ĐGH Phanxicô - Bài Suy Niệm Tĩnh Tâm Năm Thương Xót Dành Cho Linh Mục -
Bài 3: Hương Thơm Của Đức Kitô và Ánh Sáng Của Lòng Thương Xót
(muoisanhsang.com)
Trong lần này, cuộc gặp gỡ lần thứ ba này,
tôi đề nghị rằng chúng ta sẽ suy niệm về các công việc của lòng thương xót,
bằng việc chọn lựa bất cứ việc nào mà chúng ta cảm thấy có liên hệ gần gũi với
đặc sủng của chúng ta nhất, và bằng việc nhìn vào các công việc này như một
tổng thể. Chúng ta có thể chiêm niệm chúng qua đôi mắt đầy lòng thương xót của
Mẹ Maria, Đấng sẽ giúp chúng ta tìm thấy được “rượu đang thiếu” và khích
lệ chúng ta “hãy làm bất cứ điều gì Thầy bảo” (x. Ga 2:1-12), để lòng
thương xót của Ngài có thể thực hiện các phép lạ mà dân chúng ta cần.
Các công việc của lòng thương xót thì gắn
liền với “những cảm thức thiêng liêng”. Trong việc cầu nguyện của mình, chúng
ta xin ân sủng để “cảm nghiệm và nếm trải” Tin Mừng mà điều ấy có thể làm
cho chúng ta cảm thấy “nhạy bén” hơn trong đời sống của chúng ta. Được
Chúa Thánh Thần thúc đẩy và được Chúa Giêsu dẫn dắt, chúng ta có thể thấy
từ xa, bằng đôi mắt của lòng thương xót, những người đang bị ngã trên đường.
Chúng ta có thể nghe tiếng kêu của anh mù Bartimaeus và cảm cùng với Chúa Giêsu
cái chạm nhút nhát nhưng cương quyết của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết, khi
bà chạm vào dây đai lưng của Ngài. Chúng ta có thể xin ân sủng để nếm trải cùng
Chúa Giêsu chịu đóng đinh mật đắng của tất cả mọi người cùng chia sẻ thập giá
với Ngài, và mùi hôi thối của những nỗi thống khổ - ở nơi các bệnh viện dã
chiến, ở nơi các toa xe lửa và ở các chiếc tàu đầy ắp người. Dầu thơm của
lòng thương xót không phân biệt mùi hôi thối này. Thay vào đó, bằng việc
xức dầu lên đó, nó làm thức tỉnh niềm hy vọng mới.
Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, trong khi bàn về
các công việc của lòng thương xót, nói cho chúng ta rằng “khi mẹ Ngài quở trách
Ngài vì việc chăm sóc cho người nghèo và bệnh tật tại nhà, Thánh Rosa Lima đã trả
lời mẹ Ngài: ‘Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người đau yếu, thì chúng
ta là hương thơm của Đức Kitô’” (Số 2449, Latinh). Hương thơm ấy của
Đức Kitô – việc chăm sóc người nghèo – là, và luôn luôn là, cột trụ của
Giáo Hội. Thánh Phaolôđã biến điều này thành trọng tâm của cuộc gặp gỡ giữa
Ngài với Thánh Phêrô, Gia-cô-bê và Gioan, “các cột trụ” của Giáo Hội. Ngài nói
cho chúng ta biết là các vị “chỉ xin một điều, là chúng ta nhớ đến người
nghèo” (Gl 2:10). Sách Giáo Lý tiếp tục nói một cách trang trọng rằng “những
người bị áp bức bởi sự nghèo là đối tượng của một tình yêuưu tiên về
phía Giáo Hội, một tình yêu mà ngay từ cội nguồn của mình, và bất chấp sự thất
bại của nhiều thành viên của Giáo Hội, vẫn không ngừng làm việc vì sự cứu trợ,
bảo vệ và giải phóng của họ” (Số 2448).
Trong Giáo Hội chúng ta có, và luôn luôn có, các
tội lỗi và thất bại của chúng ta. Nhưng khi Giáo Hội ra đi để phuc vụngười
nghèo ngang qua các công việc của lòng thương xót trong tư cách là một
Giáo Hội thì chúng ta luôn luôn đi theo những thúc đẩy của Chúa Thánh
Thần. Các thánh của chúng ta thực hiện điều này theo những cách rất sáng tạo và
hiệu quả. Tình yêu dành cho người nghèo đã là một dấu chỉ, ánh sáng cuốn hút
người dân đến với vinh quang của Chúa Cha. Dân của chúng ta trân quý điều này ở nơi
một linh mục biết chăm sóc người nghèo và người đau yếu, những người mà người
linh mục tha thứ các tội lỗi của họ và những người mà vị linh mục dạy dỗ và sửa
dạy... Người dân của chúng ta tha thứ cho chúng ta là các linh mục nhiều thất
bại, trừ sự thất bại đối với việc dính bén đến tiền của. Điều này chẳng có liên
hệ gì nhiều đến chính đồng tiền, nhưng sự thật là đồng tiền làm cho chúng ta mất
đi kho tàng của lòng thương xót. Người dân của chúng ta khám phá được
những tội nào thực sự là nghiêm trọng đối với một linh mục, các tội lỗi giết
chết sứ vụ của vị linh mục vì nó biến linh mục ấy thành một người quan liêu
hay, thậm chí tồi tệ hơn, một người lính đánh thuê. Họ cũng có thể nhận ra
được những tội lỗi nào, tôi không nói là thứ yếu, mà là những tội phải được
mang theo, mang như mang lấy thập giá, cho đến khi cuối cùng Chúa sẽ đốt
chúng đi như đốt rơm rạ. Nhưng sự thất bại của một linh mục để trở nên thương
xót là một mâu thuẫn rõ ràng. Tội này đánh thẳng vào trọng tâm của ơn cứu độ,
chống lại Đức Kitô, Đấng “đã trở nên nghèo khó để nhờ sự nghèo khó
của Ngài mà chúng ta trở nên giàu có” (x. 2 Cr 8:9). Vì lòng thương xót chữa
lành “bằng việc đánh mất một điều gì thuộc về chính nó”. Chúng ta cảm thấy đau
nhói hối tiếc và chúng ta đánh mất một phần của cuộc sống, vì thay vì làm điều
mà chúng ta muốn làm, chúng ta đã vươn ra chạm đến một người khác.
Vì thế không phải việc Thiên Chúa tỏ cho tôi lòng
thương xót vì tội này hay tội kia, như thể là hoặc tôi tự đủ, hoặc về
việc chúng ta thực hiện một vài việc làm của lòng thương xót đối với người
này hay người kia đang cần giúp đỡ. Ân sủng mà chúng ta tìm kiếm trong
việc cầu nguyện này là việc để cho bản thân chúng ta được Thiên Chúa thể hiện
lòng thương xót trong mọi khía cạnh của đời sống của
chúng ta và sau đó tới lượt chúng ta cũng thể hiện lòng thương xót cho
người khác trong hết mọi việc chúng ta làm. Là các linh mục và giám mục, chúng
ta hãy làm việc cùng các bí tích, rửa tội, nghe giải tội, cử hành Thánh Thể... Lòng
thương xót là cách thế của chúng ta làm cho toàn bộ đời sống của dân
Chúa thành một bí tích. Biết xót thương không chỉ là “một lối sống”, mà là “lối
sống”. Không có cách nào khác để là một linh mục. Cha Brochero, sẽ sớm được
phong thánh, diễn tả thế này: “Linh mục có ít tình thương đối với các tội nhân
chỉ là một linh mục nửa vời. Những lễ phục tôi mặc không làm cho tôi trở thành
một linh mục; nếu tôi không có lòng bác ái trong trái tim tôi, thì tôi thậm chí
không phải là một Kitô Hữu”.
Để thấy những nhu cầu và mang lại sự cứu trợ ngay
lập tức, và thậm chí hơn thế, tiên liệu được những nhu cầu này: đây là dấu chỉ
cảu cái nhìn của một người cha. Cái nhìn linh mục này – vốn đóng vai
trò của người cha trong trái tim của Mẹ Giáo Hội – giúp cho chúng ta nhìn người
dân bằng đôi mắt của lòng thương xót. Cần phải học điều này kể từ khi ở chủng
viện, và điều này cần phải làm phong phú tất cả mọi kế hoạch và dự án mục vụ
của chúng ta. Chúng ta mong muốn, và chúng ta xin Thiên Chúa ban cho chúng ta,
một cái nhìn biết biện phân các dấu chỉ của thời đại, biết được “những công
việc của lòng thương xót nào mà ngày nay người dân đang cần” để cảm
nhận và nếm trải Thiên Chúa của lịch sử là Đấng đang bước đi giữa họ. Vì,
như văn kiện Aparecida nói, khi trích lời của Thánh Alberto Hurtado: “Trong các
công việc của chúng ta, người dân chúng ta biết là chúng ta hiểu nỗi khổ của
họ” (Số 386). Trong công việc của chúng ta...
Bằng chứng mà chúng ta hiểu là các công việc của
lòng thương xót của chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc và đáp ứng
sự giúp đỡ và sự hợp tác của người dân chúng ta. Một số kế hoạch và dự án
không mang lại kết quả tốt, mà không có người dân nào biết được tại sao. Họ vắt
óc suy nghĩ trong khi nỗ lực để đưa ra mà là một kế hoạch mục vụ
khác, rồi tất cả mọi người đành phải nói: “Dự án này không hiệu quả vì nó thiếu
lòng thương xót”, mà không giải thích gì thêm. Nếu công việc này không được
chúc phúce, thì bởi vì nó thiếu lòng thương xót. Nó thiếu lòng thương xót được
tìm thấy ở nơi một bệnh viện dã chiến, chứ không phải là ở nơi một
trung tâm đa khoa đắt tiền; nó thiếu lòng thương xót trân trọng điều tốt
lành và mở cửa ra cho một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, hơn là làm cho ai đó quay
gót đi với một lời chỉ trích gay gắt...
Tôi sẽ đưa ra một lời cầu nguyện về một người
phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ (Ga 8:3-11), để xin ân sủng để biết
xót thương trong toà giải tội, và một lời cầu nguyện khác về chiều kích xã hội
của các công việc của lòng thương xót.
Tôi đã luôn bị đánh động bởi đoạn kinh thánh
về cuộc gặp gỡ của Chúa với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình,
và cách mà, qua việc từ chối kết án cô, Ngài “đã vi phạm” Lề Luật. Khi trả lời
cho câu hỏi mà họ đặt ra để thử Ngài – “chúng tôi có nên ném đá hay không?”
– Ngài không đưa ra quy định, Ngài không áp dụng lề luật. Ngài im lặng, và
rồi hướnng sang một điều khác. Do đó, Ngài tiến hành một tiến trình
trong tâm hồn của người phụ nữ là người cần nghe những lời này: “Cả tôi
nữa, tôi cũng không kết án chị đâu”. Ngài đưa tay Ngài ra để giúp cô
đứng lên, giúp cô thấy được cái nhìn dịu dàng làm thay đổi tâm hồn cô.
Đôi khi tôi cảm thấy buồn và phiền toái một chút
khi người ta đi thẳng đến lời cuối cùng mà Chúa Giêsu nói với cô: “Hãy về và
đừng phạm tội nữa”. Họ dùng những lời này để “bảo vệ” Chúa Giêsu khỏi việc bỏ
qua lề luật. Tôi tin rằng những lời của Đức Kitô là một mảnh với những hành động
của Ngài. Ngài cúi xuống để viết trên mặt đất như một khúc dạo đầu cho điều mà
Ngài sẽ nói với những người muốn ném đá người phụ nữ, và Ngài làm thế một lần nữa
trước khi nói với cô. Điều này nói cho chúng ta một điều gì đó về “thời
gian” mà Chúa tham gia vào việc phán quyết và tha thứ.
Thời gian Ngài ban cho mỗi người nhìn vào tâm hồn
của mình và rồi bỏ đi. Trong khi trò chuyện với người phụ nữ, Chúa mở ra
các không gian: một không gian không lên án. Tin Mừng rõ ràng đề cập điều
này là một không gian mở. Nó làm cho chúng ta thấy được mọi sự ngang qua
đôi mắt của Chúa Giêsu, Đấng nói với chúng ta: “Tôi không thấy một ai khác
nữa ngoài người phụ nữ này”.
Rồi Chúa Giêsu làm cho chính người phụ nữ
nhìn quanh. Ngài hỏi cô: “Những người kết án chị đâu cả rồi?” (Từ “kết án”
tự thân nó là quan trọng, bởi vì nó nói về điều mà chúng ta thấy không thể
chấp nhận được về những người kến án hay châm biếm chúng ta...). Khi Ngài đã mở ra
trước mắt cô không gian này được giải thoát khỏi những phán xét của người khác,
thì Ngài nói với cô Ngài cũng sẽ không ném đá đâu: “Tôi cũng không
kết án chị đâu”. Rồi Ngài mở ra một không gian tự do khác trước mắt
cô: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Mệnh lệnh của Ngài có liên hệ đến
tương lai, giúp cô thực hiện một khởi đầu mới và “bước đi trong tình yêu”. Đó
chính là sự nhạy bén của lòng thương xót: nó nhìn bằng sự thương cảm về
quá khứ và mang lại sự khích lệ cho tương lai.
Những lời này, “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”
thì không dễ dàng gì. Chúa nói những lời này “với cô”. Ngài giúp cô thốt hành
lời những lời mà chính bản thân cô cảm nhận được, một tiếng nói “không” tự do
đối với tội lỗi thì giống như tiếng “xin vâng” trước ân sủng của Mẹ Maria.
Tiếng “không” đó phải được nói đối với tội lỗi đã bén rễ sâu hiện
diện ởnơi mọi người. Ở nơi người phụ nữ ấy, đó là một tội mang tính xã hội;
người ta đến với cô để hoặc ngủ với cô hoặc ném đá vào cô. Đó là lý do vì sao
mà Chúa không chỉ dọn sạch con đường cho cô, mà còn dẫn dắt cô đi trên con đường
ấy, để cô có thể dừng lại việc là “đối tượng” của cái nhìn của người khác và
thay vào đó kiểm soát cuộc sống của cô. Những lời này, “đừng phạm tội nữa”
không chỉ nói đến vấn đề luân lý, mà, tôi tin rằng, về một loại tội giam
giữ cô khỏi sống cuộc sống của cô. Chúa Giêsu cũng nói với người bại liệt ở Bét-sai-đa
đừng phạm tội nữa (Ga 5:14). Nhưng người đàn ông ấy đã tự làm cho ông ta
nên công chính bằng tất cả mọi điều buồn thảm đã “xảy ra với anh ta”; ông ta
mắc chứng mặc cảm là nạn nhân. Vì thế Chúa Giêsu đã thách đố anh ta
quá nhẹ nhàng bằng việc nói: “.... đừng để cho điều gì tồi tệ hơn xảy
ra với anh nữa”. Chúa tận dụng lối nghĩ của anh, sự sợ hãi của anh, để đưa
anh ta ra khỏi tình trạng bại liệt của anh. Ngài cho anh một chút sợ hãi, chúng
ta có thể nói. Vấn đề là mỗi người chúng ta đều đã nghe những lời “đừng phạm
tội nữa” một cách sâu sắc ở nơi chính mình.
Hình ảnh này về Thiên Chúa là Đấng đưa người
ta đi trên con đường của họ là rất đặc trưng. Ngài là Thiên ChúaĐấng bước
đi giữa dân của Ngài, Đấng dẫn họ tiến bước, Đấng đồng hành với lịch sử của
chúng ta. Do đó, đối tượng của lòng thương xót của Ngài thì khá rõ ràng: đó
là mọi thứ làm cho một người không bước đi trên con đường ngay chính của họ
nữa, với dân của họ, với nhịp sống của họ, đến nơi mà Thiên Chúa muốn họ đi.
Điều làm cho người ấy bối rối là việc người dân đi lạc, hoặc bị tụt lại phía
sau, hoặc nỗ lực để đi con đường đó bằng sức riêng họ. Rồi họ mang lấy kết
cục là chẳng tới đâu. Rằng họ không còn ở đó vì Chúa nữa, sẵn sàng để đi
bất cứ nơi nào Ngài sai họđi nữa. Rằng họ không còn bước đi cách
khiêm tốn trước mặt Ngài nữa (x. Mk 6:8), rằng họ không bước đi trong tình
yêu nữa (x. Ep 5:2).
Không gian của toà giải tội,
nơi sự thật giải thoát chúng ta
Nói về không gian, chúng ta hãy đến toà giải
tội. Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trình bày toà giải tội như là một nơi mà sự
thật giải thoát chúng ta vì một cuộc gặp gỡ. “Khi người linh mục cử hành bí
tích hoà giải, thì ngài chu toàn sứ vụ của Vị Mục Tử Nhân Lành người đi
tìm kiếm con chiên lạc, sứ vụ của Người Samaritanô Nhân Hậu là người băng
bó các vết thương, của Người Cha đang chờ đợi người con hoang đàng và đón
tiếp anh trở về, và của người Thẩm Phán công chính và không thiên tư mà phán
quyết của ông là vừa công chính vừa giàu lòng thương xót. Người linh mục
là khí cụ của tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân” (Số
1465). Giáo Lý còn nhắc nhớ chúng ta rằng “cha giải tội không phải là người chủ
của sự tha thứ của Thiên Chúa mà là tôi tớ. Thừa tác viên của bí tích này phải
hiệp nhất chính bản thân mình với ý muốn và lòng mến của Đức Kitô” (Số 1466).
Các dấu chỉ và khí cụ của một cuộc gặp gỡ. Đó là điều chúng ta là. Một lời mời gọi hấp dẫn đến
một cuộc gặp gỡ. Như là những dấu chỉ, chúng ta phải đón tiếp, gửi đi một thông
điệp cuốn hút sự chú ý của người dân. Các dấu chỉ cần phải nhất quán và rõ
ràng, nhưng trên hết là phải dễ hiểu. Một số dấu chỉ không chỉ rõ ràng đối
với các chuyên gia mà thôi. Các dấu chỉ và khí cụ. Các khí cụ phải hiệu quả,
luôn sẵn sàng, rõ ràng và phù hợp với công việc. Chúng ta là những khí cụ khi
người dân có một cuộc gặp gỡ đúng đắn với lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nhiệm vụ của chúng ta là “làm cho cuộc gặp gỡ ấy trở nên có thể”, diện đối diện.
Điều mà người dân làm sau đó là việc của họ. Có một người con hoang đàng ở
giữa bày heo và một người cha đi ra mỗi chiều để xem anh ta có trở về không. Có
một con chiên lạc và một người chăn chiên đi ra tìm kiếm nó. Có một người bị thương
bị bỏ lại ở bên vệ đường và một người Samaritanô nhân hậu. Chúng ta hãy
luôn nhớ rằng chúng ta không phải là người cha, người chăn chiên hay người
Samaritanô. Hơn thế, chừng nào chúng ta còn là các tội nhân, thì chúng ta còn ở bên
phía ba người kia. Sứ vụ của chúng ta phải là một dấu chỉ và một khí cụ của
cuộc gặp gỡ ấy. Chúng ta là một phần của mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần, Đấng
tạo nên Giáo Hội, xây dựng sự hiệp nhất, và liên lỉ mời gọi gặp gỡ.
Một dấu chứng khác của dấu chỉ và khí cụ là nó
không qui chiếu về bản thân. Nói cách đơn giản hơn, đó không phải là
một cùng đích ở trong chính nó. Không ai dính bén với dấu chỉ một khi họ
hiểu thực tại. Không ai lại nhìn vào cái tô-vít hay cái búa, mà vào bức tranh
được treo ngay ngắn. Chúng ta là những đầy tớ vô dụng. Những khí cụ và dấu chỉ
giúp cả hai người hoà nhịp vào một cái ôm, giống như người cha và con trai
của mình.
Dấu chứng thứ ba của dấu chỉ và khí cụ là tính
sẵn sàng của nó. Một khí cụ cần phải sẵn sàng để được sử dụng;
một dấu chỉ phải rõ ràng. Là một dấu chỉ và khí cụ là trở thành một trung
gian. Có lẽ đây là chìa khoá cho sứ mạng của chúng ta trong cuộc
gặp gỡ thương xót này của Thiên Chúa và con người. Thậm chí chúng ta
có thể diễn tả về chúng bằng những từ ngữ tiêu cực. Thánh I-nha-xi-ô đã
nói về việc “không đi vào đường”. Một nhà trung gian tốt thì làm cho mọi thứ
trở nên dễ dàng, hơn là đặt ra những rào cản. Ở đất nước của tôi, có
một nhà giải tội đại tài, Cha Cullen. Ngài có thể ngồi trong toà và làm một
trong hai việc: ngài sửa trái banh đã cũ rách cho các trẻ em, hoặc ngài dùng
ngón cái để lật cuốn từ điển tiếng Hoa lớn, người ta sẽ nghĩ: “Tôi sẽ đi
lên đó và trò chuyện với vị linh linh mục, bởi vì rõ ràng là Ngài chẳng có việc
gì để làm!” Ngài sẵn sàng cho điều gì là thiết yếu. Ngài bỏ đi trở
ngại của việc luôn luôn tỏ ra bận rộn và nghiêm trọng.
Mọi người đã biết các vị giải tội tốt lành. Chúng
ta đã học từ những cha giải tội tốt lành, những vì mà người ta tìm kiếm, những
vị không làm cho họ sợ hãi nhưng giúp họ nói thẳng thắn, như Chúa Giêsu đã
thực khiện với Ni-cô-đê-mô. Nếu người ta đi xưng tội thì bởi vì họ ăn năn; sự ăn
năn thì đã sẵn sàng. Họ đến xưng tội là vì họ muốn thay đổi.
Hoặc ít ra họ muốn thay đôi, nếu họ nghĩ hoàn cảnh của họ là không thể. Như một
câu châm ngôn xưa đã nói Ad impossibilia nemo tenetur: không
ai là bị buộc phải làm điều không thể.
Chúng ta phải học từ những cha giải tội tốt lành,
những người dịu dàng với các tội nhân, những người sau một vài lời hiểu mọi sự,
như Chúa Giêsu đã thực hiện với người phụ nữ bị bệnh loạn huyết,
và ngay lập tức sức mạnh của sự tha thứ xuất phải từ các ngài. Tính
toàn vẹn của việc xưng tội không phải là một vấn đề toán học. Đôi khi
người ta cảm thấy bớt xấu hổ khi xưng thú một tội hơn là việc nói lên số
lần mà họ đã thực hiện tội ấy. Chúng ta phải để cho chính bản thân chúng
ta được đánh động bởi hoàn cảnh của người dân, điều mà tôi khi là một hỗn hợp
của việc làm của riêng họ, sự yếu đuối con người, tội lỗi và những điều kiện
không thể vượt qua nổi. Chúng ta phải nên giống nhưChúa Giêsu, Đấng đã
xúc động sâu sắc bởi cái nhìn của con người và các vấn đề của họ, và liên
tục chữa lành họ, ngay cả khi “họ không xin cách xứng đáng”, giống như người
cùi, hoặc dường như đang nói loanh quanh giống như người phụ nữ người
Samari. Cô giống như một loại chim mà chúng tôi có ở Nam Mỹ: nó kêu quác quác ở
một nơi mà tổ của nó lại ở một nơi khác.
Chúng ta phải học từ những cha giải tội là những
vị có thể giúp cho hối nhân cảm thấy những thay đổi nhỏ khi
thực hiện những bước nhỏ, giống như Chúa Giêsu, Đấng là mang lại một
việc đền tội thích hợp và có thể trân trọng mộtngười phong cùi đã trở lại cám ơn
Ngài, người mà Ngài đã ban nhiều ơn hơn nữa. Chúa Giêsu đã giúp cho người
bại liệt rời khỏi chiếc chõng của mình, và Ngài làm cho người mù và người phụ
nữ Syryo-Phoenician phải kêu xin. Việc người ta không chú ý đến Ngài không quan
trọng với Ngài, giống như người phong cùi bên bờ hồ Bethzatha, hay nói với người
khác điều mà Ngài ra lệnh cho họ không được nói, với kết quả là chính bản
thân Ngài trở thành người phong cùi, bởi vì Ngài không thể đi vào
làng hoặc các kẻ thù của Ngài đã tìm kiếm lý do để kết án Ngài. Ngài chữa lành
người dân, tha thứ cho tội lỗi của họ, xoa dịu nỗi đau khổ của họ, và cho họ
nghỉ ngơi và làm cho họ cảm thấy hơi thở ủi an của Thần Khí.
Ở Buenos Aires, tôi biết một Cha Dòng Capuchin.
Ngài nhỏ hơn tôi một chút và là một cha giải tội tuyệt vời. Luôn luôn có
một hàng dài trước toà giải tội của Ngài, nhiều người xưng tội cả ngày. Ngài
thực sự rất giỏi tha thứ. Ngài tha thứ, nhưng thi thoảng Ngài cũng có những bối
rối về việc tha thứ quá nhiều. Có lần trong một cuộc trò chuyện Ngài nói với
tôi: “Đôi khi con có bối rối”. Vì thế tôi hỏi Ngài: “Thế cha làm gì khi Cha gặp
những bối rối này?” Ngài trả lời: “Con đến trước Nhà Tạm, con nhìn lên Chúa và
nói với Ngài, ‘Lạy Chúa, xin tha cho con, hôm nay con tha rất nhiều. Nhưng
chúng ta cần phải làm rõ, tất cả là do lỗi của Ngài, bởi vì Ngài đã làm gương
xấu cho con!”. Ngài thêm lòng thương xót vào lòng thương xót.
Sau cùng, liên quan đến việc xưng tội, tôi
có hai lời khuyên nhỏ. Trước hết, đừng bao giờ giống như một người quan liêu
hay một thẩm phán, một người chỉ biết nhìn “các vụ việc” đang giải quyết.
Lòng thương xót giải thoát chúng ta khỏi là kiểu linh mục này, người thường
xét xử “các vụ án” mà không còn nhạy bén với con người, với các diện mạo nữa.
Luật của Chúa Giêsu là “hãy phán xét như chúng ta sẽ bị phán xét”. Đây là chìa
khoá cho sự xét đoán của chúng ta: là chúng ta cư xử với người khác bằng
phẩm giá, rằng chúng ta không hạ thấp hay đối xử tệ với họ, rằng chúng ta giúp
vực họ dậy, và rằng chúng ta không bao giờ quên rằng Thiên Chúa đang sử
dụng chúng ta, yếu đuối như chúng ta, trở thành những khí cụ của Ngài.
Lời khuyên khác của tôi là đừng tò mò trong toà
giải tội. Thánh Therese nói cho chúng ta biết rằng khi các tập sinh của Ngài
tâm sự với Ngài, thì Ngài rất cẩn thận để không hỏi bằng cách nào mà mọi thứ
diễn ra. Ngài không thâm nhập vào tâm hồn người ta (x. Truyện Một Linh
Hồn, Bản C, gửi Mẹ Gonzaga, x. XII, 32r.). Đó là một đặc tính của
lòng thương xót là bao phủ tội lỗi bằng áo choàng của nó, để không làm tổn
thương phẩm giá người khác. Giống như hai con trai ông Noah, là những người lấy
áo khoác mà che cho sự trần truồng của ông trong cơn say (x. St 9:23).
Chiều kích xã hội của các công
việc của lòng thương xót
Vào cuối các Bài Linh Thao, Thánh I-nha-xi-ô nói
“chiêm niệm để đạt tới tình yêu”, vốn kết nối điều được kinh nghiệm trong
việc cầu nguyện hằng ngày. Ngài giúp chúng ta suy tư về tình yêu phải được đưa
vào trong hành động hơn là lời nói thế nào. Những công việc này là những công
việc của lòng thương xót mà Chúa Cha “đã chuẩn bị từ trước làm cách
sống của chúng ta" (Ep 2:10), những công việc mà Thần Khí khơi dậy ở nơi
mỗi người vì thiện ích chung (x. 1 Cr 12:7). Trong khi tạ ơn Thiên
Chúa về tất cả mọi ơn ban mà chúng ta đã lãnh nhận từ sự phong phú của Ngài,
chúng ta hãy xin ân sủng để mang lại cho toàn thể nhân loại lòng thương xót vốn
đã là ơn cứu độ của chúng ta.
Tôi đề nghị chúng ta hãy suy tư về những đoạn sau
cùng của các Sách Tin Mừng. Ở đó, chính Chúa tạo nên sự kết nối giữa điều
chúng ta đã lãnh nhận và điều chúng ta được mời gọi để cho đi. Chúng ta có
thể đọc những kết luận này bằng chìa khoá của “các công việc của lòng thương
xót” vốn mang lại thời gian của Giáo Hội, thời gian mà Chúa Giêsu đang
sống, hướng dẫn, sai đi và kêu gọi sự tự do của chúng ta, một sự tự do tìm thấy
ở nơi Ngài sự cụ thể hoá hằng ngày.
Thánh Mát-thêu cho chúng ta biết rằng Chúa sai
các Tông Đồ của Ngài ra đi trở thành môn đệ của muôn dân nước, "dạy
họ giữ hết mọi điều Thầy đã truyền dạy" (28:20). “Việc dạy kẻ ngu muội”
này tự thân nó là một trong những công việc của lòng thương xót. Nó sẽ lan toả
giống như ánh sáng đối với các công việc khác: đối với những công việc được
liệt kê trong Mát-thêu 25, có nhiều liên hệ đến điều gọi là “các công việc
thể lý của lòng thương xót”, và đối với hết mọi giới răn và những lời khuyên
phúc âm, như là “tha thứ, “sữa dạy cho nhau”, an ủi kẻ âu lo, và chịu đựng
sự bách hại....
Tin Mừng Mác-cô kết thúc bằng hình ảnh Chúa “cộng
tác” với các Tông Đồ và "xác nhận lời nói bằng những dấu lạ kèm
theo". Những “dấu lạ” này rất giống với công việc của lòng thương xót.
Thánh Mác-cô nói, trong số những điều khác, về việc chữa lành người bệnh tật và
xua đuổi ma quỷ (x. 16:17-18).
Thánh Luca tiếp tục Tin Mừng của Ngài bằng “Sách
Công Vụ” – praxeis – của các Tông Đồ, có liên hệ đến
lịch sử vềcách mà các Ngài hành động và các công việc mà các ngài đã thực hiện,
được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Tin Mừng Gioan kết thúc bằng việc nói đến “nhiều
điều khác” (21:25) hoặc “những dấu chỉ” (20:30) mà Chúa Giêsuđã thực hiện. Những
hành động của Chúa, các công việc của Ngài, không chỉ thuần tuý là những hành động
mà là những dấu chỉ mà qua đó, theo một cách hoàn toàn cá nhân, Ngài bày
tỏ tình yêu và lòng thương xót của Ngài cho mỗi người.
Chúng ta có thể chiêm niệm Chúa là Đấng sai chúng
ta đi trong sứ mạng này, bằng việc sử dụng hình ảnh của Chúa Giêsu giàu lòng thương
xót như đã mạc khải cho Nữ Tu Faustina. Trong hình ảnh đó chúng ta có thể thấy
lòng thương xót như là một tia sáng xuất phát từ thẳm sâu của Thiên Chúa, đi
qua trái tim của Đức Kitô, và xuất hiện bằng nhiều mầu sắc, mỗi mầu tượng trưng
cho một công việc của lòng thương xót.
Các công việc của lòng thương xót là vô tận,
mỗi công việc mang lấy dấu vết của một diện mạo đặc thù, một lịch sử cá nhân.
Chúng còn nhiều hơn cả danh mục bảy công việc thể lý và bảy công việc thiêng
liêng của lòng thương xót. Những danh mục này thì giống như nguyên vật liệu thô
– nguyên liệu của chính sự sống – mà sau khi được nhào nặn và hình thành
bởi bàn tay của lòng thương xót, sẽ biến thành một công trình sáng tạo nghệ
thuật cá nhân. Mỗi công việc lại nhân rộng ra giống như bánh trong các thúng; mỗi
công việc mang lại sự phát triển phong phú giống như hạt cải. Vì lòng thương
xót thì sinh hoa trái và bao gồm.
Chúng ta thường nghĩ về những công việc của
lòng thương xót một cách cá nhân và trong mối liên hệ với một sáng kiến cụ
thể: các bệnh viện cho bệnh nhân, cháo cho người đói, nơi ở cho những người
vô gia cư, trường học cho những người cần được giáo dục, sự hướng dẫn thiêng
liêng và giải tội cho những người cần được tư vấn và tha thứ... Nhưng nếu chúng
ta nhìn vào các công việc của lòng thương xót như một tổng thể, thì chúng
ta sẽ thấy rằng đối tượng của lòng thương xót là chính sự sống con người
và mọi sự mà sự sống ấy ôm lấy. Sự sống chính nó, như là “xác thịt”, đói
và khát; nó cần được cho mặc, được cho chỗ ở và thăm viếng, đấy là chưa
nói gì đến việc có được sự chôn cất đúng đắn, một điều mà không ai
trong chúng ta có thể tự làm cho chính mình. Ngay cả người giàu có nhất,
trong khi chết, cũng trở thành một kẻ khốn cùng; không có những chiếc xe di
chuyển trong khi đưa tang. Sự sống tự thân nó, là “thần trí”, cần phải được
giáo dục, sửa dạy, khích lệ và an ủi. Chúng ta cần người khác an ủi chúng ta,
tha thứ cho chúng ta, đồng hành với chúng ta và cầu nguyện cho chúng ta.
Gia đình là nơi mà những công việc của lòng thương xót này được thực thi
một cách quá bình thường và một cách vô ý đến mức chúng ta thậm chí còn không
nhận ra. Nhưng khi có một gia đình với nhưng đứa con nhỏ mất đi mẹ nó, thì mọi
thứ bắt đầu suy sụp. Hình thức nghèo nàn độc ác và tàn khốc nhất là hình ảnh
các trẻ em đường phố, không có cha mẹ và trở thành mồi ngon cho kẻ tham
tiền.
Chúng ta đã xin ân sủng để trở thành những dấu
chỉ và những khí cụ. Giờ đây chúng ta phải “hành động” không chỉ bằng
những cử chỉ, mà bằng những dự án và những tổ chức, bằng việc tạo nên một nền
văn hoá của lòng thương xót. Một khi chúng ta bắt đầu, chúng ta sẽ cảm thấy
ngay rằng Chúa Thánh Thần ban sức mạnh và nuôi dưỡng những công việc này. Ngài
thực hiện việc này bằng việc sử dụng những dấu chỉ và những khí cụ mà Ngài
muốn, ngay cả đôi khi chúng dường như không phải là những thứ phù hợp
nhất. Thậm chí có thể nói rằng, để thực thi các công việc của lòng thương xót, Chúa
Thánh Thần có xu hướng chọn những khí cụ nghèo nàn nhất, khiêm tốn nhất và
không quan trọng nhất, những người mà chính bản thân họ thấy cần tia đầu tiên
của lòng thương xót Chúa nhất. Họ là những người có thể được nhào nặn
tốt nhất và sẵn sàng để phục vụ cách hiệu quả và tốt nhất. Niềm vui của việc
nhận ra rằng chúng ta “là những đầy tớ vô dụng” là những người mà Thiên Chúa
chúc phúc bằng sự phong nhiêu của ân sủng Ngài, đang ngồi ở bàn của Ngài và
đang phục vụ Thánh Thể cho chúng ta, là một sự xác định rằng chúng ta được
tham dự vào trong công việc của lòng thương xót.
Người tín hữu của chúng ta rất vui được quây
quần quanh những công việc của lòng thương xót. Trong các cuộc cử hành sám hối
và lễ hội, và trong các hoạt động giáo dục và bác ái, người dân của chúng ta sẵn
sàng đến với nhau và hãy để cho họ được hướng dẫn theo những cách thế không
luôn được nhìn nhận và trân trọng, trong khi đó quá nhiều các kế hoạch mục vụ
học thuật và trừu tượng của chúng ta lại thất bại. Sự hiện diện đông đảo của
các tín hữu của chúng ta trong các đền thờ và trong các cuộc hành hương của
chúng ta là sự hiện diện vô danh, nhưng vô danh chỉ đơn giản vì nó được
tạo nên bởi quá nhiều gương mặt và lòng khao khát quá lớn lao
đơn giản chỉ để được Chúa Giêsu mà Mẹ Maria nhìn đến. Chúng ta
có thể nói điều tương tự về nhiều cách khác nhau mà trong đó người dân của
chúng ta tham dự vào biết bao nhiêu là sáng kiến của tình liên đới; điều
này cũng cần phải được nhìn nhận, trân trọng và cổ võ từ phía chúng ta.
Là các linh mục, chúng ta hãy xin hai ân sủng của
Vị Mục Tử Nhân Lành, ân sủng để cho bản thân chúng ta được hướng dẫn bởi cảm
thức đức tin sensus fidei của người tín hữu của chúng ta, và được hướng
dẫn bởi “cảm thức vềngười nghèo” của họ. Cả hai “cảm thức” này phải có liên hệ đến cảm
thức Kitô, với tình yêu của người tín hữu của chúng ta, và niềm tin
vào Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy kết thúc bằng việc đọc Lạy Hồn Chúa
Kitô Anima Christi, lời kinh tuyệt vời ấy vốn khẩn xin lòng thương
xót từ Chúa là Đấng đã đến ở giữa chúng ta trong thân xác và đã
nuôi dưỡng chúng ta cách đầy tràn ân sủng bằng chính mình và máu của Ngài.
Chúng ta hãy xin Ngài tỏ lòng thương xót cho chúng ta và cho dân của Ngài.
Chúng ta hãy xin linh hồn của Ngài “thánh hoá chúng ta”, thân xác của Ngài “cứu
lấy chúng ta”, máu của Ngài “làm chúng ta say sưa” và giải thoát chúng ta khỏi
tất cả mọi cơn khát khác không phải thuộc về Ngài. Chúng ta xin nước từ cạnh
sườn Ngài “tẩy sạch chúng ta”, cuộc khổ nạn của Ngài “ban sức mạnh cho chúng
ta”. Hãy an ủi dân của Chúa, Lạy Chúa chịu đóng đinh! Xin cho các vết thương của
Chúa “che chở chúng con”...Xin ban cho dân Chúa, lạy Chúa, để họ không bao giờ
lìa xa Chúa. Xin đừng để điều gì hay một ai tách chúng con ra khỏi
lòng thương xót của Chúa, lòngthương xót hằng bảo vệ chúng con khỏi
nanh vuốt của kẻ thù hèn mạt. Vì vậy, chúng con sẽ ca khen lòng thương xótcủa
Chúa, lạy Chúa, cùng với tất cả các thánh khi Chúa mời gọi chúng con đến với
Chúa.
Joseph C. Pham (Chuyển ngữ từ Vatican Radio)