Tài liệu chuẩn bị Đại hội chung ngoại thường lần thứ ba
của Thượng Hội đồng Giám mục (5 – 9/10/2014)
WHĐ (30.10.2013) – Hồi
đầu tháng này, Đức Thánh Cha Phanxicô công bố sẽ triệu tập Đại hội chung ngoại thường lần thứ ba của
Thượng Hội đồng Giám mục
tại Roma từ
ngày 05 đến ngày 19
tháng Mười 2014, về chủ đề “Các thách đố mục
vụ về gia
đình trong bối cảnh của công cuộc loan báo
Tin Mừng”.
Để chuẩn bị cho Đại hội
này, Đức Tổng giám mục Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, đã gửi đến các Hội
đồng Giám mục trên thế giới một Tài
liệu chuẩn bị (Lineamenta – Đề
cương), trình bày những suy tư căn bản, kèm theo Bản Câu hỏi, mời gọi các Giáo
Hội địa phương đóng góp ý kiến. Theo yêu cầu của Đức Tổng giám mục Baldisseri,
các Giáo Hội địa phương phải gửi bản góp ý của mình về cho Roma chậm nhất là
cuối tháng 1/2014.
Sau đây xin giới thiệu Tài liệu chuẩn bị nói trên, do Văn phòng Thư ký Hội đồng
Giám mục chuyển ngữ.
***
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM
MỤC
ĐẠI HỘI NGOẠI THƯỜNG
LẦN THỨ BA
CÁC THÁCH ĐỐ MỤC VỤ VỀ
GIA ĐÌNH
TRONG BỐI CẢNH CỦA CÔNG
CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG
TÀI LIỆU CHUẨN BỊ
2013
I) Thượng Hội đồng: Gia
đình và việc loan báo Tin Mừng
Sứ vụ loan báo Tin Mừng
cho mọi loài thọ tạo đã được Chúa trực tiếp trao phó cho các môn đệ của Người
và Hội Thánh là sứ giả loan tin trong dòng lịch sử. Thời đại hôm nay trong đó
chúng ta đang sống, khủng hoảng xã hội và tâm linh hiển nhiên đã trở thành một
thách đố mục vụ chất vấn sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh cho gia đình,
vốn là tế bào sống động của xã hội và Giáo Hội. Việc loan báo Tin Mừng cho gia
đình trong bối cảnh này là một việc khẩn cấp và cần thiết hơn bao giờ hết. Tính
cách quan trọng của chủ đề này được bầy tỏ qua sự kiện Đức Thánh Cha đã quyết
định thiết lập cho Thượng Hội đồng các Giám mục một lộ trình làm việc qua hai
giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, Đại hội ngoại thường năm 2014, nhằm mục đích xác
định “Status quaestionis” (các vấn đề đặt ra) và thu thập các chứng từ
và đề nghị của các Đức Giám mục để loan báo và sống Tin Mừng về gia đình một
cách thuyết phục; giai đoạn hai, Đại hội thường lệ năm 2015, nhằm tìm kiếm
những hướng hành động cho mục vụ hướng đến nhân vị và gia đình.
Ngày nay, có những hoàn
cảnh chưa từng có cho đến những năm cuối này, từ tình trạng ngày càng phổ biến
các cặp sống chung tự do không ràng buộc bởi kết hôn, và thậm chí có khi loại
trừ cả ý tưởng hôn nhân, cho đến tình trạng sống chung giữa những người đồng
tính, thường được phép nhận con nuôi. Trong vô số những hoàn cảnh mới đòi hỏi
Hội Thánh cần quan tâm và dấn thân mục vụ, có thể kể ra những hoàn cảnh đáng
lưu ý nhất sau đây: hôn nhân hỗn hợp hay khác tôn giáo; gia đình chỉ với một mẹ
hoặc một cha; đa thê; các cuộc hôn nhân được sắp đặt với vấn đề của hồi môn,
đôi khi được đồng hóa với một gia sản mà người làm vợ đắc thủ; hệ thống các
giai cấp xã hội; nền văn hóa phi dấn thân và các mối liên kết được giả định
không bền vững; những hình thức chủ nghĩa nữ quyền thù địch với Giáo Hội; những
hiện tượng di dân và định nghĩa lại ý niệm gia đình; chủ nghĩa đa nguyên tương
đối trong quan niệm về hôn nhân; ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông
trên nền văn hóa đại chúng lên quan niệm về hôn nhân và đời sống gia đình;
những trào lưu tư tưởng khơi dậy những kiến nghị về lập pháp hạ thấp giá trị về
tính trường tồn và chung thủy của hôn nhân; hiện tượng ngày càng nhiều những bà
mẹ mang thai hộ; những kiểu giải thích mới về nhân quyền. Thế nhưng trước hết ở
ngay trong phạm vi Giáo Hội theo nghĩa hẹp, đức tin bị suy giảm hay từ bỏ, nhất
là niềm tin vào tính bí tích của hôn nhân và tin vào quyền năng chữa lành của
bí tích sám hối.
Từ đó, người ta hiểu
hàng Giám mục trên thế giới cùng với Đấng kế vị thánh Phêrô (“cum et sub
Petro”) khẩn thiết phải quan tâm đến vấn đề khi đối diện với những thách đố
này. Thí dụ như người ta chỉ cần nghĩ tới sự kiện này là trong bối cảnh hiện
nay có bao nhiêu là trẻ con và các thanh thiếu niên, sinh ra từ những cuộc hôn
nhân trái qui tắc, không bao giờ có thể thấy cha mẹ chúng lãnh nhận các bí
tích, chúng ta hiểu tính chất cấp thiết như thế nào của các vấn đề được đặt ra
bởi các thách đố cho công cuộc loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh hiện nay, một
hoàn cảnh khá phổ biến khắp nơi trong “ngôi làng toàn cầu”. Thực tế này có một
vang âm đặc biệt trong bầu khí ngày nay đông đảo những con người ở khắp nơi đón
nhận những giáo huấn về Lòng Chúa Thương Xót và về Lòng Lân Ái đối với những
người bị thương tổn, bị gạt ra bên lề xã hội và cuộc sống. Như vậy, nhiều người
rất trông đợi Giáo Hội có những lựa chọn về mục vụ gia đình. Như thế, xem ra là
rất cần thiết và khẩn cấp có một suy nghĩ ở cấp Thượng Hội đồng Giám mục Thế
giới về chủ đề này, đó như là một biểu lộ của đức ái mục tử đối với đàn chiên
được giao phó cho các ngài và đối với toàn thể gia đình nhân loại.
II) Giáo Hội và Tin
Mừng về gia đình
Tin Mừng về tình yêu Thiên
Chúa phải được loan báo cho những ai sống kinh nghiệm nhân bản nền tảng cá vị
này, kinh nghiệm sống đời vợ chồng và hiệp thông mở ra với tặng phẩm sự sống là
con cái, tức là cộng đoàn gia đình. Giáo lý đức tin về
hôn nhân phải được trình bày một cách có hiệu quả và thông truyền sống động, để
có thể chạm tới cõi lòng người ta và làm họ biến đổi theo thánh ý của Thiên
Chúa được tỏ lộ trong Đức Giêsu Kitô.
Ở đây chỉ nhắc lại
những tham chiếu Kinh Thánh cốt yếu. Về các tài liệu về Huấn Quyền cũng thế, ở
đây chỉ xin giới hạn vào các tài liệu của Huấn Quyền phổ quát của Giáo Hội, và
thêm vào đó một đôi tài liệu của Hội Đồng Tòa Thánh về gia đình và phần còn lại
để cho các Giám mục tham dự Thượng Hội đồng đóng góp những tài liệu từ các cơ
quan cấp Hội Đồng Giám Mục.
Trong mọi thời và trong
các nền văn hóa rất khác biệt nhau chưa bao giờ có một mẫu chuẩn về một giáo
huấn rõ ràng của các đấng mục tử cũng như về chứng từ cụ thể của các tín hữu,
nam cũng như nữ, sống Tin Mừng về gia đình trong những hoàn cảnh rất dị biệt
như là một quà tặng vô cùng quý giá cho cuộc sống của họ và của con cái họ. Sự
dấn thân cho Thượng Hội đồng ngoại thường sắp tới này được thúc đẩy và nâng đỡ
bởi ước muốn thông truyền cho mọi người công việc này, một cách mạnh mẽ hơn
nữa, để rồi hy vọng rằng “kho tàng Mạc Khải, được trao cho Giáo Hội, ngày càng
lấp đầy trái tim con người” (Dei Verbum, 26).
Kế hoạch của Thiên
Chúa, Đấng Tạo Hóa và là Đấng Cứu Chuộc
Nét đẹp của sứ điệp
Kinh Thánh về gia đình bắt nguồn từ công trình sáng tạo người nam và người nữ,
vốn được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,24-31; 2, 4b-25). Được kết hợp bởi
một dây liên kết bất khả phân ly, đôi vợ chồng sống vẻ đẹp của tình yêu, của
tình phụ tử, tình mẫu tử và phẩm giá cao vời được tham dự vào công trình sáng
tạo của Thiên Chúa.
Đón nhận hồng ân hoa
quả của sự kết hợp vợ chồng, đôi bạn đảm nhận lấy trách nhiệm nuôi nấng và giáo
dục các ngôi vị khác, tức là con cái họ, vì tương lai của nhân loại. Qua việc
sinh sản, người nam và người nữ, thực thi trong đức tin ơn gọi làm người cộng
tác với Thiên Chúa để duy trì tạo thành và làm tăng trưởng gia đình nhân loại.
Đức Chân phước Gioan
Phaolô II đã giải thích khía cạnh này trong Tông Huấn về Gia Đình Familiaris
consortio: “Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như họa ảnh
của Ngài (x. St 1, 26t). Khi vì yêu thương mà kêu gọi
con người bước vào cuộc sống, Ngài cũng đồng thời mời gọi họ sống cho tình yêu.
Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,
8), Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo
dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo toàn
cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như cả
khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông
(x. Gaudium et spes 12). Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm
sinh của mọi người” (Familiaris Consortio, 11). Kế hoạch đó của Thiên
Chúa Tạo Thành, vốn bị tội nguyên tổ làm đảo lộn (x. St 3,1-24), đã được tỏ ra trong lịch sử
qua các biến cố thăng trầm của Dân được tuyển chọn cho đến thời viên mãn, khi
mà Con Thiên Chúa nhập thể làm người không chỉ xác nhận thánh ý của Thiên Chúa
muốn cứu độ, mà nhờ sự cứu chuộc Người còn ban ân sủng để ta có thể vâng phục
thánh ý Ngài.
Con Thiên Chúa, Ngôi
Lời làm người (x. Ga 1,14) trong cung lòng của Mẹ Đồng
Trinh đã sống và lớn lên trong gia đình Nazaret và tham dự tiệc cưới Cana và
làm cho nghi lễ ấy được phong phú với “dấu lạ” đầu tiên (x. Ga 2, 1-11). Người hoan hỷ đón nhận sự
đón tiếp thân tình từ các môn đệ đầu tiên (x. Mc 1, 29-31; 2, 13-17) và Người an ủi gia
đình của các bạn hữu trong cuộc lễ mai táng tại Bêtania (x. Lc 10, 38-42; Ga 11,1-44).
Đức Giêsu Kitô đã tái
lập vẻ đẹp của hôn nhân khi đề xướng lại một lần nữa ý định của Thiên Chúa về
sự kết hợp hôn nhân mà con người đã loại bỏ vì lòng chai dạ đá, thậm chí có ở
ngay giữa truyền thống dân Israel (x. Mt 5, 31-32; 19, 3-12; Mc 10, 1-12; Lc 16, 18). Trở về với thuở ban đầu, Đức
Giêsu đã dạy trong hôn nhân đôi bạn phải hợp nhất và chung thủy với nhau, Người
từ chối sự rẫy bỏ và ngoại tình. Vẻ đẹp của tình yêu con người đã được ca tụng
dưới sự linh hứng ở trong sách Diễm
Tình Ca, và dây liên kết hôn phối được yêu cầu và bảo vệ bởi các vị Tiên
Tri, như Hôsê (x. Hs 1, 2-3, 3) và Malaki (x. Ml 2, 13-16). Chính qua vẻ đẹp kỳ
diệu của tình yêu con người đó mà Đức Giêsu khẳng định phẩm giá nguyên thủy của
tình yêu hôn nhân giữa người nam và người nữ.
Giáo huấn của Giáo Hội
về gia đình
Trong cộng đoàn Kitô
giáo sơ khai, gia đình cũng xuất hiện như là “Hội Thánh tại gia” (x. GLHTCG
1655). Trong những cái gọi là “Bộ luật gia đình” của các Thư các Tông đồ của
Tân Ước, gia đình lớn của thế giới cổ đại được nhìn nhận như là nơi chốn của
tình liên đới sâu xa nhất giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa người
giầu và người nghèo (x. Ep 5, 21-6, 9; Cl 3, 18-4, 1; 1Tm 2, 8-15; Tt 2, 1-10; 1Pr 2, 13-3, 7; x. Thư gửi Philêmon). Đặc biệt thư gửi tín hữu Ephêsô
nhìn nhận tình yêu hôn phối nơi người nam và người nữ là “mầu nhiệm cao cả”, vì
làm cho tình yêu của Đức Kitô và Hội Thánh hiện diện trong thế giới (x. Ep 5, 31-32).
Qua dòng thời gian,
nhất là thời hiện đại và cho đến ngày nay, Hội Thánh đã không ngừng và ngày
càng tiến bộ ban những giáo huấn về gia đình và hôn nhân (vốn là nền tảng của
gia đình). Một trong những diễn tả quan trọng nhất đã được Công Đồng Chung
Vatican II đề nghị, trong Hiến Chế Mục vụ Gaudium
et spes, trong khi đề cập một số vấn đề cấp bách nhất đã dành cả một chương
để đề cao phẩm giá của hôn nhân và gia đình. Giá trị của hôn nhân và gia đình
được mô tả là để xây dựng xã hội: “Như thế, gia đình chính là nền
tảng của xã hội, vì đó là nơi mà nhiều thế
hệ gặp gỡ và giúp nhau mở rộng kiến thức khôn ngoan, cũng như giúp nhau hòa
hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội” (GS 52). Đôi vợ chồng tín hữu được mời gọi một
cách hết sức mãnh liệt sống linh đạo lấy Đức Kitô làm trung tâm: “ Chính các
đôi vợ chồng, được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa hằng sống và được an
định trong trật tự hài hòa của các nhân vị, hãy luôn hợp nhất với nhau trong
tình yêu thương, đồng tâm hiệp ý, và cùng thánh hóa lẫn nhau, để khi bước theo
Đức Kitô là nguyên lý sự sống, giữa bao niềm vui cũng như hy sinh trong ơn gọi
và nhờ luôn sống trong một tình yêu chung thủy, họ trở nên chứng nhân của mầu
nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế giới qua sự chết và sự sống lại của
Người” (GS 52 ).
Các
Đấng kế vị thánh Phêrô, sau Công Đồng Vatican II, cũng đã làm phong phú thêm,
qua Huấn Quyền của các ngài, giáo lý về hôn nhân và gia đình. Đặc biệt Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI đã ban những giáo huấn liên quan cả về mặt nguyên tắc lẫn về
mặt thực hành qua Thông điệp Humanae
vitae. Kế đến, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô trong Tông huấn Familiaris consortio cũng muốn nhấn mạnh khi đưa ra kế
hoạch của Thiên Chúa về vấn đề sự thật về nguồn gốc của tình yêu giữa đôi vợ
chồng và tình yêu của gia đình: “ “Nơi” duy nhất làm cho sự trao hiến ấy có thể
thực hiện được với trọn cả sự thật của nó chính là hôn nhân, nghĩa là khế ước
tình yêu hôn phối, hay nói cách khác, là sự chọn lựa có ý thức và tự do nhờ đó
mà người nam và người nữ chấp nhận sống chung và chia sẻ tình yêu như chính
Thiên Chúa đã muốn (x. GS 48), và cũng chỉ dưới ánh sáng này, sự
chọn lựa kia mới bầy tỏ ý nghĩa đích thật của nó. Định chế hôn nhân không phải
là một sự can thiệp tùy tiện của xã hội hay công quyền, cũng không phải là sự
áp đặt của một mô thức từ bên ngoài; định chế ấy là một đòi hỏi từ bên trong
khế ước tình yêu hôn phối, được xác định công khai như khế ước duy nhất và
tuyệt đối để đôi bạn nhờ đó có thể sống trung thành trọn vẹn với ý định của
Thiên Chúa Tạo Hóa. Sự trung thành này không hề làm giảm tự do của nhân vị,
ngược lại còn giúp cho tự do ấy khỏi rơi vào những thái độ chủ quan và các thứ
chủ nghĩa tương đối, và làm cho nó được tham dự vào sự khôn ngoan của Thiên
Chúa Tạo Hóa” (FC 11).
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng đưa ra những dữ kiện nền tảng sau đây:
“Hôn ước mà nhờ đó người nam và người nữ tạo nên một cộng đồng sống chung thân
mật và yêu thương, đã được Đấng tạo Hóa thiết lập và sắp xếp theo những quy
luật riêng. Tự bản chất, hôn nhân hướng tới thiện ích của đôi phối ngẫu, cũng
như việc sinh sản và giáo dục con cái. Hôn nhân giữa những người đã chịu Phép
Rửa được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích [x. Cđ Vatican II, Gaudium et spes, 48; Bộ Giáo Luật,đ.1055,1]” (GLHTCG
1660).
Giáo
thuyết của sách Giáo Lý đã xem xét cả về những nguyên tắc thần
học lẫn những hành vi luân lý, được trình bày qua hai tiêu đề khác biệt: Bí tích hôn nhân (s. 1601-1658) và Điều răn thứ sáu (s. 2331-2391). Đọc kỹ những phần
này của sáchGiáo Lý sẽ cho
ta một hiểu biết hiện đại về giáo lý đức tin để chống đỡ cho hành động của Hội
Thánh trước những thách đố hiện nay. Mục vụ của Hội Thánh được gợi hứng từ chân
lý của hôn nhân được nhìn trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng người
nam và người nữ và, đã mạc khải trong thời viên mãn nơi Đức Giêsu Tình yêu viên
mãn giữa đôi vợ chồng đã được nâng lên hàng bí tích. Hôn nhân kitô giáo, dựa
trên cơ sở của sự ưng thuận, còn được phú ban cho những hiệu quả riêng, cả
những thiện ích lẫn nghĩa vụ của đôi vợ chồng, tuy nhiên hôn nhân cũng không
tránh khỏi ảnh hưởng của vòng tội lỗi (x. St3,1-24)
vốn có thể gây ra những vết thương sâu đậm và làm hạ cấp cả phẩm giá của chính
bí tích.
Gần
đây Thông điệp Lumen fidei của đức Giáo hoàng Phanxicô nói về gia
đình trong tương quan với đức tin, về điều đó ta nhận thấy rằng “mối liên kết
giữa người ta với nhau mạnh mẽ như thế nào khi có Thiên Chúa hiện diện giữa họ”
(LF 50). “Môi trường đầu
tiên trong đó đức tin chiếu sáng xã hội người ta là gia đình. Tôi tưởng nghĩ
trước tiên đến sự kết hợp bền vững giữa người nam và người nữ trong hôn nhân. Hôn
phối này sinh ra từ tình yêu của họ cho nhau, là dấu chỉ và là sự hiện diện của
tình yêu Thiên Chúa, từ sự nhìn nhận và chấp nhận sự khác biệt giới tính, là một
thiện hảo nhờ đó đôi phối ngẫu có thể kết hợp với nhau nên một xương một thịt
(x. St 2,24) và sinh hạ sự sống mới, biểu lộ
sự nhân lành của Đấng Tạo Hóa, sự khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Ngài. Dựa
trên nền tảng của tình yêu này, người nam và người nữ mới có thể hứa yêu thương
nhau bằng một hành động dấn thân suốt cuộc đời và phản chiếu đức tin trên nhiều
phương diện. Hứa yêu thương nhau mãi mãi là điều khả thể khi người ta biết được
có một kế hoạch vĩ đại hơn những dự phóng riêng của mình, nó nâng đỡ ta và
khiến ta có thể phó dâng cả tương lai mình cho người mình thương yêu” (LF 52). “Đức tin không phải là nơi ẩn náu
cho những con người không nhuệ khí, nhưng làm triển nở đời sống. Đức tin giúp
ta nhận biết tiếng gọi kỳ diệu, là ơn gọi tình yêu, và nó bảo đảm cho ta tình
yêu ấy là đáng cậy tin và đáng cho ta dấn thân đảm nhận lấy, bởi lẽ nó dựa trên
sự trung thành của Thiên Chúa, vốn mạnh mẽ hơn những nỗi yếu hèn của ta” (LF 53).
III)
Bản Câu hỏi
Những câu hỏi dưới đây giúp các Hội Thánh địa phương tham dự tích cực vào
sự chuẩn bị cho Thượng Hội đồng ngoại thường này hướng tới mục đích loan báo
Tin Mừng trong hoàn cảnh bao nhiêu là thách đố mục vụ ngày nay liên hệ tới gia
đình.
1. Về việc phổ biến Kinh Thánh và Huấn Quyền của Giáo hội về gia đình
a)
Mức độ hiểu biết thực sự của các tín hữu về giáo huấn của Kinh Thánh, của Công
Đồng Vatican II (Hiến chế Gaudium
et spes), của Tông huấn “Familiaris
consortio” và các tài liệu
khác của Huấn Quyền hậu Công Đồng về giá trị của gia đình theo Hội Thánh Công Giáo
như thế nào? Làm thế nào để các tín hữu của chúng ta được đào tạo về đời sống
gia đình theo giáo huấn của Hội Thánh?
b)
Những nơi biết giáo huấn của Hội Thánh, người ta có đón nhận trọn vẹn giáo huấn
ấy không? Có những khó khăn gặp thấy trong áp dụng thực hành hay không? Đó là
những khó khăn nào?
c)
Làm thế nào để giáo huấn của Hội Thánh được lan truyền qua các chương trình mục
vụ ở cấp toàn quốc, cấp giáo phận và giáo xứ? dạy Giáo lý về gia đình như thế
nào?
d)
Ở mức độ nào – và đặc biệt ở những khía cạnh nào – giáo huấn này thực sự được
biết, được đón nhận, hoặc bị từ chối hay phê phán trong những phạm vi bên ngoài
Giáo hội? Có những yếu tố văn hóa nào ngăn cản người ta đón nhận trọn vẹn giáo
huấn của Giáo hội về gia đình?
2. Về hôn nhân theo luật tự nhiên
a)
Khái niệm luật tự nhiên chiếm vị trí nào trong nền văn hóa dân sự, ở cấp cơ cấu
định chế, giáo dục và học vấn, cũng như ở bình diện phổ cập trong người dân? Có
những quan niệm về nhân học nào ở nền tảng của cuộc chiến đấu cho nền móng tự
nhiên của gia đình này?
b)
Những Kitô hữu nói chung hiện nay có đón nhận khái niệm luật tự nhiên về sự
kiện một người nam và một người nữ kết hợp với nhau, đúng như nó là thế, hay
không?
c)
Làm sao, cả trên lý thuyết lẫn trong thực hành, luật tự nhiên về sự kết hợp giữa
một người nam và một người nữ nhằm tạo nên một gia đình lại bị phản đối? Luật
tự nhiên đó được đề xướng và đào sâu như thế nào trong các cơ quan, tổ chức,
dân sự và Giáo hội?
d)
Nếu như những người đã-chịu-phép-Rửa mà không thực hành đạo hay những người tự
tuyên bố mình là người-không-tin xin cử hành lễ thành hôn, trước những thách đố
mục vụ này chúng ta làm thế nào?
3. Mục vụ gia đình trong bối cảnh của công cuộc Loan báo Tin Mừng
a)
Trong những thập niên vừa qua, có nảy sinh những kinh nghiệm nào liên quan tới
việc chuẩn bị hôn nhân? Đã có những nỗ lực nào kích thích bổn phận loan báo Tin
Mừng cho các cặp vợ chồng và gia đình hay không? Làm thế nào để phát huy ý thức
gia đình như là “Hội Thánh tại gia” ?
b)
Anh chị em đã có những đề nghị phương thức cầu nguyện nào trong gia đình khả dĩ
đề kháng trước hoàn cảnh đời sống và văn hóa phức tạp ngày nay không?
c)
Trong hoàn cảnh hiện nay với cuộc khủng hoảng giữa các thế hệ, làm thế nào để
các gia đình kitô hữu có thể thực hiện ơn gọi riêng của mình là thông truyền
đức tin?
d)
Các giáo hội địa phương và các phong trào linh đạo gia đình làm thế nào để tạo
ra được những lộ trình hay định hướng như để làm mẫu?
e)
Các cặp vợ chồng và gia đình có thể góp phần được gì theo cách riêng của mình
để lan truyền một tầm nhìn toàn diện về đôi vợ chồng và về gia đình kitô hữu
đáng tin cậy cho con người ngày nay?
f)
Giáo hội đã bày tỏ những quan tâm mục vụ nào hầu nâng đỡ các đôi bạn đang chuẩn
bị tiến đến hôn nhân và các đôi vợ chồng đang gặp khủng hoảng?
4. Về mục vụ trước những hoàn cảnh hôn nhân gặp khó khăn
a)
Các cặp sống chung không kết hôn, hay gọi là sống
thử, có phải là một thực tế
đáng quan ngại trong Giáo hội địa phương của anh chị em không? Xét về con số,
các cặp đó được ước lượng khoảng bao nhiêu phần trăm?
b)
Có những cặp sống chung tự do, nghĩa là không ràng buộc cũng không hề được nhìn
nhận cả về tôn giáo lẫn dân sự hay không? Có dữ kiện thống kê nào chắc chắn
không?
c)
Những người ly thân và ly dị tái hôn có phải là một thực tế mục vụ quan ngại
trong Giáo hội địa phương của anh chị em không? Ước lượng tỷ lệ là bao nhiêu?
Các chương trình mục vụ phải thích nghi thế nào trước thực tế này?
d)
Trong tất cả các trường hợp đó, những người đã-chịu-phép-Rửa sống như thế nào
tình cảnh trái qui tắc đó của họ? Họ có ý thức điều đó không? Hay đơn giản là,
họ tỏ ra dửng dưng về tình trạng ấy của họ? Họ có cảm thấy bị gạt ra bên lề và
đau khổ vì không được lãnh nhận các bí tích không?
e)
Những người ly dị và tái hôn có những yêu cầu gì đối với Giáo hội về vấn đề các
bí tích Thánh Thể và Hòa Giải? Trong số những người đó có bao nhiêu người xin
lãnh nhận các bí tích ấy?
f)
Đơn giản hóa thực hành thủ tục Giáo luật nhìn nhận sự tuyên bố một dây hôn phối
bất thành có thực sự góp phần tích cực hay không để giải quyết các vấn đề của
những người liên quan?
g)
Có một chương trình mục vụ riêng cho những trường hợp này không? Làm sao để
tiến hành những hoạt động mục vụ đó? Có những chương trình mục vụ nào riêng về
vấn đề này ở cấp giáo phận và cấp toàn quốc không? Làm thế nào để Lòng Từ Bi
hay Thương Xót của Chúa được loan báo cho những người ly thân và ly dị tái hôn
? Giáo hội làm gì cụ thể để nâng đỡ những người ấy trong cuộc lữ hành đức tin
của họ?
5. Về những người kết hợp đồng tính
a)
Trong nước của anh chị em có luật dân sự nào công nhận cuộc sống chung giữa
những người cùng giới như một cái gì tương đương với kết hợp của hôn nhân
không?
b)
Các Giáo hội địa phương có thái độ thế nào, đối với Chính Quyền ủng hộ những
định chế cho những kết hợp dân sự giữa những người đồng giới như thế, cũng như
đối với những người trong cuộc dấn thân cho mục đích đó?
c)
Giáo hội cần lưu tâm chăm sóc mục vụ như thế nào đối với những người đã chọn
sống kiểu sống kết hợp đó?
d)
Động thái mục vụ nào thì thích hợp trong trường hợp của những cặp kết hợp đồng
tính có nhận con nuôi nhằm tới thông truyền đức tin?
6. Về việc giáo dục con cái ngay trong chính những trường hợp hôn nhân trái
phép (rối)
a)
Tỉ lệ ước tính những đứa trẻ và trẻ vị thành niên trong những trường hợp (bị
rối) này là bao nhiêu so với những đứa trẻ được sinh ra, nuôi nấng và dạy dỗ
trong các gia đình đúng phép đạo?
b)
Những người cha người mẹ này gặp gỡ trao đổi với tâm thái hay tinh thần như thế
nào? Họ yêu cầu điều gì? Họ chỉ xin lãnh các bí tích hay còn xin được học giáo
lý nữa?
c)
Các Giáo hội địa phương đáp ứng như thế nào những nhu cầu của các bậc cha mẹ
những đứa trẻ này nhằm để cho họ hưởng được một nền giáo dục đức tin kitô ?
d)
Thực hành các bí tích như thế nào trong những trường hợp đó: sự chuẩn bị, trao
ban và đồng hành trong cử hành và sống các bí tích?
7. Về việc hướng các đôi bạn đến đón nhận sự sống mới
a) Các kitô hữu có biết
cụ thể giáo lý của (Thông điệp) Humanae
vitae về việc làm cha làm mẹ
có trách nhiệm không? Người ta có biết đánh giá về mặt luân lý các phương pháp
điều hòa sinh sản khác nhau không? Từ quan điểm mục vụ, nên gợi ý có thể đi sâu
vào hướng nào về vấn đề này?
b) Giáo thuyết luân lý
đó có được đón nhận không? Những mặt nào gây rắc rối nhất khiến cho phần lớn
các cặp có khó khăn đón nhận?
c) Giáo hội địa phương ủng
hộ những phương pháp tự nhiên nào để giúp các đôi phối ngẫu thực hành giáo huấn
củaHumanae vitae ?
d) Có những kinh nghiệm
nào về đề tài này trong khi thực hành Bí tích Giao hòa và tham dự vào Bí tích
Thánh Thể?
e) Giữa Giáo lý của
Giáo hội về vấn đề này với giáo dục công dân trong xã hội có sự tương phản rõ
rệt nào không?
f) Khuyến khích như thế
nào phát huy não trạng thoáng đạt đối với việc sinh sản? Làm sao để tạo điều
kiện thuận lợi tăng trưởng số sinh?
8. Về mối tương quan
giữa gia đình và cá nhân
a) Đức Giêsu Kitô mạc
khải mầu nhiệm và ơn gọi của con người : phải chăng gia đình là cảnh vực ưu
việt để thực hiện ơn gọi này?
b) Những tình cảnh gai
góc nào của gia đình trong thế giới hôm nay có thể là trở ngại cho sự gặp gỡ cá
nhân với Đức Kitô ?
c) Những khủng hoảng
đức tin mà người ta có thể trải qua có ảnh hưởng như thế nào trên đời sống gia
đình?
9. Những thách đố khác
và những đề nghị
Về những chủ đề gợi ra
trong Bản Câu hỏi này, anh chị em có những ý kiến gì khác về những thách đố
hoặc những đề nghị nào cho là cấp bách và hữu ích hay không?
Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục