ĐTC
Thánh Hiến Bàn Thờ Mới Nhà Thờ Chính Tòa Tổng Giáo Phận Panama
Sáng thứ bẩy, 26-1, hoạt động chính của ĐTC
là chủ sự lễ thánh hiến bàn thờ mới của Nhà thờ Chính tòa và cũng là Vương cung
thánh đường Đức Mẹ Maria Antigua ở khu cổ thành Panama.
G. Trần Đức Anh OP – Vatican 26 tháng một
2019, 12:14
Thánh
đường tọa lạc cạnh Tòa TGM Panama và đã được khởi công xây cất năm 1608 tức là
cách đây 411 năm, nhưng chỉ được khánh thành 108 năm sau đó và phải đợi thêm 80
năm nữa mới được thánh hiến. Sau trận động đất năm 1882, nhà thờ được tu bổ
toàn diện nhờ sự tài trợ của công quĩ. Cách đây 5 năm, do lời thỉnh cầu của
HĐGM Panama, Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích đã nâng nhà thờ này lên làng Tiểu
Vương Cung Thánh Đường.
Ảnh Đức
Mẹ La Antigua, Đức Mẹ Cổ Kính, vốn được đặt ở nhà thờ chính tòa Sevilla ở miền
nam Tây Ban Nha, đã được những người Tây Ban Nha đưa đến Panama này vào năm
1510: Đức Mẹ đang đứng bồng Chúa Hài Nhi và trong tay có cầm một đóa hoa hồng.
Đức Mẹ La Antigua được tôn làm bổn mạng của Panama cách đây 18 năm (2001) và lễ
kính hàng năm vào ngày 9-9.
Hiện
diện trong Vương cung thánh đường, ngoài các HY, GM đồng tế, còn có các LM, tu
sĩ nam nữ và các thành viên phong trào giáo dân.
Bài
giảng
Trong
bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan kể lại
Chúa Giêsu đi đường mệt mỏi, ngài ngồi cạnh một giếng nước. Và khoảng trưa có
một phụ nữ xứ Samaria đến kín nước. Chúa nói với bà: “Xin hãy cho tôi uống” (Gv
4,6-7).
Từ câu
này, ĐTC nêu nhận xét: Chúa Giêsu đã chia sẻ sự mệt mỏi của con người, của các
môn đệ. “Trong sự mệt mỏi của Chúa, có chỗ cho bao nhiêu mệt mỏi của các dân
tộc chúng ta ngày nay, của các cộng đoàn chúng ta và của tất cả những người mệt
mỏi và bị áp bức” (Xc Mt 11,28).
Những
nguyên nhân gây mệt mỏi
ĐTC
nói: “Có nhiều nguyên nhân và động lực có thể gây ra mệt mỏi trong hành trình
của chúng ta là những linh mục, tu sĩ nam nữ, thành viên các phong trào giáo
dân: từ những giờ làm việc lâu dài, khiến chúng ta không có còn giờ cho việc ăn
uống, nghỉ ngơi và ở trong gia đình, cho tới những điều kiện “ngộ độc” khi làm
việc và trong tình cảm, đưa tới sự kiệt lực và hao mòn con tim; từ sự tận tụy
đơn giản và thường nhật cho đến gánh nặng của thói quen đều đều khiến chúng ta
không còn thấy hứng thú, không được nhìn nhận hoặc nâng đỡ để đáp ứng những nhu
cầu hằng ngày; từ những tình trạng phức tạp thông thường và có thể lường trước
được cho đến những giờ căng thẳng lo âu. Đó là những thứ gánh nặng ta phải chịu
đựng”.
“Không
thể tìm cách ôm lấy tất cả những tình trạng làm hao mòn đời sống của những
người thánh hiến, nhưng trong tất cả những tình trạng ấy, chúng ta cảm thấy cần
cấp thiết tìm được một giếng nước để giải khát và làm dịu bớt sự mệt mỏi do
hành trình. Như một tiếng kêu âm thầm, tất cả đều mong một giếng nước để từ đó
có thể tái khởi hành.
“Mệt
mỏi hy vọng” – suy giảm hy vọng
Từ tình
trạng mệt mỏi thể lý đó, ĐTC nhận xét: từ ít lâu nay có một thứ mệt mỏi tế nhị
lẻn vào các cộng đoàn của chúng ta, đó là một sự cám dỗ mà chúng ta có thể gọi
là “mệt mỏi hy vọng”, suy giảm hy vọng. Thứ mệt mỏi này nảy sinh khi những tia
nắng gắt của mặt trời làm cho giờ trưa không thể chịu nổi và ở cường độ khiến
ta không thể tiến bước hoặc nhìn về đằng trước. Như thể tất cả trở nên mờ nhạt.
Theo
ĐTC, đó là một sự mệt mỏi làm tê liệt. Nó nảy sinh từ cái nhìn hướng về đằng
trước nhưng không biết phản ứng thế nào trước cường độ và sự bấp bênh của những
thay đổi mà chúng ta, trong tư cách là xã hội, đang trải qua. Những thay đổi ấy
dường như không những đang đặt lại vấn đề cho những cách thức diễn tả và dấn thân
của chúng ta, những thói quen và thái độ của chúng ta đứng trước thực tại,
nhưng trong nhiều trường hợp, chúng còn làm cho chúng ta ngờ vực không biết có
thể tiếp tục đời tu trì ngày nay hay không.
Sự suy
giảm, mệt mỏi trong hy vọng nảy sinh từ nhận thấy một Giáo Hội bị thương tổn vì
tội lỗi của mình và nhiều khi không biết lắng nghe tiếng kêu trong đó có tiềm
ẩn tiếng kêu của Thầy Chí Thánh: “Lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa bỏ con?” (Mt
27,46)
Và thế
là chúng ta quen sống với một niềm hy vọng mệt mỏi đứng trước một tương lai bất
định và mù mịt.. Tình trạng này khiến cho chúng ta thấy tất cả dường như tiến
hành bình thường, nhưng trong thực tế, đức tin bị hao mòn và tiêu tán. Không
còn tin tưởng đối với một thực tại mà chúng ta không hiểu hoặc trong đó chúng
ta nghĩ là không còn chỗ cho đề nghị của chúng ta, chúng ta có thể nhường chỗ
cho một trong những lạc giáo tệ hại nhất trong thời đại chúng ta khi nghĩ rằng
Chúa và các cộng đoàn của chúng ta chẳng còn gì để nói trong thế giới mới đang
hình thành hiện nay” (EV 83). Và khi ấy điều mà đã được sinh ra để làm mối đất
và ánh sáng thế gian, rốt cục nó chỉ để cống hiến quan niệm riêng của mình, còn
tệ hại hơn.
Giếng
nước dồi dào của mối tình đầu với Chúa Giêsu
“Xin
hãy cho tôi uống”! Khi nói lên câu này, chúng ta bộc lộ sự mỏi mệt hy vọng của
chúng ta để trở về giếng nước dồi dào của mối tình đầu, khi Chúa Giêsu đi qua
con đường của chúng ta, nhìn chúng ta với lòng thương xót và gọi chúng ta theo
Ngài; khi nói lên câu đó, chúng ta nhớ lại thời điểm trong đôi mắt của Chúa gặp
đôi mắt chúng ta, lúc mà Chúa làm cho chúng ta cảm thấy Ngài yêu thương ta,
không phải như cá nhân, nhưng cả như cộng đoàn nữa. Đó là trở về những bước
đường của chúng ta, trong tinh thần sáng tạo, lắng nghe thấy Chúa Thánh Linh
không kiến tạo một công trình đặc thù, một kế hoạch mục vụ hoặc một cơ cấu tổ
chức cần thiết, nhưng là, qua bao nhiêu vị thánh ở cửa bên cạnh, trong đó có
các vị sáng lập dòng chúng ta, có các GM và các cha sở, đã biết mang lại những
nền tảng vững chắc cho các cộng đoàn - đã mang lại sức sống và dưỡng khí trong
mỗi bối cảnh lịch sử dường như đang bót nghẹt và đè bặp mọi hy vọng và phẩm
giá”.
“Xin
hãy cho tôi uống!” – can đảm để cho mình được thanh tẩy
“Xin
hãy cho tôi uống” có nghĩa là có can đảm để cho mình được thanh tẩy và phục hồi
phần chân thực nhất trong các đoàn sủng nguyên thủy của chúng ta - không phải
chỉ giới hạn vào đời sống tu trì,m nhưng cho toàn thể Giáo Hội - và xem những
đoàn sủng ấy có thể diễn tả thế nào ngày nay.
“Xin
hãy cho tôi uống!” – cần Chúa Thánh Linh
“Xin
hãy cho tôi uống” có nghĩa là nhìn nhận mình cần Chúa Thánh Linh biến đổi chúng
ta thành những người nam nữ nhớ lại một sự đi qua cứu độ của Thiên Chúa, và tín
thác rằng, như Chúa đã làm trong quá khứ, Ngài sẽ tiếp tục làm trong tương lai:
“Đi đến tận gốc rễ giúp chúng ta sống hiện tại một cách thích hợp, không sợ
hãi. Cần sống mà không sợ hãi, đáp lại cuộc sống với niềm hăng say dấn thân với
lịch sử, dấn thân vào thực tại. Đó là một sự say mê như người đang yêu” (Papa
Francesco - Fernando Prad, La forza della vocazione, ibid. 44)
Đừng
đánh mất vẻ đẹp của truyền thống
Trong
phần cuối của bài giảng, ĐTC nhắc đến sự kiện Nhà Thờ chính tòa La Antigua này
được mở lại sau một thời gian dài trùng tu. Trước đây là nhà thờ chính tòa Tây
Ban Nha, rồi của thổ dân, người Mỹ châu gốc Phi châu và nay trở thành nhà thờ
chính tòa Panama. Thánh đường này không phải chỉ thuộc về quá khứ, nhưng là vẻ
đẹp của hiện tại.
Và ĐTC
kết luận rằng; “Anh chị em thân mến, chúng ta đừng để mình bị lấy mất vẻ đẹp mà
chúng ta đã thừa hưởng từ cha ông chúng ta! Ước gì vẻ đẹp này là cội rễ sống
động và phong phú giúp chúng ta tiếp tục làm cho lịch sử cứu độ được tươi đẹp
và có đặc tính ngôn sứ tại phần đất này”.
Nghi
thức thánh hiến
Sau bài
giảng, ĐTC đã chủ sự nghi thức thánh hiến và xức dầu bàn thờ tượng trưng Chúa
Kitô.
Bàn thờ
làm bằng đá cẩm thạch Carrara màu trắng mua từ Italia, phía trước có tạc hình
chim bồ nông với các con nhỏ: chim này tượng trưng Chúa Kitô, vì khi không tìm
được mồi để nuôi con, chim đã nuôi các con bằng chính máu mình. Ngoài ra bàn
thờ cũng được trang trí bằng nhiều thứ đá từ các nước.
Bàn thờ
không được trải khăn nào và ĐTC đã xức dầu hương thảo (olio crisma) trên đó để
thánh hiến, rồi xông hương, trước khi đọc lời nguyện. Tiếp đến bàn thờ được
trải khăn lên và đặt các cây nến sáng trên đó. ĐTC là vị đầu tiên tôn kính bàn
thờ này trước khi cử hành thánh lễ, trước sự hiện diện của thánh tích của 3 vị
thánh Mỹ châu la tinh và một vị người Ba Lan: thánh nữ Rosa de Lima, thánh Oscar
Arnulfo Romero, thánh Martino de Porrès và thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng.
Thánh
lễ kết thúc lúc 11 giờ rưỡi trưa và ĐTC lên xe tiến về đại chủng viện thánh
Giuse, cách đó 15 cây số.