BÀI
DIỄN VĂN ĐỨC THÁNH CHA DÀNH CHO BỘ TRUYỀN THÔNG
Các
tham dự viên Đại hội toàn thể của Bộ Truyền
thông trong buổi tiếp kiến Đức
Thánh Cha 12. 11. 2022
WHĐ
(14.11.2022) – Đại hội toàn thể của Bộ Truyền thông với chủ đề: “Thượng hội đồng và Truyền
thông: một hành trình để phát triển” (Synod
and Communication: a journey to develop) đã diễn ra tại Roma từ ngày 10-12.11.2022 với sự tham gia của
nhiều thành viên bao gồm nhà
báo, kỹ thuật viên, và
nhân viên của Bộ. Được biết, Đức cha
Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Giám mục giáo phận Mỹ Tho, thành viên của Bộ Truyền
Thông cũng tham dự Đại hội.
Nhân dịp này, các tham dự viên Đại hội đã có buổi tiếp kiến Đức
Thánh Cha Phanxicô vào sáng 12. 11. 2022. Trong buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha đã ngẫu hứng chia sẻ
trực tiếp những suy tư của Ngài, và trao bài diễn văn đã soạn sẵn cho
những người hiện diện.
Dưới
đây là nội dung bài
diễn văn đã chuẩn bị của Đức
Thánh Cha:
BÀI DIỄN
VĂN ĐỨC THÁNH CHA DÀNH CHO BỘ
TRUYỀN THÔNG
Xin chào
anh chị em!
Tôi
xin cám ơn về những lời tốt đẹp của Tiến sĩ Paolo Ruffini. Tôi chào tất cả anh chị em đang tham
dự Đại hội toàn thể của Bộ Truyền thông với
chủ đề “Thượng hội đồng và Truyền thông: một hành trình để phát
triển”.
Đức
Thánh Cha chào đón Tổng trưởng Bộ Truyền thông, Tiến sĩ Paolo Ruffini
Thượng
Hội đồng không phải là một bài tập đơn giản trong truyền thông, cũng không phải
là một nỗ lực để suy nghĩ lại
về Giáo hội với logic của đa số và thiểu số, để tìm ra một thỏa
thuận. Đó là kiểu tầm nhìn mang tính thế gian, và theo mô hình của nhiều
kinh nghiệm xã hội, văn hóa và chính trị. Thay vào đó, yếu tính của lộ trình hiệp hành hệ tại ở chân lý cơ bản mà chúng ta không bao
giờ được lãng quên: nhằm mục đích lắng nghe, thấu hiểu, và thực hành ý muốn của Thiên Chúa.
Như là
một Giáo hội, nếu chúng ta muốn biết ý muốn của Thiên Chúa là làm cho ánh sáng của Tin Mừng chiếu toả hơn nữa trong thời đại của
chúng ta, thì chúng ta phải trở lại với nhận thức
rằng ý muốn ấy của Thiên Chúa không bao giờ được ban với tư cách cá nhân, nhưng luôn được ban tặng cho Giáo hội trong tư cách toàn
thể. Chỉ trong kết cấu sống động của các mối tương quan trong Giáo hội, chúng ta mới trở nên có khả
năng lắng nghe và hiểu được Đức Chúa,
Đấng đang nói với chúng ta. Nếu không “bước đi cùng nhau”,
chúng ta có thể đơn giản trở thành một tổ chức tôn giáo, song le tổ chức
này đã đánh mất khả năng để cho ánh sáng sứ điệp của
vị Tôn Sư tỏa sáng, đã
đánh mất khả năng mang lại hương vị cho các biến cố khác nhau của thế giới.
Đức
Giêsu cảnh báo chúng ta đề
phòng về một xu hướng
như vậy. Người lặp lại với chúng ta rằng: “Chính anh em là muối cho
đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô
dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh
em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu
được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên
đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em
phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em
làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 13-16).
Đây là lý do tại sao chiều kích hiệp hành là một chiều kích cấu thành Giáo
hội, và việc suy tư mà chúng ta đã tham gia trong những năm vừa qua nhằm mục đích đưa ra một cách
kiên vững điều mà
Giáo hội luôn tin tưởng trọn vẹn.
Sách
Thánh đầy rẫy những câu chuyện về những người
nam và người nữ, mà đôi khi chúng ta nhầm tưởng là những anh hùng đơn độc. Chẳng
hạn, tổ phụ Abraham,
người đầu tiên được Thiên Chúa ngỏ lời, không phải là một người đơn độc lên đường, mà là một người rất coi
trọng tiếng nói của Thiên Chúa, Đấng mời gọi ông rời khỏi quê cha đất tổ của mình, và ông thực hiện điều này cùng với gia đình của mình (Gen 12, 1-9). Câu chuyện về Abraham là câu chuyện về các
tương quan thân thích của ông.
Ngay cả
Môsê, người giải phóng dân Israel, cũng sẽ không thể hoàn thành sứ
mạng nếu không có sự giúp đỡ của người anh Aaron, người chị Maria, và người anh rể Jethro, cùng một số người khác đã giúp ông lắng
nghe Lời Chúa và đem ra thi hành vì lợi ích của tất cả mọi người. Môsê là một
người bị tổn thương trong cuộc sống cá nhân, ông không có tài ăn nói, trái lại, còn là một người nói lắp. Thậm chí chúng ta có
thể nói rằng Môsê là một người gặp khó khăn trong việc giao tiếp, nhưng
những người ở bên cạnh Môsê đã bù đắp cho sự bất tài của bản thân ông (x. Xh 4; 10, 12-16).
Đức Maria
thành Nazareth đã không thể hát bài Magnificat nếu không có sự
hiện diện và tình bạn của người chị họ Elizabeth (x. Lc 1, 46-55). Mẹ cũng sẽ không thể bảo vệ hài nhi
Giêsu khỏi sự căm ghét của những kẻ muốn giết Người nếu không có Giuse ở bên (Mt 2,13-15; 19-23).
Chính
Đức Giêsu cũng cần có những tương
quan với người khác, và khi phải đương đầu với trận chiến cuối cùng
trong sứ mạng tại Giêrusalem, vào đêm bị bắt, Người đã đưa các bạn là
Phêrô, Giacôbê và Gioan đến Vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26, 36-46).
Sự đóng
góp của truyền thông chính là làm cho chiều
kích cộng đồng này, năng lực liên kết này,
và ơn gọi kết nối này trở nên khả
thi. Và, do đó, chúng ta hiểu rằng nhiệm vụ của truyền thông là thúc đẩy sự gần gũi,
mang lại tiếng nói cho những người bị loại trừ, để thu hút sự chú ý đến những
gì chúng ta thường loại bỏ và phớt lờ. Có thể nói, truyền thông là một công cụ kết nối,
trong đó tiếng nói của Thiên Chúa vang lên và được lắng nghe.
Tôi
muốn khai triển 3 điều như là
những đường hướng để suy tư trong
tương lai về lĩnh vực này.
Nhiệm
vụ đầu tiên của truyền thông là làm
cho con người bớt cô đơn. Nếu truyền thông không làm giảm đi cảm giác cô
đơn mà rất nhiều người nam nữ cảm thấy họ phải cam chịu, thì truyền thông đó đơn thuần
chỉ là giải trí, nó không phải là công cụ để kiến tạo các mối tương quan như chúng ta đã đề cập đến ở trên.
Để thực
hiện một sứ mạng như thế, cần phải rõ ràng rằng người ta chỉ cảm thấy bớt
cô đơn khi họ nhận ra những vấn đề, những
hy vọng, và những khó khăn mà họ
mang trong mình được sự bộc lộ
ra bên ngoài. Chỉ duy Giáo hội biết dìm mình vào thực tại mới
thực sự biết được điều gì ẩn khuất nơi tâm
hồn của con người đương thời. Do đó, tất cả
truyền thông đích thực được thực hiện trước hết từ sự lắng nghe chân thành,
được hình thành từ
những cuộc gặp gỡ, những khuôn mặt, những câu chuyện. Nếu không biết cách ở
trong thực tại thì chúng ta sẽ tự giới hạn mình khi chỉ đưa ra
những hướng dẫn từ trên
cao mà không ai muốn chú ý
đến. Truyền thông phải là một trợ giúp đắc lực đối với Giáo Hội trong việc ở trong thực
tại một cách cụ thể, nhằm thúc đẩy việc lắng nghe và can
thiệp vào phần lớn vấn đề
của con người ngày nay.
Liên quan với thách đố đầu tiên này,
tôi muốn thêm một thách đố khác: truyền thông mang lại tiếng
nói cho những người không có tiếng nói. Rất thường xuyên chúng
ta chứng kiến những hệ thống truyền thông gạt ra bên lề và phê bình những gì không thoải mái và
những gì chúng ta không muốn thấy. Nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo hội nhận thức rõ
nhiệm vụ của mình là phải ở bên những người rốt hết, và môi trường sống tự nhiên
của Giáo hội là chính môi trường sống của những vùng ngoại biên hiện sinh.
Nhưng những
người ở vùng ngoại biên hiện sinh không chỉ là những người sống bên lề
xã hội vì lý do kinh tế, mà còn là những người dù có của ăn nhưng bị tước đoạt ý nghĩa cuộc sống; họ cũng là những người sống
trong hoàn cảnh bị gạt ra bên lề do những lựa chọn nhất định, hoặc những thất
bại của gia đình, hoặc những biến cố cá nhân đã để lại những dấu ấn không thể xóa nhòa trong
lịch sử của họ. Đức Giêsu không bao giờ sợ hãi người phung hủi, người nghèo, người xa lạ, ngay cả khi
họ bị đánh dấu bởi sự kỳ thị về đạo đức. Đức Giêsu không bao giờ
phớt lờ những người
không theo đúng lễ giáo dưới bất cứ hình thức nào. Tôi tự hỏi rằng với tư cách là một Giáo
hội, liệu chúng ta có biết cách đưa ra tiếng nói cho những anh chị em này,
chúng ta có biết cách lắng nghe họ, chúng ta có biết cách phân
định ý muốn của Thiên Chúa cùng với họ, và do đó, nói với họ Lời mang ơn cứu độ chăng.
Cuối
cùng, thách đố thứ ba của truyền thông mà tôi muốn để lại cho anh chị em
là việc giáo dục bản thân trong nỗ lực truyền thông. Trong Tin
Mừng, không hiếm khi chúng ta
thấy có những hiểu lầm, sự chậm chạp trong việc hiểu những giáo huấn của
Đức Giêsu, hoặc sự hiểu lầm đôi khi trở thành những bi kịch thực sự, như đã xảy
ra với Giuda Iscariot, người đã nhầm lẫn sứ mạng của Đức Kitô với chủ
nghĩa thiên sai chính trị.
Vì vậy,
chúng ta cũng phải chấp nhận chiều kích “gian nan” này trong truyền thông. Rất
thường, những người nhìn Giáo hội
từ bên ngoài vẫn bị bối rối trước những căng thẳng khác nhau bên trong Giáo
hội. Nhưng những ai hiểu được cách
thức hoạt động của Chúa Thánh Thần thì đều nhận thức rõ rằng Chúa Thánh
Thần rất thích tạo ra sự hiệp thông giữa những đa dạng, và sự hòa hợp từ
những hỗn độn. Hiệp thông không bao giờ là
đồng nhất, mà là khả năng kết hợp các thực tại rất khác nhau. Tôi nghĩ rằng
chúng ta cần có khả năng giao tiếp ngay cả
với khó khăn này mà
không cần giả vờ để giải quyết hoặc che giấu nó. Sự bất đồng ý kiếnkhông
nhất thiết là một thái độ rạn nứt, nhưng nó có thể là một trong những thành tố của sự hiệp thông. Truyền thông
cũng phải tạo điều kiện cho sự đa dạng về quan điểm, đồng thời luôn cố gắng duy
trì sự hiệp nhất và sự thật, cũng như chống lại sự vu khống, bạo lực
bằng lời nói, chủ nghĩa cá nhân, và
chủ nghĩa chính thống cực đoan, nấp dưới chiêu bài trung thành với sự
thật, nhưng lại chỉ
gieo rắc chia rẽ và bất hòa. Nếu nhượng bộ những suy đồi này, thì truyền
thông, thay vì làm nhiều điều tốt đẹp, rốt
cuộc, lại gây ra nhiều nguy hại.
Anh chị
em thân mến, công việc của Bộ Truyền thông không chỉ đơn thuần là kỹ thuật chuyên môn. Ơn gọi của anh chị em, như
chúng ta đã thấy, chạm vào chính cách thức hiện diện của Giáo hội.
Xin cảm ơn anh chị em về những gì anh chị em thực hiện. Tôi khuyến khích anh chị em
hãy tiến về phía trước với cách
thế kiên quyết và ngôn sứ. Phục vụ Giáo hội có nghĩa là xứng đáng với sự tin
cậy và cũng can đảm mạo hiểm trên những lộ trình mới. Theo nghĩa này, hãy luôn luôn đáng tin cậy và can đảm.
Tôi ưu ái chúc lành cho anh chị em. Xin anh chị em cũng đừng quên cầu nguyện cho tôi.
PHANXICÔ
Nt.
Anna Ngọc Diệp, OP Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: