Diễn
Văn Của Đức Thánh Cha Tại Phiên Khai Mạc Đại Hội Các Lãnh Đạo Tôn Giáo Thế Giới
Và Truyền Thống
Trong
diễn văn tại phiên khai mạc Đại hội các lãnh đạo tôn giáo thế giới và truyền,
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng, chính tình huynh đệ quy tụ tất cả chúng ta, như
những người con của cùng một Trời Cao. Bởi vì, trước mầu nhiệm của sự vô hạn
vượt trên và thu hút chúng ta, các tôn giáo nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là
thụ tạo: chúng ta không toàn năng, nhưng là những người nam nữ đang trên đường
tiến về một Trời Cao.
Anh chị
em thân mến!
Cho
phép tôi nói với anh chị em bằng những lời trực tiếp và thân thuộc. Tôi muốn
gửi lời chào đến anh chị em, lãnh đạo chính quyền và tôn giáo, thành viên của
ngoại giao đoàn và các tổ chức quốc tế, đại diện các tổ chức hàn lâm và văn
hóa, xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ, nhân danh tình huynh đệ quy tụ
tất cả chúng ta, như những người con của cùng một Trời Cao.
Trước
mầu nhiệm của sự vô hạn vượt trên và thu hút chúng ta, các tôn giáo nhắc nhở
chúng ta rằng chúng ta là thụ tạo: chúng ta không toàn năng, nhưng là những
người nam nữ đang trên đường tiến về một Trời Cao. Do đó, bản chất thụ tạo
chung của chúng ta phát sinh một liên hệ chung, một tình huynh đệ
thực sự, nhắc nhở chúng ta rằng ý nghĩa của cuộc sống không thể bị thu hẹp
trong lợi ích cá nhân, nhưng được liên kết sâu sắc với tình huynh đệ là một
phần căn tính của chúng ta. Chúng ta chỉ tiến triển với những người khác và nhờ
những người khác. Anh chị em lãnh đạo và đại diện các
tôn giáo thế giới và truyền thống thân mến, chúng ta đang gặp nhau ở một đất
nước đã trải qua bởi những đoàn người đông đảo trong nhiều thế kỷ. Ở những vùng
đất này nhiều câu chuyện, ý tưởng, niềm tin và hy vọng đã được hòa quyện vào
nhau. Ước mong một lần nữa Kazakhstan là vùng đất gặp
gỡ của những người phương xa, mở ra một lộ trình mới,
không tập trung vào giá trị thương mại, nhưng dựa trên các mối quan hệ con
người: tôn trọng, đối thoại chân thành, tôn trọng phẩm giá bất khả xâm phạm của
mỗi người và cộng tác với nhau. Một lộ trình huynh đệ để cùng nhau hướng tới
hòa bình.
Hôm qua
tôi đã mượn hình ảnh cây đàn dombra; hôm nay tôi muốn liên kết âm thanh của
nhạc cụ này, với nhà thơ nổi tiếng nhất của đất nước, cha đẻ của nền văn học,
một nhà giáo dục và nhà soạn nhạc thường được mô tả với đàn dombra. Abai
(1845-1904), như ông được nhiều người biết đến, đã để lại cho chúng ta những
tác phẩm thấm đượm tôn giáo, trong đó tâm hồn tuyệt vời nhất của dân tộc này
tỏa sáng: một trí tuệ hài hòa, mong muốn một nền hòa bình được tìm thấy qua sự
tự vấn khiêm tốn, khao khát một sự khôn ngoan xứng đáng với con người, không
bao giờ khép mình trong những tầm nhìn nhỏ bé và hẹp hòi, nhưng sẵn sàng để
mình được truyền cảm hứng từ nhiều trải nghiệm khác nhau. Abai thách đố chúng
ta với một câu hỏi bất hủ: “Vẻ đẹp của cuộc sống là gì, nếu người ta không đi
vào chiều sâu?” (Poesia, 1898). Một nhà thơ khác đã tự hỏi ý nghĩa của
sự hiện hữu, đặt lên môi một người chăn chiên của những vùng đất châu Á vô biên
này một câu hỏi cũng rất quan trọng: “Cuộc lang thang ngắn ngủi này của tôi
hướng về đâu?” (G. Leopardi, Canto notturno di un pastore errante
dell’Asia). Chính những chất vấn như những câu hỏi này đã khơi dậy nhu
cầu về tôn giáo, nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta với phận làm người không tồn
tại lâu để thỏa mãn những lợi ích trần thế và để dệt nên những mối quan hệ chỉ
mang tính chất kinh tế, nhưng là để đi cùng nhau, như những người lữ hành với
cái nhìn hướng về Trời Cao. Chúng ta cần hiểu rõ những câu hỏi sau cùng, để
trau dồi tâm linh, như Abai nói, để giữ cho “linh hồn tỉnh táo và tâm trí sáng
suốt” (Parola 6).
Anh chị
em thân mến, thế giới chờ đợi nơi chúng ta mẫu gương của những linh hồn tỉnh
táo và tâm trí sáng suốt, chờ đợi bản chất tôn giáo đích thực. Đã đến lúc phải
thức tỉnh khỏi chủ nghĩa chính thống cực đoan đang làm ô nhiễm và ăn mòn niềm
tin, đã đến lúc phải làm cho tâm hồn trong sáng và trắc ẩn. Nhưng cũng đã đến
lúc bỏ lại chỉ cho sách vở lịch sử những bài phát biểu dài, nơi này và nơi
khác, đã in vào trí não sự nghi ngờ và khinh miệt tôn giáo, như thể tôn giáo là
một nhân tố gây bất ổn trong xã hội hiện đại. Ở những vùng đất này, người ta đã
từng quá quen thuộc với di sản của chủ nghĩa vô thần do nhà nước áp đặt trong
nhiều thập kỷ: não trạng áp bức và ngột ngạt mà chỉ cần đề cập đến cụm từ “tôn
giáo” là đã tạo ra sự bối rối im lặng. Thực tế, tôn giáo không phải là vấn đề,
nhưng là một phần của giải pháp để chung sống hài hòa hơn. Thực tế, việc tìm
kiếm siêu việt và giá trị thánh thiêng của tình huynh đệ có thể truyền cảm hứng
và soi sáng những lựa chọn cần thực hiện trong bối cảnh khủng hoảng địa chính
trị, xã hội, kinh tế, sinh thái, nhưng về cơ bản là những cuộc khủng hoảng tinh
thần qua nhiều thể chế hiện nay, bao gồm cả các nền dân chủ, gây tổn hại cho an
ninh và sự hòa hợp giữa các dân tộc. Vì vậy, chúng ta cần tôn giáo để đáp ứng
cơn khát hòa bình của thế giới và khát khao cái vô hạn đang cư ngụ trong tâm
hồn mỗi người.
Vì lý
do này, một điều kiện thiết yếu để phát triển con người thực sự và toàn diện
là tự do tôn giáo. Anh chị em, chúng ta là những thụ tạo tự do.
Đấng Tạo Hóa của chúng ta đã “từ bỏ chính mình vì chúng ta”, đã “giới hạn” sự
tự do tuyệt đối của Người để chúng ta, thụ tạo của Người được tự do. Vậy thì
làm sao chúng ta có thể cưỡng ép anh em nhân danh Người? Abai một lần nữa nói
với chúng ta: “Trong khi chúng ta tin và thờ phượng, chúng ta không được ép
người khác phải tin và thờ phượng” (Parola 45). Quyền tự do tôn
giáo là một quyền nền tảng, cơ bản và bất khả xâm phạm, phải được khuyến khích
ở mọi nơi và không thể chỉ giới hạn ở quyền tự do thờ phượng. Mỗi người có
quyền làm chứng công khai đối với niềm tin của mình, đề xuất, nhưng không bao
giờ áp đặt niềm tin. Đây là phương pháp rao giảng đúng, khác với hoạt động lôi
kéo và tuyên truyền, điều mọi người được kêu gọi tránh xa. Xếp vào lĩnh vực
riêng tư, niềm tin quan trọng nhất của cuộc sống sẽ tước đi khỏi xã hội một kho
báu vô cùng lớn. Trái lại, ủng hộ những bối cảnh nơi có sự chung sống tôn trọng
giữa những đa dạng tôn giáo, dân tộc và văn hóa là cách tốt nhất để nâng cao
những nét đặc trưng của mỗi người, để hiệp nhất con người mà không đòi hỏi phải
đồng nhất, thúc đẩy những khát vọng cao nhất của họ mà không làm ảnh hưởng đến
lòng nhiệt thành.
Bằng
cách này, chúng ta thấy tầm quan trọng lâu dài của tôn giáo và sự liên quan của
nó đối với thời đại chúng ta, điều mà Kazakhstan đã đưa lên hàng đầu trong hai
thập kỷ qua bằng cách đăng cai tổ chức Đại hội toàn thế giới này. Cuộc gặp gỡ
này mời gọi chúng ta suy ngẫm về vai trò mà chúng ta được kêu gọi đóng góp vào
sự phát triển tinh thần và xã hội của nhân loại trong thế giới hậu đại dịch
này.
Đại
dịch, giữa tính dễ bị tổn thương và chăm sóc, đại diện cho thách đố đầu tiên
trong bốn thách đố toàn cầu mà tôi muốn nêu ra và kêu gọi tất cả mọi người -
đặc biệt là các tôn giáo - phải đoàn kết hơn về mục đích. Covid-19 đã đặt tất
cả chúng ta vào cùng một con thuyền, làm cho chúng ta hiểu rằng, như Abai đã
nói, “chúng ta không phải là thần thánh, nhưng là loài phải chết” (ibid): Tất
cả chúng ta đều cảm thấy mong manh, tất cả đều cần được giúp đỡ; không ai hoàn
toàn độc lập, không ai hoàn toàn tự mình. Tuy nhiên, giờ đây, chúng ta không
thể lãng phí nhu cầu liên đới mà chúng ta cảm thấy, tiến về phía trước như thể
không có chuyện gì xảy ra, không nhìn nhận rằng chúng ta phải cùng nhau giải
quyết những vấn đề cấp bách liên quan đến mọi người. Các tôn giáo không được
thờ ơ với điều này: các tôn giáo được kêu gọi đi đầu, là những người cổ vũ sự
hiệp nhất khi đối diện với những thách đố có nguy cơ chia rẽ gia đình nhân loại
hơn nữa.
Đặc
biệt, chúng ta, những người tin vào Đấng Tạo Hóa, phải giúp các anh chị em của
thời đại chúng ta không quên tính dễ bị tổn thương là đặc điểm
của chúng ta. Không để rơi vào những ảo tưởng sai lầm về sự toàn năng được khơi
dậy bởi sự tiến bộ kinh tế và kỹ thuật, bởi vì chỉ những điều này thôi thì
không đủ. Không để mình bị vướng vào cạm bẫy của lợi nhuận và lợi ích, như thể
chúng giải quyết ổn thoả mọi điều xấu. Không ủng hộ sự phát triển không bền
vững, không tôn trọng các giới hạn được thiết lập cho thụ tạo. Không để mình bị
lôi cuốn bởi sự hấp dẫn bề ngoài của chủ nghĩa tiêu thụ, bởi vì của cải vật
chất vì con người chứ không phải con người vì của cải vật chất. Tóm lại, tính
dễ bị tổn thương chung của chúng ta, xuất hiện trong đại dịch, phải khuyến
khích chúng ta không tiếp tục như trước nữa, nhưng khiêm tốn và có tầm nhìn xa
hơn.
Ngoài
việc nâng cao nhận thức về sự mong manh và trách nhiệm của chúng ta, các tín
hữu ở thời hậu đại dịch được kêu gọi quan tâm: chăm sóc nhân loại
chung, trở thành nghệ nhân của sự hiệp thông, chứng tá của sự cộng
tác vượt qua rào cản sự thuộc về cộng đồng, dân tộc, quốc gia và tôn giáo.
Nhưng làm thế nào để bắt đầu một sứ vụ khó khăn như vậy? Bắt đầu từ đâu? Bằng
cách lắng nghe những người yếu đuối nhất, bằng cách lên tiếng cho những người
dễ bị tổn thương nhất, bằng cách tạo tiếng vang của một tinh thần liên đới toàn
cầu, nhưng trước hết là quan tâm đến những người nghèo, những người thiếu thốn,
những người bị ảnh hưởng nhiều nhất từ đại dịch, đã gây ra sự bất bình đẳng và
mất cân bằng toàn cầu một cách mạnh mẽ . Ngày nay vẫn còn nhiều người
không dễ dàng tiếp cận với vắc-xin! Chúng ta đứng về phía họ, không đứng về
phía những người có nhiều hơn và cho ít hơn. Chúng ta hãy trở thành những người
có lương tâm ngôn sứ và can đảm. Chúng ta hãy gần gũi với mọi người, đặc biệt
những người bị lãng quên, bị gạt ra ngoài lề, những thành phần yếu đuối và
nghèo khổ nhất của xã hội, những người đau khổ trong âm thầm, không ai biết đến.
Những gì tôi đề xuất với anh chị em không chỉ là một cách để trở nên nhạy cảm
và liên đới hơn, nhưng còn là một con đường chữa lành cho xã hội chúng ta. Bởi
vì chính sự nghèo đói đã tạo điều kiện cho sự lây lan của dịch bệnh và những tệ
nạn lớn khác phát triển mạnh trên những vùng đất khó khăn và bất bình đẳng. Yếu
tố rủi ro lớn nhất của thời đại chúng ta vẫn là nghèo đói. Về vấn đề này, Abai
khôn ngoan tự hỏi: “Liệu những người đang đói có thể giữ một tâm trí sáng suốt
[…] và thể hiện sự siêng năng trong học tập không? Nghèo đói và cãi vã […] tạo
ra […] bạo lực và tham lam ”(Parola 25). Chừng nào sự bất bình đẳng
và bất công vẫn tiếp tục hoành hành, những loại virus tồi tệ hơn Covid sẽ không
chấm dứt: đó là sự thù hận, bạo lực, khủng bố.
Điều
này đưa chúng ta đến thách đố toàn cầu thứ hai, chất vấn các tín đồ một cách cụ
thể: thách đố hòa bình. Trong những thập kỷ gần đây, cuộc đối thoại
giữa các lãnh đạo tôn giáo chủ yếu liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, chúng
ta thấy thời đại chúng ta vẫn còn bị đánh dấu bởi tai họa chiến tranh, bầu khí
đối đầu, sự bất lực trong việc lùi lại một bước và đưa tay hướng về người khác.
Anh chị em, cần phải có một bước tiến nhảy vọt, và nó phải đến từ chúng ta. Nếu
Đấng Tạo Hóa, Đấng mà chúng ta dâng hiến cuộc đời, đã trao ban sự sống cho con
người, thì làm sao chúng ta, những người tự nhận mình là tín đồ, lại có thể cho
phép sự sống con người bị huỷ diệt? Và làm sao chúng ta có thể nghĩ rằng những
người ở thời đại chúng ta, mà nhiều người trong số họ sống như thể Chúa không
hiện hữu, có thể được truyền cảm hứng để tham gia vào một cuộc đối thoại tôn
trọng và có trách nhiệm, trong khi các tôn giáo lớn, vốn là linh hồn của rất
nhiều nền văn hóa và truyền thống, đã không tích cực dấn thân cho hòa bình?
Lưu ý
đến những điều khủng khiếp và sai lầm của quá khứ, chúng ta hãy hợp lực để đảm
bảo rằng Đấng Toàn Năng không bao giờ bị trở thành con tin trước cơn khát quyền
lực của con người. Abai nhắc nhở rằng “ai cho phép điều ác và không chống lại
điều ác thì không thể được coi là một tín đồ chân chính, nhưng là một tín đồ
nửa vời” (Parola 38). Anh chị em thân mến, một cuộc thanh tẩy khỏi
điều ác là điều cần thiết cho mỗi người. Abai nhấn mạnh vào khía cạnh này
“người bỏ học làm mất đi một phúc lành” và “những người không nghiêm khắc với
chính mình và không có lòng trắc ẩn thì không thể được coi là một tín đồ” (Parola 12).
Do đó, chúng ta hãy tự thanh tẩy khỏi tính tự phụ cho mình là đúng và không cần
học hỏi từ người khác. Chúng ta hãy tự giải thoát mình khỏi những quan niệm
giảm thiểu và phá hoại, vốn xúc phạm danh Thiên Chúa bằng sự cứng nhắc, khép
kín, cực đoan, thù hận, cuồng tín và khủng bố, thậm chí làm biến dạng hình ảnh
của con người. Vâng, bởi vì Abai nhắc lại “nguồn gốc của nhân loại là tình yêu
và công lý, […] đó là vương miện công trình sáng tạo của Thiên Chúa” (Parola 45).
Mong sao chúng ta đừng bao giờ biện minh cho bạo lực, không cho phép sự thánh
thiêng bị lợi dụng bởi những điều phàm tục. Mong sao sự thánh thiêng không phải
là chỗ dựa của quyền lực, cũng như quyền lực không phải là chỗ dựa cho điều
thánh thiêng.
Thiên
Chúa là sự bình an và luôn dẫn đến hoà bình, không bao giờ đưa đến chiến tranh.
Do đó, chúng ta hãy dấn thân hơn nữa, thúc đẩy và củng cố nhu cầu giải quyết
xung đột không phải bằng quyền lực, vũ khí và đe dọa không đi đến hồi kết,
nhưng bằng những phương tiện duy nhất được Trời Cao chúc phúc và xứng với con
người: gặp gỡ, đối thoại, các cuộc đàm phán kiên nhẫn, được tiếp tục đặc biệt
trong suy nghĩ của trẻ em và các thế hệ trẻ. Họ là hiện thân của hy vọng rằng
hòa bình không phải là kết quả mong manh của những cuộc đàm phán khó khăn,
nhưng là kết quả của một cam kết giáo dục không ngừng, thúc đẩy ước mơ phát
triển và tương lai của họ. Theo nghĩa này, Abai khuyến khích mở rộng kiến thức,
vượt qua ranh giới văn hóa của chính mình, để tiếp thu kiến thức, lịch sử và
văn học của người khác. Xin anh chị em hãy đầu tư vào giáo dục, không đầu tư
vào vũ khí.
Sau đại
dịch và hòa bình, chúng ta phải đối diện với thách đố thứ ba, đó là sự chào
đón huynh đệ. Ngày nay chúng ta cảm thấy thật khó để chấp nhận người khác.
Hàng ngày, trẻ sơ sinh và trẻ em, người di cư và người già bị vứt bỏ. Nhiều anh
chị em hy sinh trên bàn thờ lợi nhuận, được bọc trong hương trầm tế lễ của sự
dửng dưng. Tuy nhiên mỗi người là thánh thiêng. “Homo sacra res homini”, người
xưa nói (Seneca, Epistulae morales ad Lucilium,
95,33): Trước hết đó là nhiệm vụ của chúng ta, các tôn giáo, là nhắc nhở
thế giới về điều này. Giờ đây, chưa bao giờ chúng ta chứng kiến sự di cư lớn
như thế do chiến tranh, đói nghèo, biến đổi khí hậu, bởi việc tìm kiếm hạnh
phúc mà thế giới toàn cầu hóa cho phép biết, nhưng thường rất khó đạt được. Một
cuộc đại di cư đang diễn ra: từ những khu vực khó khăn nhất, người ta cố gắng
tiếp cận những khu vực giàu có hơn. Đây không phải là một mục trên
bản tin hàng ngày, mà là một thực tế lịch sử, đòi hỏi những giải
pháp chung và có tầm nhìn xa. Tất nhiên, với bản năng người ta sẽ bảo vệ sự an
toàn cho mình và đóng cửa lại vì sợ hãi; nghi ngờ, buộc tội và lên án người
nước ngoài thì dễ hơn là biết và hiểu họ. Nhưng bổn phận của chúng ta là phải
nhớ rằng Đấng Tạo Hóa luôn dõi theo từng bước của mọi thụ tạo, khuyến khích
chúng ta có một cái nhìn giống Người, một cái nhìn nhận ra khuôn mặt của người
anh em.
Ngôn
ngữ Kazakh mời gọi chúng ta đến cái nhìn chào đón này: trong ngôn ngữ này “yêu
thương” theo nghĩa đen là “có một cái nhìn tốt về một ai đó”. Nhưng văn hóa
truyền thống của những vùng này cũng khẳng định điều tương tự qua một câu tục
ngữ phổ biến rất hay: “Nếu bạn gặp ai đó, hãy cố gắng làm cho họ hạnh phúc, có
thể đây là lần cuối cùng bạn gặp họ”. Nếu tập quán hiếu khách, nét đặc trưng
của thảo nguyên, phản ánh giá trị bất khả xâm phạm của mỗi con người, thì Abai
tái khẳng định điều này bằng cách nói rằng “con người phải là bạn của con
người” và tình bạn này dựa trên sự chia sẻ chung, bởi vì những thực tế quan
trọng của cuộc sống và cuộc sống mai hậu có những điểm chung. Và do đó, Abai
tuyên bố, “tất cả mọi người là khách của nhau” và “chính con người là khách
trong cuộc sống này” (Parola 34). Chúng ta hãy tái khám phá nghệ
thuật của lòng hiếu khách, sự chào đón, lòng trắc ẩn. Và chúng ta cũng học biết
xấu hổ: vâng, cảm nhận sự xấu hổ lành mạnh xuất phát từ lòng trắc ẩn đối với
những người đau khổ, cảm thông và quan tâm đến trình trạng và số phận của họ.
Đó là con đường của lòng nhân ái, làm cho chúng ta trở nên người hơn và tín đồ
tốt hơn. Ngoài việc khẳng định phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, chúng
ta còn phải dạy cho thế giới biết khóc thương người khác, bởi vì chỉ khi chúng
ta cảm nhận những khó khăn của người khác như của chính mình thì chúng ta mới
thực sự là con người.
Thách
đố toàn cầu sau hết chất vấn chúng ta: chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta.
Trước những biến đổi khí hậu khắc nghiệt, ngôi nhà này phải được bảo vệ, để nó
không bị áp đặt theo lý luận của vụ lợi, nhưng được gìn giữ cho các thế hệ mai
sau, trong sự ngợi khen Đấng Tạo Hóa. Abai viết: “Thật là một thế giới tuyệt
vời mà Đấng Tạo Hoá đã ban tặng cho chúng ta! Người đã ban cho chúng ta ánh
sáng với lòng hào hiệp và quảng đại. Khi đất mẹ nuôi dưỡng chúng ta, thì Cha
chúng ta trên trời đã nâng niu nghiêng mình trên chúng ta” ( Poesia
“Primavera”). Với sự quan tâm yêu thương, Đấng Tối Cao đã chuẩn bị một
ngôi nhà chung cho sự sống: và chúng ta, những người tuyên xưng mình thuộc về
Người, làm sao chúng ta có thể để nó bị ô nhiễm, ngược đãi và hủy hoại? Chúng
ta cũng hiệp lực trong thách đố này. Nó không nằm sau cùng xét về tầm quan
trọng. Trên thực tế, nó ở vị trí đầu tiên, ở vấn đề đại dịch. Các loại virus
như Covid-19, mặc dù cực nhỏ, có khả năng phá làm vỡ vụn những tham vọng tiến
bộ lớn lao và thường bất chợt từ thế giới động vật, đến từ một sự cân bằng bị
phá huỷ, phần lớn là do chúng ta. Ví dụ chúng ta hãy nghĩ đến nạn phá rừng,
buôn bán trái phép động vật sống. Chính não trạng khai thác đã
tàn phá ngôi nhà chúng ta đang sống. Không chỉ vậy: nó dẫn đến sự che
khuất tầm nhìn tôn trọng và tôn giáo đó về thế giới mà Đấng Tạo Hoá mong muốn.
Vì vậy, điều cần thiết là phải ủng hộ và thúc đẩy chăm sóc sự sống trong mọi
hình thức.
Anh chị
em thân mến, chúng ta hãy cùng nhau tiến lên, để hành trình của các tôn giáo
ngày càng thân thiện hơn. Abai nói rằng “người bạn giả dối giống như cái bóng:
khi mặt trời chiếu vào bạn, bạn không thể thoát khỏi nó, nhưng khi mây tụ lại trên
bạn, bạn sẽ không thấy nó đâu cả” (Parola 37). Cầu mong điều này
không xảy ra với chúng ta. Ước mong Đấng Tối Cao giải thoát chúng ta khỏi bóng
tối của sự nghi ngờ và giả dối; Người có thể ban cho chúng ta để vun đắp tình
bạn ấm áp và huynh đệ, qua đối thoại thường xuyên và sự chân thành sáng ngời về
mục đích. Mong sao chúng ta không bao giờ nhắm vào các hình thức hoà giải giả
tạo, nhưng chúng ta gìn giữ căn tính chúng ta mở ra cho sự can đảm của sự đa
dạng, cho cuộc gặp gỡ huynh đệ. Chỉ bằng cách này, trong thời kỳ tăm tối mà
chúng ta đang sống, chúng ta mới có thể làm tỏa lên ánh sáng của Đấng Tạo Hóa
chúng ta. Xin cám ơn!