Trở về
lại với Bài Giảng của ĐTC Phanxicô trong Thánh lễ Làm Phép Dầu Thứ Năm Tuần
Thánh 2013. Bản dịch mới, có hiệu đính của Lm Phi Khanh Vương Đình Khởi, ofm
Đôi lời giải thích
Vào ngày Chủ
nhật, 07-07-2013, tôi nhận được thư điện tử của Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương,
Giám mục Đàlạt, với lời yêu cầu: “Xin Cha giải thích câu Cha đã dịch: ‘hương thơm của đoàn chiên’ vì có
vài cách dịch khác nhau:
‘hương của đoàn chiên mình’
‘mùi của đàn chiên mình’
Shepherds
living with ‘the smell of the sheep’
Shepherds
living with ‘the odour of the sheep’
Des
pasteurs avec ‘l’odeur de leurs
brebis’ “.
Đức Cha Antôn cũng đính kèm hai bài để “đọc thêm”. Đó là lời
giải thích của Đức Tân Giám mục An-phong Nguyễn Hữu Long, Giám mục Phụ tá Giáo
phận Hưng Hóa, trả lời câu hỏi của một
phóng viên, tại sao ngài chọn châm ngôn cho mình là “Mang vào mình mùi chiên”. Và một bài viết của Vũ Văn An, Nguồn: vietcatholic.net, trong đó tác giả biểu
đồng tình với Stephen White, một chuyên viên nghiên cứu về Công Giáo Học tại
Trung Tâm Đạo Đức và Chính Sách Công ờ
Tôi đã đọc lại thật kỹ nguyên bản tiếng Ý bài giảng Lễ Dầu
của ĐTC, đối chiếu với nhiều bản dịch khác và với bài viết của Vũ Văn An. Tôi
phải khiêm tốn nhìn nhận rằng khi dịch cụm từ “con l’odore delle pecore” (ở khúc 7) trong bài giảng của ĐTC thành “(Hãy làm những mục tử) với hương thơm của đoàn chiên”, là mình
đã không hiểu đúng tư tưởng của ĐTC, do có một cách nhìn hơi quá lạc quan về
ý nghĩa của phép xức dầu, mà không chú ý đủ tới góc nhìn rất thực tế của ngài
về Dân Chúa và về vai trò của các mục tử ở giữa Dân Chúa. Tôi xin giải thích
như sau.
Chắc chắn toàn bộ bài giảng của ĐTC thể hiện một tầm nhìn
lạc quan và tích cực về phép xức dầu:
-
Dầu ở đây là “Dầu
Thánh (Crisma, mà chất liệu thực tế là dầu ô-liu pha với hương liệu, tức
Crisma là một lọai dầu thơm)”; dầu ở đây là “dầu quý (olio prezioso)” (khúc 2 và 4), với mục đích: để “ướp thơm” (profumare) những con người,
từ tư tế Aharon xuống đến những người sống ở “những vùng ngoại biên”…(khúc 4).
-
ĐTC nhấn mạnh khi ngỏ lời với các linh mục rằng: “dầu xức không phải để ướp thơm bản thân
chúng ta” (cuối khúc 4), nhưng là để xức
cho “dân của mình”, “xức bằng dầu hoan lạc”, “bằng cách làm cho Tin Mừng mà
chúng ta rao giảng đi vào cuộc sống thường ngày của họ, … giống như dầu xức cho
ông A-ha-ron, Tin Mừng chảy xuống tận đường viền của thực tế cuộc sống…”(đầu khúc
5).
-
Dầu Thánh, dầu quý, dầu hoan lạc ấy chính là “Dầu Thơm hoặc hương thơm (il profumo) của
Đức Kitô, Đấng-Được-Xức-Dầu. Dầu ấy đến với Dân qua chúng ta (các linh mục). Dân chỉ ước muốn được xức bằng dầu thơm, vì họ biết chúng ta
có thứ dầu đó. (giữa khúc 5).
-
ĐTC kêu gọi các linh mục hãy “đi ra để trải nghiệm phép xức dầu của chúng ta, trải nghiệm sức mạnh và
tính công hiệu mang giá trị cứu chuộc của nó: tại những “vùng ngọai biên”, nơi
có đau khổ, nơi có đổ máu, nơi có sự mù lòa đang ước muốn được nhìn thấy, nơi
có những tù nhân của biết bao ông chủ độc ác…” (khúc 6).
-
Tiếp đến, ĐTC phàn nàn những linh mục “ít đi ra khỏi chính mình, ít xức dầu (hoan
lạc) cho dân chúng”. Những linh mục đó có nguy cơ quên mất sứ vụ “người trung gian” và rơi vào vị trí của
“người môi giới (mối lái) và người quản
trị”, và một số trong họ “cuối cùng
trở thành những linh mục buồn và biến chất thành một thứ nhà sưu tập đồ cổ hoặc
đồ mới”(khúc 7).
-
Cho đến đây (nghĩa là từ khúc 2 đến giữa khúc 7 của bài
gỉang), ĐTC có một tầm nhìn lạc quan và tích cực về ơn gọi và sứ vụ của linh
mục qua lời khuyên mạnh mẽ được ngài diễn đạt bằng hình ảnh: “Hãy ra khỏi chính mình, hãy đi ra để trao ban chính mình và trao ban Tin
Mừng cho tha nhân, trao ban cái chút xíu dầu xức chúng ta đang có cho những
người không có tí nào cả” (khúc 6). Điều đó có nghĩa là: khi linh mục tận
tình xức dầu hoan lạc, dầu Phúc Âm cho Dân, tức cho đoàn chiên của mình, -- mà
Dân cũng “chỉ ước muốn được xức bằng dầu thơm (ấy), vì họ biết linh mục có thứ dầu đó (giữa
khúc 5), thì đoàn chiên của linh mục ắt cũng phải tỏa hương thơm, thứ hương
thơm mà họ nhận được từ Chúa Kitô qua trung gian linh mục (giữa khúc 5). Đó là
hương thơm của sự thánh thiện, mà nhiều ngôn ngữu Âu châu gọi là “mùi của sự thánh thiện (l’odore di
santità)”.
-
Tại sao ĐTC không dùng kiểu nói: “Siate pastori con il profumo delle pecore” (Hãy làm những mục tử
với hương thơm của đoàn chiên), mà lại dùng kiều nói “Siate pastori con l’odore delle
pecore (…những mục tử với mùi của đoàn chiên)”? – Thực ra về phương
diện ngôn ngữ học, danh từ “l’odore” (dịch
sát là “mùi”), khi đứng một mình, thường
có một nghĩa “trung lập” và tổng quát, do đó người ta phải thêm một tính từ để
xác định tính chất cụ thể cho từng trường hợp, như “un buon odore” (một mùi tốt, tức là mùi thơm), hoặc “un cattivo odore” (một mùi xấu, tức mùi hôi,
thối). Tuy nhiên vẫn có trường hợp “l’odore”
không có tính từ “buono” đi kèm, mà
vẫn có nghĩa tích cực, như trong thành ngữ “ morire in odore di santità = chết trong mùi (của sự) thánh thiện” ,
tức, theo tiếng Việt chuẩn, chết trong hương
thơm (của sự) thánh thiện”, bởi lẽ sự thánh thiện tự nó có giá trị tích
cực, cho nên mùi của nó tất nhiên phải là mùi thơm, hoặc hương thơm.
-
Phải chăng, khi dùng cụm từ “con l’odore delle pecore”, ĐTC muốn hiểu rằng đoàn chiên của linh
mục “có cả mùi thơm và mùi không thơm”, nghĩa
là “có cả nhũng mặt tích cực và những mặt
tiêu cực” ? – Có thể là như thế, nếu hiểu “l’odore” theo nghĩa trung lập và tồng quát. Nhưng chính câu tiếp
theo “che si senta quello” (”mùi này phải
được người ta cảm nhận”) phải giúp chúng ta hiểu đúng nghĩa của cụm từ “mục tử với mùi của đoàn chiên”. Thực ra,
nếu dịch sát, thì phải nói: “mùi này phải
được cảm nhận” – như bản tiếng Pháp trên trang mạng
Nhìn chung, ĐTC đã triển khai và ứng dụng hai ý tưởng
chính: một là ý nghĩa của phép xức dầu mà tiêu biểu là phép xức dầu cho tư tế
A-ha-ron được phản ánh trong Tv 133, 2, với
hình ảnh dầu chảy xuống tận gấu áo chầu, tượng tưng cho những “vùng ngoại biên”
của đới sống con người và xã hội; hai là ý nghĩa các biểu tượng nơi lễ phục của
Thượng Tế trong Cựu Ước. Cả hai ý tưởng được ngài đưa ra ở phần đầu bài giảng
(khúc 2 và 3) và chúng quyệt chặt vào nhau trong các lời suy niệm và các ứng
dụng của ngài. Bây giờ tôi hiểu ra rằng hai lời khuyên chính yếu và mạnh mẽ
nhất ngài ngỏ với các linh mục là những cách ứng dụng hai ý tưởng chính ấy. Lời
khuyên thứ nhất: “Hãy ra khỏi chính mình,
hãy đi ra để trao ban chính mình và
trao ban Tin Mừng cho tha nhân, trao ban cái chút xíu dầu xức chúng ta đang có
cho những người không có tí nào cả”(khúc 6), ứng dụng ý tưởng thứ nhất. Còn lời khuyên thứ hai: “Anh em hãy làm những mục tử với ‘mùi của
chiên’, mùi này phải được người ta cảm nhận”, là cách ngài ứng dụng
ý tưởng thứ hai. Thật vậy, lình mục phải là “những
mục tử ở giữa đoàn chiên của mình” (khúc 7); khi khoác chiếc áo lễ khiêm
tốn vào mình, điều này có thể giúp linh mục cảm thấy thấm thía, trên đôi vai và trong trái tim, sức
nặng và gương mặt của dân tín hữu được trao phó cho mình (khúc
3); dân chúng cám ơn linh mục vì họ cảm thấy rằng ngài đã đưa vào lời cầu
nguyện của mình những thực tế đời sống thường ngày của họ, những đau khổ, những
niềm vui, những lo âu và những hy vọng (khúc 5). Những điều này chứng tỏ: linh
mục biết rõ chiên của mình, và vì thực sự “ở giữa đoàn chiên”, nên linh mục
là mục tử mang mùi chiên của mình, “sống với mùi của chiên” (theo các bản dịch
tiếng Anh: Shepherds living with ‘the smell
of the sheep’, with ‘the odour of the sheep’), hay là “mục tử
thấm mùi chiên của mình” (theo bản dịch tiếng Pháp: “des pasteurs pénétrés de ‘l’odeur de leurs brebis’ “
(khúc 7). “Ở giũa đoàn chiên”, “thấm mùi chiên”, điều đó cũng có nghĩa là linh
mục biết lắng nghe – động từ “sentire”
bên tiếng Ý cũng có nghĩa là “nghe”(udire,
ascoltare), sau nghĩa cơ bản là “ngửi”, là “cảm nhận”. Linh mục nghe và cảm
nhận ”những thực tế đời sống thường ngày
của họ (tức đoàn chiên), những đau
khổ, những niềm vui, những lo âu và những hy vọng của họ” , để “đưa vào lời cầu nguyện của minh” (khúc
5), và để “trao ban chính mình, trao ban
Tin Mừng, trao ban cả chút dầu xức mình đang có cho họ” (khúc 6), nhằm phục
vụ họ, tỏ tình liên đới với họ, vì linh mục là người “hiện hữu cho tha nhân” (khúc 2), đồng thời chứng tỏ cho họ
thấy “sức mạnh và tính công hiệu mang giá
trị cứu chuộc của dầu xức mà linh mục đang có trong mình (khúc 5). Mặc dầu
cụm từ “pastori cum l’odore delle
pecore”(những mục tử mang mùi chiên, thấm mùi chiến, sống với mùi chiên)” có
một nghĩa chuyên biệt liên quan tới nhiệm vụ của mục tử phải “biết chiên của mình” theo gương Chúa
Giêsu (x. Ga 10), tuy nhiên mục đích cuối cùng của sự “thấm mùi chiên”, “biết
chiên của mình” là: linh mục phải lấy
dầu xức, mình đã nhận trong ngày chịu chức, mà xức cho Dân (x. khúc 5), để cả
họ nữa, cũng tỏa hương thơm thánh thiện, bởi lẽ dầu xức đó, chính là “dầu hoan lạc mà Đức Giêsu, Đấng-Được-Xức-Dầu,
đã mang đến cho chúng ta” (khúc 9).
Với sự điều chỉnh mới nhất này trong bản dịch, tôi xin chân
thành cám ơn Đức Giám Mục Đà Lạt đã tạo cơ hội cho tôi đào sâu thêm bài giảng
quan trọng của ĐTC Phanxicô; cám ơn các tác giả Vũ Văn An và Stephen White về những
lý luận rất xác đáng, cám ơn các dịch giả đã dịch sát nguyên bản; đặc biệt tôi
ngưỡng mộ sáng kiến độc đáo của Đức Tân Giám Mục Phụ Tá An-phong Nguyễn Hữu
Long của Giáo phận Hưng Hóa đã chọn châm ngôn “Mang vào mình mùi chiên”
rút ra từ bài giảng của ĐTC; cuối cùng tôi chân thành tạ lỗi với Đức Thánh Cha
Phanxicô và xin lỗi Quý Vị Độc Giả vì đã dịch chưa sát một ý tưởng quan trọng
của Đức Tân Giáo Hoàng.
Lm Phi Khanh Vương Đình Khởi, ofm
Đàlạt, ngày 10-07-2013
Sau đây là bản dịch (có hiệu đính) bài giảng của ĐTC (những chi tiết được chỉnh sửa trong khúc 7, mang màu xanh):
Anh Chị
Em thân mến,
(1) Thật là một niềm vui cho tôi, khi được cử hành Thánh
Lể Làm Phèp Dầu đầu tiên trong cương vị Giám Mục Rôma. Với lòng trìu mến, tôi
chào tất cả anh chị em, đặc biệt các anh em linh mục thân yêu, hôm nay, anh em
cũng như tôi, nhớ lại ngày chịu chức thánh của mình.
(2) Các Bài đọc, và cả Thánh vịnh đáp ca nữa, nói với
chúng ta về những “Người-Được-Xức-Dầu”: Người Tôi Trung của Thiên Chúa trong
sách Isaia, vua Đavít, và Đức Giêsu, Chúa chúng ta. Cả ba Vị này có một điểm
chung, là phép xức dầu, mà các ngài lãnh nhận, đều nhắm vào việc xức dầu cho
dân Thiên Chúa gồm những tín hữu, mà các ngài là những đầy tớ phục vụ họ; mục
đích của việc các ngài chịu xức dầu là để phục vụ người nghèo, người bị cầm tù,
người bị áp bức…Một hình ảnh rất đẹp diễn tả ý nghĩa “hiện hữu cho tha nhân”
hàm chứa trong Dầu Thánh, là hình ảnh tìm thấy trong Thánh vịnh 133: “Như dầu
quý đổ trên đầu, xuống râu, xuống râu ông A-ha-ron, xuống gấu áo chầu của ông”
(câu 2). Hình ảnh dầu chảy tràn, từ râu ông A-ha-ron xuống đến tận gấu lễ phục
thánh thiêng của ông, là hình ảnh diễn tả phép xức dầu cho các tư tế, dầu đó,
xuyên qua Người-Được-Xức-Dầu, chảy đến tận bờ cõi vũ trụ được biểu trưng bởi lễ
phục.
(3) Lễ phục thánh thiêng của Vị Thượng Tế có rất nhiều hệ
thống biểu tượng: một trong số đó là biểu tượng mang tên các con trai của ông
It-ra-en, tên của họ được khắc trên những viên đá mã não trang điểm cho hai cầu
vai của áo ê-phốt, là tiền thân của áo lễ -- casula –chúng ta dùng ngày nay:
sáu tên trên miếng đá ở cầu vai phải và sáu tên trên miếng đá ở cầu vai trái
(x. Xh 28, 6-14). Trên túi đeo trước ngực cũng khắc tên mười hai chi tộc
It-ra-en (x. Xh 28, 21). Điều này có nghĩa là: vị tư tế khi cử hành phụng tự
thì vác trên vai mình chính dân đã được trao phó cho mình và mang tên của họ
được khắc ghi trong tim. Khi khoác chiếc áo lễ khiêm tốn của chúng ta vào mình,
điều này có thể giúp chúng ta cảm thấy thấm thía, trên đôi vai và trong trái
tim, sức nặng và gương mặt của dân tín
hữu chúng ta, của các thánh và các Vị tử vì đạo của chúng ta, mà thời nay có
không biết bao nhiêu mà kể!
(4) Từ vẻ đẹp của những gì thuộc về Phụng vụ, -- mà không
chỉ đơn thuần để trang trí và đáp ứng một sở thích thưởng thức cái đẹp nơi vải
vóc, nhưng chính là sự hiện diện của vinh quang Thiên Chúa đang tỏa rạng nơi
dân của Người, một dân sống động và được củng cố vững mạnh, bây giờ chúng ta
hãy bước sang phần chú mục vào hành động. Dầu quý xức lên đầu ông A-ha-ron
không chỉ ướp hương cho con người ông thơm tho, nhưng chảy tràn và chạm đến các
“vùng ngoại biên”. Chúa sẽ nói rõ điều đó: ngài được xức dầu là vì người nghèo,
vì người bị cầm tù, vì người bệnh tật và vì những ai buồn bã, cô đơn. Anh em
thân mến, dầu xức không phải để ướp thơm bản thân chúng ta và lại càng không
phải để lưu trữ trong bình, trong lọ, vì nó sẽ trở nên ôi khét…và cõi lòng sẽ
trở thành đắng đót.
(5) Người ta nhận ra một linh mục tốt từ cách dân của ngài
được xức dầu như thế nào; đây là bằng chứng rõ ràng. Khi dân chúng của chúng ta
được xức bằng dầu hoan lạc, người ta sẽ nhận thấy: ví dụ, khi họ ra khỏi nhà
thờ sau Thánh Lễ với gương mặt của người đã nhận được một tin mừng. Dân chúng
của chúng ta ưa thích Tin Mừng được rao giảng với sức thấm nhập đầy thuyết phục
của dầu xức, ưa thích khi Tin Mừng mà chúng ta rao giảng đi vào cuộc sống
thường ngày của họ, khi Tin Mừng, giống như dầu xức cho ông A-ha-ron, chảy
xuống tận đường viền của thực tế cuộc sống, khi Tin Mừng chiếu sáng cho những
hoàn cảnh tột cùng, những “vùng ngoại biên”, nơi mà dân tín hữu bị đẩy vào nguy
cơ bị xâm lăng bởi những kẻ muốn cướp phá đức tin của họ. Dân chúng cám ơn
chúng ta vì họ cảm thấy rằng chúng ta đã đưa vào lời cầu nguyện của mình những
thực tế đời sống thường ngày của họ, những đau khổ, những niềm vui, những lo âu
và những hy vọng. Và khi họ cảm thấy hương thơm của Đức Kitô,
Đấng-Được-Xức-Dầu, đến với họ qua chúng ta, họ được khích lệ để ký thác cho
chúng ta tất cả những gì họ ước muốn đẩy lên tới Chúa: “Xin Cha cầu nguyện cho
con, vì con có vấn đề này…”; “Xin chúc lành cho con”, “Xin cầu nguyện cho con”,
đó là dấu hiệu cho thấy dầu xức đã đạt tới gấu chiếc áo choàng, bởi lẽ nó đã
biến thành lời cầu khẩn, lời khẩn cầu của Dân Thiên Chúa. Khi chúng ta đứng
trong mối tương quan như thế với Thiên Chúa và với Dân của Người, và ơn thánh
đi xuyên qua chúng ta, lúc đó chúng ta là linh mục, là người trung gian giữa
Thiên Chúa và loài người. Điều tôi cố ý làm nổi rõ là chúng ta phải làm cho ơn
thánh luôn luôn hồi sinh, và phải thấy được bằng trực giác rằng, trong mỗi lời
xin, đôi khi không đúng lúc, đôi khi thuần túy vật chất hoặc nói trắng ra là
tầm thường – nhưng chỉ có dáng vẻ như thế thôi -- , trong mỗi lời xin của dân
chúng có chứa đựng một ước muốn được xức
bằng dầu thơm, vì họ biết chúng ta có thứ dầu đó. Nhận thức bằng trực giác và
cảm nhận, như Chúa đã cảm nhận sự lo âu đầy hy vọng của người đàn bà bị bệnh
xuất huyết, khi bà ấy chạm tới vạt áo choàng của Người. Thời khắc ấy của Đức
Giêsu ở giữa đám dân chúng đang vây quanh Người từ mọi phía, thể hiện tất cả vẻ
đẹp của A-ha-ron mang lễ phục tư tế và với dầu xức đang chảy xuống trên áo
chầu. Đó là một vẻ đẹp ẩn dấu, chỉ tỏa rạng cho cặp mắt đầy lòng tin của người
đàn bà đã bị bệnh xuất huyết ấy. Tuy nhiên, chính các môn đệ -- những linh mục
tương lai – đã không thấy được, không hiểu được: trong “vùng ngoại biên của
cuộc hiện sinh”, họ chỉ thấy bề mặt của sự kiện đám đông đang chen lấn từ mọi
phía làm Đức Giêsu nghẹt thở (x. Lc 8, 42). Trái lại, Chúa thì cảm nhận được
sức mạnh của dầu xức mà Người đã nhận lãnh từ Thiên Chúa tràn đến viền áo
choàng của mình.
(6) Như thế chúng ta cần phải đi ra để trải nghiệm phép
xức dầu của chúng ta, trải nghiệm sức mạnh và tính công hiệu mang giá trị cứu
chuộc của nó: tại những “vùng ngọai biên”, nơi có đau khổ, nơi có đổ máu, nơi
có sự mù lòa đang ước muốn được nhìn thấy, nơi có những tù nhân của biết bao
ông chủ độc ác. Ắt hẳn, không phải qua những tự lực thử nghiệm hoặc sự nội quan
lặp đi lặp lại mà chúng ta gặp gỡ được Chúa đâu: các khóa học tự trợ giúp trong
cuộc đời có thể hữu ích, nhưng sống đời sống linh mục của chúng ta bằng cách đi
từ khóa học này đến khóa học khác, từ phương pháp này đến phương pháp nọ,
sẽ đưa chúng ta đến chỗ trở thành những
đồ đệ của Pélage, đến chỗ làm giảm nhẹ sức mạnh của ơn thánh. Ơn thánh trở nên
sinh động và tăng trưởng trong mức độ mà chúng ta, được thúc đẩy bởi đức tin,
đi ra để trao ban chính mình và trao ban Tin Mừng cho tha nhân, trao ban cái
chút xíu dầu xức chúng ta đang có cho những người không có tí nào cả.
(7) Linh mục nào mà ít đi ra khỏi chính mình, ít xức dầu
cho dân chúng - tôi không nói “không xức tí nào cả”, bởi lẽ, cảm tạ Chúa, chính
dân chúng “lấy cắp” được dầu của chúng ta -, Linh mục ấy sẽ đánh mất phần tốt
nhất trong dân của chúng ta, đánh mất điều có khả năng kích hoạt phần sâu sắc
nhất của trái tim linh mục. Ai không đi ra khỏi chính mình, thì, thay vì làm
người trung gian, sẽ từng bước trở thành một người môi giới và một nhà quản
trị. Tất cả chúng ta đều biết sự khác biệt: người môi giới và nhà quản trị “đã
lãnh thù lao của mình rồi”, và bởi lẽ họ không đem chính mạng sống và chính
trái tim mình ra để đánh cược, thì họ cũng không nhận được một lời cảm ơn trìu
mến xuất phát từ trái tim của dân chúng. Chính từ đó phát sinh tâm trạng không
thỏa mãn nơi một số Linh mục, và cuối cùng các vị này mang tâm thế buồn, trở
thành những Linh mục buồn và biến chất thành một thứ nhà sưu tập đồ cổ hoặc đồ
mới, thay vì làm những mục tử với “mùi của chiên”
– vâng, chính đây là điều tôi xin anh em: anh em hãy làm những mục tử với “mùi của chiên”, mùi này phải được người ta cảm nhận
--; và thay vì làm những mục tử ở giữa đoàn chiên của mình, và những người thả
lưới gom người. Đúng là cái được gọi là cuộc khủng hoảng căn tính Linh mục đang
de dọa tất cả chúng ta và nó được ghép vào với cuộc khủng hoảng của nền văn
minh; tuy nhiên, nếu chúng ta biết chế ngự làn sóng của nó, chúng ta sẽ có thể
ra khơi nhân danh Chúa mà thả lưới. Thật là một điều tốt, khi chính thực tế
cuộc sống đưa đẩy chúng ta ra đi đến chỗ, mà cái thực chất của chúng ta là do
ơn thánh mới có được, nay xuất hiện rõ ràng như ơn thánh thuần túy, ngay trong
biển cả của thế giới hôm nay, nơi chỉ dầu xức – chứ không phải chức năng – là
thực sự có giá trị, và chỉ những tấm lưới nào được thả xuống nhân danh Đấng, mà
chúng ta đặt hết lòng tín thác vào Người, tức là Đức Giêsu, thì mới mang lại
kết quả phong phú.
(8) Anh chị em tín hữu thân mến, anh chị em hãy ở gần bên
các Linh mục của mình với lòng trìu mến và kinh nguyện, để các ngài luôn luôn
là những Mục tử như lòng Chúa ước mong.
(9) Anh em Linh mục thân mến, nguyện xin Thiên Chúa Cha
lại ban Thần Khí của sự thánh thiện vào trong chúng ta, chúng ta đã được xức
bằng chính dầu Thần Khí, xin Chúa Cha lại ban Thần Khí của Người vào trong trái
tim chúng ta thế nào, để dầu xức chạm tới được tất cả các “vùng ngoại biên”,
nơi mà dân tín hữu của chúng ta đang chờ đợi và coi trọng dấu ấy nhất. Chớ gì
dân chúng của chúng ta cảm nhận được chúng ta là những môn đệ của Chúa, cảm
nhận được rằng chúng ta mang tên của họ như một tấm áo, rằng chúng ta không tìm
kiếm một căn tính nào khác; và chớ gì, qua lời nói và việc làm của chúng ta, họ
nhận được thứ dầu hoan lạc mà Đức Giêsu, Đấng-Được-Xức-Dầu, đã mang đến cho
chúng ta. Amen.