
yêu mến và kính trọng của tín hữu Việt
25. Sự hiệp thông của Giáo Hội còn được biểu lộ qua
sự chia sẻ trách nhiệm của hàng giáo sĩ với giám mục của mình, như chu
toàn các phận vụ được trao, hòa nhập vào đường hướng mục vụ chung của giáo phận
và Giáo Hội. Về phần mình, các giám mục nên quan tâm đồng hành, lắng nghe và
nâng đỡ các linh mục. Cũng trong tinh thần này, cần khích lệ và cổ võ sự liên
đới tương trợ giữa các giáo phận về nhân lực cũng như tài lực.
26. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cho thấy vai trò quan
trọng và sự đóng góp tích cực của các tu sĩ, những anh chị em tận hiến
đời mình để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo
khổ và bị bỏ rơi, bằng một tình yêu vô vị lợi. Trong hoàn cảnh hiện nay, để
phát huy tình hiệp thông và tham gia trong Giáo Hội, các tu sĩ cần hòa nhập
những hoạt động tông đồ của mình vào chương trình mục vụ chung của các giáo
phận, nơi họ đang hiện diện và phục vụ. Sự hợp tác hài hòa giữa giáo phận, giáo
xứ và dòng tu, cần được khuyến khích và cổ võ, nhằm đáp ứng những nhu cầu đa
dạng của Dân Chúa và xã hội.
27. Công đồng Vatican II đã mở đường cho sự tham
gia đa dạng của giáo dân vào đời sống Giáo Hội, ngay cả trong việc
đào tạo linh mục. Giáo Hội khắp nơi đều thu lượm được nhiều hoa quả từ định
hướng này. Trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam, giáo dân đã và đang góp phần
thật phong phú và quảng đại cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, như mang Tin
Mừng của Chúa đến những vùng xa xôi hẻo lánh, chia sẻ công sức tiền của, nhất
là những lời cầu nguyện và bao hy sinh âm thầm để xây dựng sự hưng thịnh và
sinh động của cộng đoàn Dân Chúa. Thật đáng trân trọng những đóng góp quý giá
đó, nay Giáo Hội cần quan tâm hơn đến việc phát huy phẩm chất của giáo dân bằng
cách tổ chức các khóa huấn luyện về thần học, giáo lý, Kinh Thánh, mục vụ.[84]
Đồng thời, cần canh tân những đường hướng và qui chế tổ chức giáo phận và giáo
xứ, để giáo dân có cơ hội thực thi những quyền chính đáng và trách nhiệm của
mình trong Giáo Hội.[85]
28. Cũng thế, trong đời sống Giáo Hội tại Việt
29. Theo gương Chúa Giêsu, Đấng luôn ưu ái những
người trẻ, Giáo Hội hoàn vũ đang nỗ lực mời gọi người trẻ cộng tác và tham
gia vào đời sống cộng đồng Dân Chúa. Tại Việt Nam, Giáo Hội nên nghiên
cứu và mạnh dạn tổ chức những cử hành phụng tự thích hợp, khuyến khích giới trẻ
tham gia vào các hội đoàn và những sinh hoạt cộng đồng, để ngày càng có thêm
nhiều người trẻ quảng đại và can đảm, sống đức tin cách sinh động và trưởng
thành. Công việc mục vụ đó cần được chuẩn bị chu đáo bằng việc giáo dục đức tin
và nhân bản cho thiếu nhi. Nhờ đời sống thiêng liêng vững mạnh, giới trẻ Công
Giáo sẽ góp phần tích cực và bền vững vào việc lành mạnh hóa xã hội hay dấn
thân truyền giáo tại những nơi xa xôi.[87]
30. Lịch sử cứu độ đạt đến cùng đích khi Thiên Chúa
thâu họp tất cả trong Đức Kitô (x. 1 Cr 15, 23-24).[88] Giáo Hội lữ hành chính
là hoa quả đầu mùa của sự hiệp thông cánh chung đó. Thật vậy, khi mọi thành
phần trong gia đình Giáo Hội nỗ lực sống hợp nhất trong đức tin và hiệp thông
trong đức ái, thì chính đó đã là một lời chứng hùng hồn cho Tin Mừng hiệp
thông.[89] Vì thế, mọi thành phần Dân Chúa phải cộng tác với nhau, trong tác
động của cùng một Chúa Thánh Thần, để xây dựng Giáo Hội như “dấu chỉ và khí cụ
của sự hợp nhất giữa Thiên Chúa với con người cũng như giữa con người với
nhau”.[90] Đây cũng là chìa khóa của việc thi hành và chu toàn sứ mệnh được
trao phó cho Giáo Hội.[91]
Chương IV
LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG HOÀN CẢNH NGÀY
NAY
“Như
Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).
31. Giáo Hội nhận lãnh cùng một sứ vụ mà Đức Kitô
lãnh nhận từ Chúa Cha (x. Ga 20, 21) là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Sứ
vụ này làm nên chính lý do hiện hữu của Giáo Hội giữa lòng thế giới.[92]
Vì vậy, khi đón nhận Tin Mừng, Giáo Hội tại Việt Nam cũng nhận lãnh sứ vụ loan
báo Tin Mừng Đức Kitô cho từng người và mọi người, nhờ đó họ khám phá ý nghĩa
đời sống và được lớn lên như những con người mới.[93] Nhận thức đức tin này
khiến Đại Hội Dân Chúa nhấn mạnh rằng “thay vì coi truyền giáo chỉ như một
trong những hoạt động của Giáo Hội, thì nay cần nhìn sứ mệnh truyền giáo như nắm
men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh đời sống Giáo Hội”.[94] Do
đó, cần dành mọi nỗ lực và hoạt động, từ vật chất đến thiêng liêng và mục vụ,
cho mục tiêu này.
32. Sứ
vụ này mang tính duy nhất và toàn diện. Duy nhất, vì tất cả đều
khởi đi và quy hướng về con người Đức Giêsu Nadaret và mầu nhiệm của Người.
Người là Con Thiên Chúa, Đấng vừa khai mở vừa là hiện thân của Vương Quốc
Thiên Chúa qua mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh. Vì thế, khi thi hành sứ vụ
nhất thiết phải công bố Danh Chúa Giêsu.[95] Toàn diện, vì sứ vụ bao
gồm nhiều hoạt động: công bố Tin Mừng lần đầu tiên (kerygma), huấn giáo nhằm
xây dựng sự trưởng thành đức tin, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lãnh vực
đời sống xã hội và văn hóa.[96] Do đó có mối liên hệ mật thiết giữa sứ vụ loan
báo Tin Mừng và việc phục vụ sự sống cùng sự phát triển con người toàn
diện.[97] Chính Chúa Giêsu dạy Giáo Hội hướng đi này. Cho dù mối quan tâm hàng
đầu của Người là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng quan tâm
đến công bằng xã hội và nhu cầu vật chất của dân chúng. Như thế, Tin Mừng của
Người liên kết mật thiết với sự phát triển những giá trị nhân linh, và không hề
tách rời đức tin khỏi cuộc sống. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, Giáo Hội tại
Việt Nam xác tín rằng Dân Chúa cần tích cực cộng tác với mọi người thiện chí,
cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống. Đó là phương thế cụ thể
để thi hành sứ vụ duy nhất và toàn diện của Đức Kitô trên đất nước này.
33. Là
công dân trong một đất nước, người Công Giáo Việt
Để
thực hiện lời mời gọi này, các tín hữu cần thấu triệt giáo huấn của Giáo Hội
về xã hội.[100] Giáo huấn này sẽ soi sáng cho các tín hữu biết cách yêu
mến quê hương, yêu thương mọi người không trừ một ai, quan tâm phát triển
nhân bản và văn hóa, xây dựng công bằng, tình liên đới, sự bình đẳng và tự do
tôn giáo qua nẻo đường hiền lành và khiêm nhường, bao dung và tha thứ.[101]
Định hướng này sẽ mở đường cho những chương trình mục vụ của Giáo Hội tại Việt
Nam, đặc biệt cho thiếu nhi, giới trẻ và di dân.[102] Như Đức Kitô, Giáo Hội
không bao giờ thỏa hiệp với tội lỗi và bất công, nhưng đồng thời yêu thương
hết thảy mọi người, với lòng nhân hậu xót thương của Thiên Chúa. Các tín hữu
của Chúa Giêsu phải lấy việc lành mà vượt thắng lối sống bạo lực, ích kỷ,
hưởng thụ và phóng túng (x. Rm 12, 9-21; 1 Pr 3, 15-16; 4, 3-4).
34. Để chu toàn sứ vụ duy nhất và toàn diện của
Giáo Hội, mỗi tín hữu, theo ơn gọi riêng của mình, đều phải dấn thân loan báo
Tin Mừng. Tuy nhiên, vì sứ vụ của Giáo Hội cốt yếu mang tính cộng đoàn,
nên không một tín hữu nào có thể thi hành sứ vụ cách riêng lẻ. Chính vì thế,
các tín hữu Việt
35. Ngoài ra, mọi thành phần Dân Chúa cần ý thức về
mối tương quan sâu xa giữa đời sống chiêm niệm và hoạt động tông đồ. “Sứ
vụ là hoạt động có tính chiêm niệm và là chiêm niệm mang tính hoạt động”.[104]
Thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng là chia sẻ tặng phẩm quí giá nhất mà chúng
ta đã lãnh nhận, đó là được biết Đức Kitô (x. Pl 3, 8). Như vậy, sứ vụ ấy
trước hết là sự cảm nghiệm về Thiên Chúa đang sống và hoạt động trong
mình, điều đó thôi thúc chúng ta phục vụ sự sống và phát triển con người
toàn diện, từ thể lý đến tâm linh, từ văn hóa và xã hội đến đức tin và luân lý.
Do đó, cần cảnh giác trước những cám dỗ lôi cuốn chúng ta rơi vào khuynh
hướng đề cao hoạt động mà không quan tâm đến việc vun trồng đời sống nội
tâm.
36. Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ với cung cách
đặc biệt. Là Tiên Tri trung thành của chân lý Tin Mừng (x. Kh 1,
5), Người can đảm và kiên nhẫn kêu mời mọi người sám hối và sống theo ý định
của Thiên Chúa (x. Mc 10, 2-12; Lc 13, 10-17). Là Tôi Tớ, Người khiêm nhường
phục vụ nhân loại (x. Ga 13, 1-16; Lc 22, 27) đến độ hiến thân trên thập giá
(x. 1 Pr 2, 22-24), biểu lộ uy quyền hiển trị của Thiên Chúa tình yêu. Là Tư
Tế đích thực và là vị Trung Gian giầu lòng xót thương (x. Dt 4, 14-15; 9,
11-14), Người cùng sẻ chia mọi sự với gia đình nhân loại để dâng lên Chúa Cha
những đau khổ, ưu sầu cũng như hạnh phúc và niềm vui của họ (x. Dt 4, 15; 2 Cr
8, 9).
Theo
gương Chúa Giêsu, chúng ta cần thi hành sứ vụ với cung cách của Người: can đảm
và kiên trì loan báo chân lý Tin Mừng, khiêm nhường phục vụ, chân thành chia sẻ
mọi nỗi niềm của con người, nhất là những người nghèo khổ.[105] Con người ngày
nay không chỉ đón nhận Tin Mừng bằng cách “nghe” nhưng còn bằng cách
“thấy”.[106] Vì thế, Đại Hội Dân Chúa đề nghị: trong các chương trình huấn
luyện nhân sự ở mọi cấp, cách riêng huấn luyện chủng sinh, tu sĩ nam nữ, vấn đề
không chỉ là trau dồi kiến thức nhưng còn là hình thành một cung cách sống và
phục vụ của sứ giả Tin Mừng.[107]
37. Để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng trong hoàn
cảnh xã hội ngày nay, Đại Hội Dân Chúa quan tâm đặc biệt đến lãnh vực giáo
dục. Chúng tôi đề nghị chính quyền mở rộng cánh cửa cho các tôn giáo và
những người thành tâm thiện chí tham gia vào việc giáo dục học đường “là chìa
khóa cho tương lai tươi sáng của đất nước”.[108] Giáo Hội Công Giáo có thể cống
hiến cho xã hội triết lý và kinh nghiệm giáo dục của mình, nhằm đào tạo những
con người có trách nhiệm với bản thân, với tha nhân và xã hội. Đồng thời, Giáo
Hội mong ước các cộng đoàn Kitô hữu, gia đình cũng như các đoàn thể, giáo xứ
cũng như các dòng tu, hãy hết sức quan tâm đến giáo dục, hỗ trợ những học sinh
nghèo, nâng cao trình độ học vấn của giới trẻ, dạy nghề cho giới trẻ miền quê,
đồng hành với giới giáo chức Công Giáo.[109]
Vượt
xa việc chuẩn bị nghề nghiệp hay đóng khung trong học đường, giáo dục dẫn con
người tới Đức Kitô, Con Người Hoàn Hảo.[110] Chính vì thế, “giáo dục đức tin
phải là sợi chỉ xuyên suốt, là tinh hoa và cùng đích của hết thảy nỗ lực giáo
dục gia đình, học đường và xứ đạo”.[111] Nền giáo dục như thế sẽ giúp người thụ
giáo lắng nghe Thiên Chúa và tìm ra được ơn gọi của mình trong kế hoạch của
Ngài.[112]
38.
Cách đặc biệt, Giáo Hội xác tín rằng việc giáo dục lương tâm cho mọi
người là hết sức cần thiết. Theo đề nghị của Đại Hội Dân Chúa, “các giáo xứ cần
quan tâm đến nền giáo dục đại chúng về lương tâm, những giá trị nhân bản và văn
hóa đối thoại, dưới ánh sáng Lời Chúa”.[113] Với lương tâm ngay chính, họ thoát
khỏi chủ nghĩa tương đối về luân lý và sống đúng ơn gọi làm người của mình,
giúp họ sống đạo cách ý thức và trưởng thành hơn. Ngoài ra, quyết định sống
tốt một cách can đảm sẽ là một thông điệp mời gọi người khác cũng quyết định
sống tốt.
39.
Trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Giáo
Hội cần đối thoại với các tôn giáo, với người nghèo, và với những anh chị em
không tôn giáo. Đây là cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim nhằm xây
dựng sự hiểu biết lẫn nhau và phục vụ hạnh phúc đích thực của con người. Đó
cũng là cuộc đối thoại phục vụ ơn cứu độ.[114]
40.
Cuộc đối thoại với các tôn giáo sẽ giúp Giáo Hội tại Việt
41. Sứ
vụ loan báo Tin Mừng mời gọi các tín hữu quảng đại phục vụ con người, nhất là
những người nghèo khổ và bị bỏ rơi. Chính Chúa Giêsu dành tình ưu ái đặc biệt
cho những kẻ bé mọn. Việc đối thoại với người nghèo giúp cho Giáo Hội
học được cách nhìn của Đức Kitô, khám phá nơi con người nhu cầu cần được yêu
thương và tôn trọng chứ không chỉ là được ban phát của cải vật chất.[118] Đồng
thời, Giáo Hội cũng nhận ra được những hình thức mới của sự nghèo khổ, bén nhạy
trước những đổi thay của xã hội để kịp thời đáp ứng dưới sự thúc đẩy của Chúa
Thánh Thần.[119] Theo gương Chúa Giêsu, Giáo Hội tại Việt Nam cần quan tâm đặc
biệt đến những dân tộc ít người là những anh chị em còn phải chịu nhiều thiệt
thòi về kinh tế, xã hội cũng như văn hóa. Các bệnh nhân, những người tàn tật,
già yếu, neo đơn, mồ côi, những thiếu nữ lầm lỡ, các tù nhân… cũng là những
thành phần cần được chăm sóc nhiều hơn trong các hoạt động mục vụ. Các cộng
đoàn Kitô hữu cần tìm cách thể hiện tình yêu thương phục vụ họ cách cụ thể,
đồng hành với họ trong những khó khăn của đời sống, giúp họ nhận ra được niềm
vui của đức tin khi được nên giống Đấng chịu đóng đinh và hoàn tất những gì còn
thiếu trong cuộc khổ nạn của Người vì Hội Thánh (x. Cl 1, 24).
42.
Trong cuộc đối thoại với anh chị em không tôn giáo, Giáo Hội nhìn nhận
những nỗ lực và thiện chí của họ trong việc phục vụ công ích. Các tín hữu
cũng nên ý thức phần trách nhiệm của mình trước hiện tượng dửng dưng, tục
hóa, duy vật…, vì nhiều khi chúng ta “đã che giấu hơn là bày tỏ khuôn mặt
đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo”.[120] Đồng thời, với sự hiền hòa và lòng
kính trọng, người Công Giáo “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy
vọng của mình” (1 Pr 3,15), thẳng thắn trình bày quan điểm của Giáo Hội trước
các vấn đề nhân sinh; nếu cần, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để làm chứng cho chân
lý Tin Mừng. Ngoài ra, qua cuộc đối thoại chân thành và thẳng thắn, Giáo Hội
cũng có thể nhận ra hoạt động mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn con
người, và học được cách thế trình bày niềm tin của mình cho con người ngày nay.
43.
Trước cuộc khủng hoảng gia đình hiện nay, Giáo Hội nhận thấy cần phải tăng
cường và canh tân mục vụ gia đình, phải xem mục vụ gia đình là hoạt động
quan trọng và nối kết những kế hoạch và chương trình mục vụ của giáo xứ cũng
như giáo phận.[121] Thừa hưởng nền văn hóa Đạo Hiếu luôn lấy gia đình làm gốc,
chúng tôi kêu gọi anh chị em giáo dân quan tâm xây dựng gia đình mình nên như
Giáo Hội tại gia, trở thành trường dạy đầu tiên, nơi đào tạo những thế hệ mới
vững mạnh trong đức tin và can đảm sống đạo đức, có trách nhiệm đối với xã hội
và Giáo Hội.[122] Để thực hiện mục tiêu này, các giáo phận và giáo xứ cần hình
thành một chương trình mục vụ tiền và hậu hôn nhân thống nhất và xuyên suốt,
giúp gia đình thăng tiến đời sống cầu nguyện, tăng trưởng tình yêu hợp nhất và
chung thủy, ươm mầm các ơn gọi, chung tay giáo dục con cái trong sự thánh thiện
và bền vững trong ân sủng của bí tích Hôn nhân.[123]
44. Sống
trong một đất nước có tỷ lệ dân số trẻ rất cao,[124] đồng thời kinh nghiệm được
về khả năng, sự nhiệt tình và tính năng động của người trẻ, Giáo hội
tại Việt Nam ý thức rằng người trẻ không chỉ là tương lai nhưng còn là chính
hiện tại của Giáo Hội. Do đó, mục vụ giới trẻ vừa phải nhìn người trẻ như đối
tượng cần được chăm sóc vừa phải xem họ như những chủ thể, sứ giả loan báo Tin
Mừng, đặc biệt trong môi trường của giới trẻ.[125] Để thực hiện mục tiêu này,
Giáo Hội tại Việt Nam cần đầu tư năng lực và thời giờ hơn nữa cho mục vụ-giáo
dục giới trẻ,[126] cách riêng trong hoàn cảnh ngày nay khi người trẻ phải đối
diện với nhiều khó khăn cũng như cám dỗ trong cuộc sống. Cần nghiên cứu cách
nghiêm túc về tình hình giới trẻ và tìm kiếm những phương thế đồng hành thiết
thực với họ trong cuộc sống. Theo hướng đi này, việc đào tạo những linh hoạt
viên giới trẻ có tinh thần truyền giáo và biết làm việc tập thể là điều hết sức
cần thiết.[127]
45. Đức
Bênêđictô XVI đã nhắn nhủ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: “Mong rằng anh em phát
triển nền mục vụ thích hợp cho các người trẻ di dân trong nước, qua việc
tăng cường sự hợp tác giữa các giáo phận gốc của họ và các giáo phận họ đến, và
bằng việc cung cấp cho họ những lời khuyên về mặt đạo đức và các chỉ dẫn thực
hành”.[128] Cảm nhận những khó khăn mà người di cư gặp phải trong các lãnh vực kinh
tế, tình cảm, xã hội, tôn giáo…, Đại Hội Dân Chúa cũng đề nghị cần có “một cuốn
cẩm nang chung về mục vụ di dân, trong đó hướng dẫn rõ ràng những nét cơ bản
cần thiết được các giáo phận nhìn nhận, cách riêng trong lãnh vực hôn nhân và
dự tòng”.[129] Đồng thời, chúng ta cũng nhận ra được những ơn lành Chúa ban qua
anh chị em di dân trong việc xây dựng Giáo Hội và truyền bá đức tin. Mục vụ di
dân phải “tạo điều kiện và thúc đẩy họ tham gia vào đời sống và sinh hoạt của
cộng đoàn tín hữu địa phương”,[130] đóng góp những nét đặc sắc của mình vào đời
sống và sinh hoạt của xã hội và Giáo Hội.[131]
46. Ngày
nay, bảo vệ môi sinh không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là một bổn
phận luân lý vì liên hệ đến sự sống và phẩm giá của hằng triệu người, trong
hiện tại cũng như tương lai. Thiên Chúa đã trao phó vũ trụ cho con người để họ
chăm sóc cách khôn ngoan và có trách nhiệm, chứ không phải để khai thác cách
tàn bạo vì thèm khát lợi nhuận.[132] Phát triển là để phục vụ con người chứ
không thể biến con người thành phương tiện và nạn nhân của phát triển. Do đó
Giáo Hội có trách nhiệm hướng dẫn các tín hữu, nhất là người trẻ, biết gìn giữ
và bảo vệ môi sinh, vì ích lợi của chính họ, của tha nhân và của cả thế hệ
tương lai. Các mục tử nên tổ chức những khóa học về môi sinh cùng với những
hướng dẫn cụ thể trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh sống của người
dân địa phương.
47.
Trong thời đại ngày nay, hơn bao giờ hết, Giáo Hội ý thức được vai trò và tầm
quan trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng. Một đàng, các phương
tiện truyền thông hiện đại là tặng phẩm Chúa ban cho Giáo Hội để loan
báo Tin Mừng cách rộng rãi và nhanh chóng,[133] nhưng đàng khác, thực tế cho
thấy những phương tiện này có thể bị lạm dụng, tạo ra chia rẽ, hận thù và phóng
túng, gieo rắc lối sống đi ngược lại với nền văn minh tình thương và sự
sống.[134] Vì thế, Giáo Hội cần hướng dẫn các tín hữu, cách riêng giới trẻ, để
họ biết “sử dụng những phương tiện truyền thông cách hữu ích”.[135] Đồng thời,
phải “khuyến khích những ai tha thiết với lãnh vực này cùng nhau làm việc” để
kiến tạo nền văn minh của tình hợp nhất, tình liên đới và tương trợ trong Giáo
Hội và xã hội, bằng cách phổ biến những giá trị Tin Mừng và nhân bản qua các
phương tiện truyền thông.[136]
KẾT LUẬN
Thưa anh chị em,
48.
Đại Hội Dân Chúa đã được diễn ra như một cử hành phụng vụ để cảm tạ và tôn
vinh Thiên Chúa, như một hội ngộ gia đình để sống tình huynh đệ, đồng thời như
một diễn đàn, “để các đại diện của mọi thành phần Dân Chúa sử dụng quyền tự do
thiêng liêng của con cái Chúa, nói lên những nhận thức của trí tuệ được đức tin
soi sáng, những thao thức của trái tim được đức mến nung nấu, và những khát
vọng của ý chí được đức cậy khơi dậy, nhằm xây dựng và củng cố ngôi nhà Giáo
Hội Chúa Kitô giữa lòng quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta hôm nay và
ngày mai”.[137] Chính từ diễn đàn đó mà Thư Chung này được hình thành.
Thư Chung này được gửi
đến tất cả anh chị em cùng với lòng biết ơn sâu sắc về lời cầu nguyện, những hy
sinh, sự cộng tác nhiệt thành cũng như những góp ý chân thành của anh chị em
cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.
Thư Chung này cũng được
gửi đến anh chị em với ước mong mỗi giáo phận, dòng tu, giáo xứ, gia đình, sẽ
triển khai thành những hành động và việc làm cụ thể trong đời sống đức tin, góp
phần thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay cách thiết thực và
hiệu quả.
Chúng ta hãy trao gửi
mọi tâm tư ước vọng của mình cho Các Thánh Tử Đạo Việt
Chúng ta hãy trao gửi
mọi dự định mục vụ của Giáo Hội Việt
Maranatha, lạy Chúa
Giêsu, xin ngự đến! (Kh 22, 17, 20; 1 Cr 16, 22)[140]
Thư chung này được chính thức công bố
ngày 01.05.2011, lễ kính Lòng Chúa Thương Xót,
ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được phong Chân Phước.
Làm tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận TPHCM, ngày 28.04.2011
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT
Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng giám mục Tổng giáo phận
TP.HCM
Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, giáo phận Thanh Hóa, Phó chủ tịch
HĐGMVN
Giám mục Laurensô Chu Văn Minh, phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội
Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Đệ, SDB, giáo phận Thái Bình
Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP, giáo phận Vinh
Giám mục Giuse Nguyễn Năng, giáo phận Phát Diệm
Giám mục Giuse Đặng Đức Ngân, giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng
Giám mục Gioan Maria Vũ Tất, giáo phận Hưng Hóa
Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, giáo phận Hải Phòng
Giám mục Giuse Hoàng Văn Tiệm, SDB, giáo phận Bùi Chu
Giám mục Giuse Nguyễn Văn Yến, nguyên giám mục giáo phận Phát Diệm
Giám mục Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, giáo phận Ban Mê Thuột
Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, phụ tá Tổng giáo phận Huế
Giám mục Matthêô Nguyễn Văn Khôi, giám mục phó giáo phận Quy Nhơn
Giám mục Giuse Võ Đức Minh, giáo phận Nha Trang
Giám mục Micae Hoàng Đức Oanh, giáo phận Kon Tum
Giám mục Giuse Châu Ngọc Tri, giáo phận Đà Nẵng
Giám mục Antôn Vũ Huy Chương, giáo phận Đà Lạt
Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, giáo phận Mỹ Tho
Giám mục Tôma Vũ Đình Hiệu, phụ tá giáo phận Xuân Lộc
Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm, phụ
tá Tổng giáo phận TP.HCM,
Phó tổng thư ký HĐGMVN
Giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân, giáo phận Vĩnh Long
Giám mục Têphanô Tri Bửu Thiên, giáo phận Cần Thơ
Giám mục Giuse Vũ Duy Thống, giáo phận Phan Thiết
Giám mục Giuse Trần Xuân Tiếu, giáo phận Long Xuyên
Giám mục Tôma Nguyễn Văn Trâm, giáo phận Bà Rịa
Giám mục Đaminh Nguyễn Chu Trinh, giáo phận Xuân Lộc
Giám mục Phêrô Trần Đình Tứ, giáo phận Phú Cường
Giám mục Giuse Nguyễn Tấn Tước, giám mục phó giáo phận Phú Cường
TM. Hội Đồng Giám Mục
Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Tổng giám mục Hà Nội
Chủ tịch
(đã ấn ký)
Giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ
Giám mục Bắc Ninh
Tổng thư ký
(đã ký)
–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
[1] x. Đề cương “Giáo hội tại Việt
[2] x. Sách lễ Roma, Kinh tiền tụng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ;
cũng x. Sứ Điệp của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010.
[3] x. Đề cương, số 3; Hội Đồng Giám Mục Việt
[4] x. Đề cương, số 3; HĐGMVN, Thư chung 1992, số 3.
[5] x. Đề cương, số 3.
[6] x. FABC VII, Part II.A trong For All the Peoples of Asia,
(từ đây viết tắt: For All) biên soạn do Eilers, Franz-Josef, vol. 3,
trg. 6; HĐGMVN, Thư chung 1992, số 5, 6; Tài liệu Mục vụ chuẩn bị
mừng Năm Thánh 2000, c. Năm thứ ba (1999): Thiên Chúa Cha, “Phục vụ sự
thăng tiến con người”; Thư chung 1998 “Hướng Về Năm Thánh 2000”, số 5.
[7] x. Đề cương, số 3, 5; HĐGMVN, Thư chung 1998 “Hướng
Về Năm Thánh 2000”, số 5.
[8] x. Đề cương, số 3, 5; HĐGMVN, Thư chung 1998 “Hướng
Về Năm Thánh 2000”, số 10-11.
[9] x. Giám mục Matthêô Nguyễn Văn Khôi, “Về Việc Giáo Dục Lương
Tâm trong Bối Cảnh Truyền Giáo tại Việt Nam”, Tham luận tại Đại Hội Dân
Chúa, 24.11.2010.
[10] x. HĐGMVN, Thư chung 1992, số 6.
[11] x. Đề cương, số 5; HĐGMVN, Thư chung 2007 “Giáo Dục
Hôm Nay, Xã Hội và Giáo Hội Ngày Mai”, số 2, 8, 11; Thư chung 1992,
số 6.
[12] x. HĐGMVN, Thư chung 2007 “Giáo Dục Hôm Nay, Xã Hội và Giáo
Hội Ngày Mai”, số 11-14.
[13] x. Đề cương, số 5.
[14] x. Đề cương, số 4.
[15] x. Đề cương, số 4.
[16] x. HĐGMVN, Thư chung 2007, số 11-15, 34-38; Thư
chung 2008, số 10-12; Thư chung 2002, số 3; Thư chung 1992,
số 9-15.
[17] x. HĐGMVN, Thư chung 2007 “Giáo Dục Hôm Nay, Xã Hội và Giáo
Hội Ngày Mai”, số 32-33; Thư chung 2008 “Về Môi Trường Giáo Dục Gia Đình
Công Giáo”, số 17-18; Giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ “Sống mầu nhiệm
Giáo hội trên quê hương”, Tham luận tại Đại Hội Dân Chúa, 22.11.2010.
[18] Hồng y Ivan Dias, Bài giảng lễ Bế Mạc Năm Thánh 2010;
cũng x. Đề cương, số 6; HĐGMVN, Thư chung 2003 “Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng
của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay”, số 7-8; Thư chung 2001 “Để Họ Được Sống
Dồi Dào”, số 9-10; Thư chung 1989 “Hiệp Nhất, Mục Vụ, Sống và Chia Sẻ
Niềm Vui”.
[19] x.
[20] x.
[21] x.
[22] x. Vatican II, LG 9, 13; cũng x. Gioan Kim Khẩu, In Jo.,
bài giảng 65, 1l PG 59, 361.
[23] x.
[24] x.
[25] x.
[26] x. Sách Lễ Roma, lời nguyện Thứ Sáu Tuần Thánh.
[27] x. Đề nghị 1.
[28] x. HĐGMVN, Thư chung 2004 “Giáo Hội Sống Mầu Nhiệm Thánh
Thể”, số 7; The Asian Synod, biên soạn do Peter C. Phan, 2002, tr.
50.
[29] x. Đề nghị 1.
[30] x. Đức Bênêđictô XVI, bài giảng tại giáo xứ mới St. Corbinian
ngày 20.3.2011.
[31] x. Đề nghị 17.
[32] x. PC 6; DV 25; HĐGMVN, Thư chung 2005 “Sống Lời Chúa”.
[33] Đề nghị 3; cũng x. Đức Bênêđictô XVI, Verbum Domini
85.
[34] x. Đức Bênêđictô XVI, Verbum Domini 74.
[35] x. Đề nghị 3; Đức Bênêđictô XVI, Verbum Domini 77-85.
[36] x. Lectio divina là một phương pháp cầu nguyện dựa trên
Lời Chúa, gồm bốn bước: đọc, suy niệm, chiêm ngắm, thực hành; Đức Bênêđictô
XVI, Verbum Domini 86-87.
[37] x. HĐGMVN, Thư chung 2007 “Giáo Dục Hôm Nay, Xã Hội và Giáo
Hội Ngày Mai”, số 26-31; Tài liệu làm việc, số 26; Đề cương,
số 35-38.
[38] x. Đề nghị 2.
[39] x. Đề nghị 21, 22.
[40] x. Vatican II, LG 7; GLGHCG 790-791; Đề cương, số 10; Tài
liệu làm việc, số 5.
[41] x. Vatican
[42] x. Đức Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis 14-15; Đức
Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia 22, 20.
[43] x. Đức Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis 6-13; Đức
Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia 11-24; HĐGMVN, Thư chung 2004
“Giáo Hội Sống Mầu Nhiệm Thánh Thể”, số 2-12.
[44] x. Đức Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis 36-55,
72-76; Đề nghị 6.
[45] x. Đề nghị 6; Tài liệu làm việc, số 14; Đức
Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis 66-69; Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia
de Eucharistia 25.
[46] x.
[47] x. HĐGMVN, Tài liệu mục vụ chuẩn bị mừng Năm thánh 2000,
số II, 2-3; Đức Gioan Phaolô II, Reconciliatio et Paenitentia 20-22.
[48] x. Đề nghị 6; Đức Gioan Phaolô II, Reconciliatio et
Paenitentia 28-31.
[49] x. Tài liệu làm việc, số 6; Đề cương, số 11.
[50] x. Đề nghị 4. x. Bài giảng của Đức hồng y Ivan Dias, Lễ
bế mạc Năm Thánh 2010 tại La Vang.
[51] x. Vatican
[52] Tài liệu làm việc, số 7.
[53] x. Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia 35; Tài
liệu làm việc, số 7.
[54] x. Đức Bênêđictô XVI, Huấn từ dành cho HĐGMVN nhân dịp Ad
limina 2009, ngày 27.06.2009.
[55] x. Đề nghị 2, 7, 16, 19, 26.
[56] x. Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia 21-22; FABC/International
Congress on Mission 14, trong For All, vol. 1, 130tt; Tài liệu làm
việc, số 8.
[57] x.
[58] x. Vatican II, GS 38, 61; Đề nghị 23.
[59] x.
[60] x. Đề nghị 7, 23.
[61] x. Đề nghị 8, 7, 23.
[62] x. Đề cương, số 13.
[63] x. Đức Phaolô VI, The Teachings of Pope Paul VI, 1970,
tr. 192.
[64] Tài liệu làm việc, số 10.
[65] Đề cương, số 14.
[66] x.
[67] x.
[68] x.
[69] x.
[70] x. Sứ điệp của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010.
[71] x.
[72] x. Đức Phaolô VI, “Opening Address of the Second Session”,
trong Council Speeches of Vatican II, do H. Kung, Yves Congar và D.
O’Hanlon biên soạn, Deus Books, (NY 1964), tr. 19; Đề cương số 8.
[73] x. Tài liệu làm việc, số 6.
[74] x. Tài liệu làm việc, số 12.
[75] x. Tài liệu làm việc, số 12.
[76] x. Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, “Giáo Hội Hiệp Thông theo
Mô Hình Hiệp Thông của Ba Ngôi Thiên Chúa”, Tham luận tại Đại Hội Dân Chúa,
23.11.2010.
[77] Thánh thi Ubi caritas.
[78] x.
[79] x. Tài liệu làm việc, số 15.
[80] x.
[81] X. Đề nghị 9.
[82] x. Tài liệu làm việc, số 16.
[83] x.
[84] x. Đề nghị 11, 20, 21.
[85] x. Đề nghị 11.
[86] x. Đề nghị 11.
[87] x. Đề nghị 12.
[88] x.
[89] x. Tài liệu làm việc, số 2, 9, 13.
[90]
[91] Đức Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2010.
[92] x.
[93] x. Đức Bênêđictô XVI, Verbum Domini 46, 121-123.
[94] Đề nghị 16.
[95] x. Đức Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi 22; Đức Gioan
Phaolô II, Ecclesia in
[96] x. Đức Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi 17; Đức Gioan
Phaolô II Ecclesia in
[97] x. Thượng Hội Đồng Giám Mục, Justice in the World,
1971.
[98] x. Đức Bênêđictô XVI, Caritas in veritate, số 2.
[99] Đức Bênêđictô XVI, Huấn từ dành cho HĐGMVN nhân dịp Ad
limina 2009.
[100] x. Đề nghị 27.
[101] x. Tài liệu làm việc, số 19.
[102] x. Đề nghị 26; 17.
[103] Đức Bênêđictô XVI, Huấn từ Ad limina 2009.
[104] Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia in
[105] x. HĐGMVN, Thư chung 2003 “Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của
Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay”, số 9, 11; Thư chung 1980.
[106] x. Đức Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi 41; FABC,
Appendix, Conclusions of the Theological Consultation, 23-25, trong For All,
Vol. 1, trg. 340; Đề cương, số 33.
[107] x. Đề nghị 16; 17; 21; HĐGMVN, Thư chung 2007 “Giáo
Dục Hôm Nay, Xã Hội và Giáo Hội Ngày Mai”, số 27.
[108] Đề nghị 26.
[109] x. Đề nghị 26.
[110] x.
[111] Tài liệu làm việc số 26.
[112] x. Vatican II, Tuyên ngôn về Giáo Dục 1-3; Tài liệu
làm việc, số 26.
[113] Đề nghị 26; HĐGMVN, Thư chung 2008 “Về Môi Trường
Giáo Dục Gia Đình Công Giáo”, số 16.
[114] x. Đức Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi 75-79; Vatican
II, GS 92; Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia in
[115] x. Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, chủ tịch HĐGMVN, “Lời
chào mừng dịp lễ bế mạc Năm Thánh”, Hiệp Thông 63, tr. 116.
[116] x.
[117] x. Đề nghị 25; x. Vatican II, GS 92.
[118] x. Đức Bênêđictô XVI, Deus caritas est 18; Vatican II,
GS 27; HĐGMVN, Thư chung 2001 “Để Họ Được Sống Dồi Dào”, số 11.
[119] x. Tài liệu làm việc, số 23.
[120]
[121] x. Đề nghị 17; HĐGMVN, Thư chung 1992, số 18; Thư
chung 2002 “Thánh Hóa Gia Đình”, số 6-7.
[122] HĐGMVN, Thư chung 1992, số 12
[123] x. Tài liệu làm việc số 29; HĐGMVN, Thư chung 2002
“Thánh Hóa Gia Đình”, số 8.
[124] x. Đề cương số 3.
[125] x. Tài liệu làm việc số 30; HĐGMVN, Thư chung 2001
“Để Họ Được Sống Dồi Dào”, số 20.
[126] Đề nghị 19.
[127] x. Đề nghị 19.
[128] Đức Bênêđictô XVI, Huấn từ Ad limina 2009.
[129] Đề nghị 20.
[130] Đề nghị 20.
[131] x. Đề nghị 20.
[132] x. Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia in
[133] x. Vatican II, Sắc lệnh về Truyền Thông 2.
[134] x. Vatican II, Sắc lệnh về Truyền Thông 2, 12-13.
[135] Đề nghị 28; cũng x.
[136] x. Đề nghị 28; Vatican II, Sắc lệnh về Truyền Thông
21-22.
[137] Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, chủ tịch HĐGMVN, Bài
giảng Lễ khai mạc Đại Hội Dân Chúa 2010.
[138] x. Tài liệu làm việc, số 16.
[139] x. Đề cương, số 44; Tài liệu làm việc, số 32.
[140] x. HĐGMVN, Thư chung 1999 “Hãy Vui Lên”, số 2.
MỤC LỤC
Dẫn nhập (số 1-3)
Chương I: Hiện trạng xã hội Việt
Tiến trình toàn cầu hóa (4)
Những
thay đổi trong xã hội (5)
Nền kinh tế thị trường (6)
Văn hóa giáo dục (7)
Truyền thống tôn giáo (8)
Tương tác giữa kinh tế xã hội và tôn giáo (9)
Chương II: Mầu nhiệm Giáo Hội
Dân Thiên Chúa, Gia đình của Thiên Chúa (10 – 11)
Nhiệm thể Đức Kitô (12)
Đền thờ Chúa Thánh Thần (13)
Đặc tính thần-nhân của Giáo Hội (14)
Hội nhập văn hóa và tính bản địa (15)
Giáo Hội và Nước Thiên Chúa (16)
Hiệp thông các thánh (17)
Giáo Hội lữ hành (18)
Mở ra cho hiệp thông và sứ vụ (19)
Chương III : Hiệp thông trong gia đình của Thiên Chúa
Giáo lý về hiệp thông (20)
Hiệp thông với Giáo Hội phổ quát (21)
Hiệp thông với Giáo Hội tại Châu Á (22)
Hiệp thông trong giáo phận (23)
Hiệp thông với hàng giáo phẩm (24)
Hàng giáo sĩ và giám mục (25)
Các tu sĩ (26)
Sự tham gia của giáo dân (27)
Nữ giới trong Giáo Hội (28)
Người trẻ (29)
Hiệp thông, chìa khóa của sứ vụ (30)
Chương IV : Loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh ngày nay
Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội (31)
Sứ vụ duy nhất và toàn diện (32)
Giáo Hội và xã hội (33)
Tính cộng đoàn của sứ vụ (34)
Hoạt động tông đồ và đời sống chiêm niệm (35)
Loan báo Tin Mừng với cung cách của Đức Giêsu (36)
Giáo dục (37)
Giáo dục lương tâm (38)
Đối thoại (39)
Đối thoại với các tôn giáo (40)
Đối thoại với người nghèo (41)
Đối thoại với người không tôn giáo (42)
Mục vụ gia đình (43)
Mục vụ giới trẻ (44)
Mục vụ di dân (45)
Bảo vệ môi sinh (46)
Mục vụ truyền thông (47)
Kết luận (48)
Hội đồng Giám mục Việt Nam
nguồn: web Hội Đồng Giám Mục VN
http://hdgmvietnam.org/