HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA ( Phần I )


Dù Công đồng Vatican II đã bế mạc hơn 40 năm, Hiến chế Tin lý vế Mạc Khải Lời Thiên Chúa vẫn là bản văn quan trọng đã được Huấn quyền ban hành nhằm hướng dẫn việc học hỏi Kinh Thánh. Bản văn đã được Giáo Hoàng Học Viện Piô X dịch và xuất bản năm 1972. Sau năm 1975, một nhóm linh mục đã duyệt lại Bản dịch ấy. Vào năm 2005, Ủy Ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt-nam đã ra bản dịch chính thức sau đây. Riêng Lời giới thiệu và các chú thích nhằm minh họa bản văn, chúng tôi xin lấy từ Bản dịch GHHV Piô X.



KHOÁ VIII
ngày 18 tháng 11 năm 1965

HIẾN CHẾ TÍN LÝ
VỀ MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
Dei Verbum

Lời giới thiệu

I.                   Lịch sử bản văn

    Hiến chế này là một trong những văn kiện quan trọng nhất của Công đồng Vatican II về phương diện giáo thuyết cũng như về thái độ khác biệt giữa các Nghị Phụ: thật vậy, chính trong khi bàn cãi về lược đồ này, các Nghị Phụ đã nhận thức về sự phân chia khuynh hướng thần học giữa các ngài. Lược đồ về Mạc khải nằm ở ngoài quyển sách đã được Uỷ ban Trung ương xuất bản năm 1962 [1]. Và như vậy người ta tưởng sẽ được bàn cãi trước tiên. Nhưng Đức Gioan XXIII nhận thấy đã có những bất đồng ý kiến trong bản văn “về Mạc khải”, nên ngài không muốn khởi đầu Công đồng với bản văn gai góc này, và đã quyết định bàn cãi về Phụng vụ trước tiên vì các nghị phụ dễ đồng ý về vấn đề này hơn.

    Bản văn trình bày trong sách trên thật ra là bản văn thứ năm mà Uỷ ban và các Nghị Phụ đã soạn thảo. Ngày 12-7-1962, Đức Gioan XXIII truyền lệnh gửi cho các Nghị Phụ bàn cãi loạt Lược đồ lần thứ nhất. Trong số đó có Lược đồ Hiến chế Tín lý về các nguồn Mạc khải. Lược đồ này sẽ được bàn cãi từ ngày 14 đến 21 tháng 11 năm 1962. Chính trong các cuộc bàn cãi này mà Công đồng Vatican II đã tự chia ra phe “đa số” và “thiểu số” theo luồng tư tưởng và theo lối diễn tả thần học của các Nghị Phụ. Từ đó các khuynh hướng khác biệt này chi phối tất cả các công việc của Công đồng.

    Trong diễn văn khai mạc ngày 11-10, Đức Giáo hoàng đã nói: “Bản chất của giáo thuyết cổ truyền chứa trong kho tàng đức tin là một chuyện, còn việc định thức bản chất lại là chuyện khác, vì việc định thức căn cứ trên những hình thức và sự tương xứng với những nhu cầu giáo huấn, nhất là về mục vụ”. Sự phân biệt giữa “bản chất” và “định thức” sẽ giữ một vai trò quan trọng trong cuộc bàn cãi lược đồ này. Lược đồ đã được các Đức Hồng Y Ottaviani, Ruffini, Siri, v.v... bênh vực và bị các Đức Hồng Y Liénart, Frings... kết án, còn các Đức Hồng Y Bea, Léger, Tisserant... thì chỉ trích. Người ta cho rằng cách nói quá kinh viện, lối hành văn phản mục vụ, phản kinh thánh và phản hiêp nhất. Chủ tịch đoàn Công đồng quyết định bỏ thăm bản văn (20-11-1962) và bản văn bị loại bỏ với 1.368 phiếu chống, 822 phiếu thuận và 18 phiếu bất hợp lệ. Buổi họp trải qua vài giờ lộn xộn vì chưa đủ đa số 2/3 để loại bỏ một lược đồ (cần phải 1.473 phiếu mới đủ 2/3). Nhưng có nên chấp nhận một lược đồ bị một đa số như trên loại bỏ không? Khi ấy Đức Giáo hoàng XXIII đích thân can thiệp: ngài quyết định trao trả lược đồ cho một Uỷ ban hỗn hợp do ngài chỉ định gồm 7 Hồng Y với các thành phẩn của Uỷ ban Thần học và của Văn phòng Hiệp nhất Kitô giáo.

    Uỷ ban này khởi công bằng việc đồng ý về nhiểu điểm quan trọng như bỏ tựa đề “về hai nguồn...” (vì nó sẽ gây ra nhiều hiểu lầm), và đặt tựa đề cho chương I: “Về Lời Chúa được mạc khải...” (như thế nó tổng quát và dễ dàng chấp nhận hơn). Tuy nhiên vẫn còn những bất đồng, nhất là về tương quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền. Lược đồ được hoàn thành vào tháng 3-1963 và được gửi cho các Nghị Phụ vào tháng 5. Bản văn sẽ không được bàn cãi trong kỳ họp thứ hai, nhưng vẫn không thiếu những phê bình được gửi tới. Thật vậy, các vị soạn thảo muốn “cố ý tránh vấn đề hai nguồn Mạc khải mà không xác nhận hay chối bỏ rằng Thánh Truyền chứa những gì mà Thánh Kinh không có” (Relatio..., tr. 5). Điều đó làm cho bản văn trở nên lạt lẽo, thiếu màu sắc và hàm hồ... Mạc khải được hiểu như là “nội dung” của Mạc khải hơn là hành động Chúa mạc khải. Thánh Truyền duy nhất bị lẫn lộn với các truyền thống, điều này gây nhiều hiểu lầm v.v...

    Đến ngày 31-1-1964, các nghị phụ hết hạn gửi các nhận xét. Như thế người ta có thể lợi dụng được các ý kiến trong những cuộc bàn cãi đang diễn ra “về Lược đồ Giáo Hội” vì Mạc khải và Giáo Hội không thể tách rời nhau. Những lời than phiền của các Nghị Phụ hầu như chỉ quy về hai điểm: các bản văn chưa đánh giá đầy đủ tầm quan trọng của Mạc khải và của Thánh Truyền, cũng như chưa được cân nhắc đầy đủ. Ngày 7 tháng 3, người ta thành lập một tiểu ban phụ trách tu chỉnh bản văn đưới sự chủ toạ của Đức giám mục Charue với sự cộng tác của nhiều chuyên viên. Uỷ ban này chia làm hai nhóm: nhóm thứ nhất phụ trách chương I và II (chủ tịch: Đức giám mục Florit và các chuyên viên Congar, Rahner, Moeller, Ramirez, v.v...) và nhóm thứ hai phụ trách từ chương III đến VI (chủ tịch là Đức giám mục Charue và các chuyên viên: Cerfaux, Grillmeier, Rigaux, Turrado, Semmonelroth, v.v...). Từ 20 đến 24 tháng 4 năm 1964, các ngài bổ túc bản văn mới và đưa ra bản tối hậu. Sau đó bản văn được trình lên Văn phòng Hiệp nhất để xem có phải sửa đổi gì không. Ngày 30-6-1964, Văn phòng trả lời chấp thuận; Đức Hồng Y Bea xét rằng không cần phải hợp hai cơ quan để tu chỉnh. Sau đó, Uỷ ban Giáo thuyết cứu xét bản văn (từ ngày 3 đến 5 tháng 6). Chương II tạm được chấp nhận (17 phiếu thuận và 7 chống) vì 7 nghị phụ đòi phải nói: Thánh Truyền khách quan rộng hơn Thánh Kinh (x. Relatio... tr. 6).

    Cuộc bàn cãi bản văn bắt đầu ngày 30-9 tại đền Thánh Phêrô. Có hai bản phúc trình: một của nhóm đa số trong Uỷ ban (Đức giám mục Florit đọc), và một của nhóm thiều số (Đức giám mục Franic trình bày). Vấn nạn quan trọng nhất do nhóm thiểu số đưa ra là ý tưởng về “Thánh Truyền cấu thành” (Traditio constitutiva). Đó là giảng thuyết và đức tin của toàn thể Giáo Hội tông đồ, dưới sự tác động của Thánh Thần mạc khải, chứa đựng những chân lý thật ra không có trong Thánh Kinh. Đó là trường hợp các tín điều về Đức Mẹ (Đức giám mục Beras). Ngoài ra nếu hạ giá Thánh Truyền, như Lược đồ đã làm, người ta sẽ rơi vào một thứ Tân Thời Thuyết. Tuy thế, đa số chấp nhận và khen ngợi ý tưởng của bản văn. Dầu vậy, những phê bình của nhóm thiểu số cũng rất hữu ích vì nó xác định rõ ràng nhiều ý niệm.


    Theo Uỷ ban, kết quả cuộc can thiệp của các nghị phụ như sau:
    1) Điểm tích cực:
        a. Ngôn ngữ rõ ràng, cẩn thận và có tính cách trình bày.
        b. Cơ cấu bản văn được sắp đặt kỹ lưỡng và cân đối.
        c. Giáo thuyết chắc chắn phát xuất từ Cổ Truyền và Thánh Kinh.
        d. Quan niệm Mạc khải quy về Chúa Kitô và con người cũng như cách thức trình bày tương quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền.

    2) Điểm tiêu cực:
        a. Cách hành văn phức tạp và đôi khi tối nghĩa.
        b. Im lặng trước những sai lạc và lạm dụng hiện có.
        c. Trình bày khiếm khuyết về Cựu Ước.
        d. Thiếu chiều hướng Giáo Hội trong Mạc khải.
        e. Phải trình bày vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Huấn quyền Giáo Hội.

    Các tiểu ban bắt tay làm việc để tổng hợp đề nghị của các Nghị Phụ. Nhờ đó một bản văn thứ tư được thành hình và đã được gửi tới cho các Nghị Phụ trong phiên họp khoáng đại cuối cùng của kỳ họp thứ ba (20-11-1964). Có thể tóm tắt các thay đổi chính như sau:

        a. Nhấn mạnh đến truyền thống “phát nguyên từ các tông đồ” thay vì Thánh Truyền “sống” (có thể chỉ phát xuất từ đời sống Giáo Hội).
        b. Vấn đề phát triển tín lý, bản văn trước nói rằng kinh nghiệm của các tín hữu là một yếu tố phát triển, nhưng bản văn mới nhắc thêm đến lý trí (số 8b) để tránh chủ quan thuyết hiện tượng luận.
        c. Nhắc đến việc nhờ Thánh Thần mà Giáo Hội biết được bản chính lục Thánh Kinh (số 8c).
        d. Phân biệt rõ ràng hơn nội dung của Thánh Truyền thời các tông đồ và thời hậu tông đồ (số 9).
        e. Xác định vai trò của Huấn quyền bằng cách bãi bỏ danh từ uy quyền “tối thượng” và không nhắc đến ơn bất khả ngộ, và hơn nữa còn nói rằng quyền giáo huấn phải “thành kính lắng nghe” Lời Chúa (số 10). Trong kỳ họp thứ ba, các Nghị Phụ không bỏ phiếu bản văn này, nên các ngài có thể viết các nhận xét gửi về Uỷ ban.

    Sau cùng, ngày 21 và 22 tháng 9-1965, các Nghị Phụ đã bỏ phiếu Lược đồ này. Các chương đều được chấp thuận với vài sửa đổi. Uỷ ban phụ trách kết nạp các đề nghị tu chỉnh, cố gắng dung hoà ý kiến mọi người bằng cách sửa đổi từng tiểu tiết của bản văn. Chính Đức Giáo hoàng cũng đã đề nghị một vài thay đổi. Sau khi Uỷ ban Giáo thuyết xem xét, bản văn được phát cho các nghị phụ ngày 25-10-1965 và bỏ phiếu ngày 29. Ở vòng bỏ phiếu chót, trong số 2.115 nghị phụ bỏ phiếu, có 2.081 phiếu thuận, 27 phiếu chống và 7 phiếu bất hợp lệ. Ngày 18-11 là ngày công bố với 2.344 phiếu thuận và 6 phiếu chống.

II. Cơ cấu hiến chế

    Những nét chính của bản sơ thảo đầu tiên được giữ lại đến cùng: một phần nói về Mạc khải tổng quát, một phần dành cho Thánh Kinh. Lược đồ thứ nhất được chia như sau: chương I: Hai nguồn Mạc khải; chương II: Linh hứng; bất ngộ và cấu tạo văn chương của Thánh Kinh; chương III: Cựu Ước; chương IV: Tân Ước; chương V: Thánh Kinh trong Giáo Hội.

    Như trong Lược đồ thứ nhất, Lược đồ thứ hai giữ lại chương I như một lời mở đầu giới thiệu Thánh Kinh; các chương khác cũng chứa đựng chất liệu tương tự như Lược đồ thứ nhất. Chính trong lần soạn thảo thứ ba mà giáo thuyết về Mạc khải chiếm vai trò ưu thắng. Như vậy, phần thứ nhất của bản văn trở thành quan trọng nhất, vì chứa đựng giáo thuyết “chi phối” mọi việc khai triển khác. Nội dung của lược đồ thứ ba là: chương I: Về chính Mạc khải; chương II: Sự lưu truyền Mạc khải; chương III: Linh hứng của Thiên Chúa và việc chú giải Thánh Kinh; chương IV: Cựu Ước; chương V: Tân Ước; chương VI: Thánh Kinh trong đời sống Giáo Hội.

    Như thế, chúng ta có một bản văn chia làm hai phần lớn, được soạn thảo dưới sự hướng dẫn của hai tiểu ban. Phần nhất bàn về Mạc khải tổng quát, gồm hai chương: chương I bàn về diễn tiến Mạc khải mà Thiên Chúa đã tự biểu lộ cho con người và phó mình cho họ, đến mức độ trọn vẹn trong Chúa Kitô; chương II trình bày tính cách liên tục trong việc Thiên Chúa tự biểu lộ và phó mình cách trọn vẹn trong Giáo Hội bằng tất cả những gì tạo thành đời sống Giáo Hội, qua tiến trình lịch sử.

    Phần hai bàn về Thánh Kinh, một hình thức đặc biệt của sự biểu lộ và phó mình của Thiên Chúa: Chương III trình bày những khía cạnh tổng quát của Thánh Kinh: đó là một tác phẩm của Thiên Chúa, Đấng hạ mình đến với chúng ta, nhưng cũng là một tác phẩm của con người; chương IV bàn về giá trị của Cựu Ước; chương V bàn về Tân Ước; sau cùng chương VI trình bày ý nghĩa của Thánh Kinh đối với Giáo Hội mọi thời đại và mọi hoàn cảnh.

III. Tầm quan trọng

    Hiến chế Mạc khải đã không giải quyết mọi vấn đề, đã không có thái độ rõ ràng về nhiều vấn đề, và không làm thoả mãn mỗi người. Hiến chế không thể làm điều đó. Dầu vậy Hiến chế cũng nói lên một bước tiến rất tích cực trong công cuộc tìm hiểu Mạc khải cũng sẽ có một tầm ảnh hưởng lớn lao trong nền Thần học Công giáo và cuộc đối thoại hiệp nhất.

    Công đồng tiến hành công việc trong nỗ lực hoà giải. Hiến chế Mạc khải đã phải tổng hợp nhãn quan của nhiều trường phái không luôn luôn phù hợp nhau, và phải tóm lược các ý tưởng (dù làm như vậy có vẻ đơn giản hóa vấn đề). Bản văn phải được nghiên cứu cẩn thận chứ không chỉ đọc thoáng qua. Tuy nhiên, không được vì thế mà lãng quên tâm điểm của toàn thể giáo thuyết, tâm điểm đó chính là tác động cứu độ của Thiên Chúa đang diễn tiến trên thế gian và trong lịch sử nhờ Lời của Ngài là Chúa Kitô.

    Cũng nên chú ý là bản văn sau cùng đã được đại đa số trong Công đồng chấp thuận, như thế bản văn nói lên đức tin của Giáo Hội về vấn đề này. Dầu không đồng tâm về những chi tiết, nhưng phần giáo thuyết căn bản thì không ai có thể bàn cãi được nữa.

    Người ta có thể lấy làm tiếc là Thánh Truyền và Huấn quyền lại đứng bên cạnh Thánh Kinh. Nhưng như thế là vì đã có thành kiến luôn đối chiếu ba thực thể trên. Trong khi đó Công đồng đã quan niệm và thành công trong việc dung hoà: cả ba đều mang Lời Chúa, tuy mỗi thực thể theo một cách thức riêng và với một tước vị riêng.

    Bản văn này phải thúc đẩy các nhà thông thái nghiên cứu Thánh Kinh và giúp tín hữu say mê Thánh Kinh. Theo đường hướng cởi mở của Thông điệp Divino afflante Spiritu, Hiến chế về Mạc khải mở những chân trời mới cho công việc chú giải. Người ta được tự do nghiên cứu để khai thác các “văn loại” và các khám phá mà lịch sử và khoa học đem lại, mà không sợ những cấm đoán đè nặng từ bên ngoài như trường hợp các đồng nghiệp của họ thời trước. Nhưng cùng một lúc Hiến chế cũng xác định những điều ta không thể chối bỏ mà không triệt tiêu Mạc khải. Do đó, không được nghi ngờ lịch sử tính của các Phúc Âm và nguồn gốc tông đồ của các sách đó. Công đồng đã không kết án phương pháp văn hình sử (Formgeschichte) nhưng đã nêu ra những giới hạn của phương pháp ấy; không phải tất cả những ý tưởng “giải huyền thoại” của R. Bultmann là sai nhưng phải cẩn thận để khỏi rơi vào thuyết duy tín mà phương pháp này đưa đến. Còn về tầm quan trọng thực tế của những lời khuyên mục vụ ở chương VI thì chỉ có tương lai mới có thể trả lời chúng ta.

    Việc xác định chân lý Thánh Kinh ở số 11 là một điều rất quan trọng. Người ta không thể tìm thấy trong Thánh Kinh bất cứ loại chân lý nào (khoa học, lịch sử, địa lý, dân chủng học, v.v...) nhưng chỉ có thứ chân lý cứu thoát chúng ta, và ta cũng nên lưu ý Công đồng không nói những chân lý nhưng nói chân lý ở số ít: chân lý ấy đồng thời cũng là sự sống, là đường dẫn đến sự cứu độ. Điều đó muốn nói rằng chân lý của chúng ta không phải chỉ là một điều ta biết suông, nhưng là một bổn phận phải thực hành: “thực hành chân lý” (x. Ep 4,15) và phải tiến tới trong chân lý: “đi trong chân lý”. Công đồng muốn giải phóng thần học khỏi quan niệm Hy-lạp về chân lý quá tĩnh để trở về với ý niệm Do-thái linh động hơn, hiện sinh hơn, cởi mở hơn đối với mầu nhiệm Thiên Chúa.

    Một số người công kích, số khác lại ca tụng về tầm quan trọng hiệp nhất của Hiến chế về Mạc khải. Người ta đã chỉ trích sự hàm hồ về mối tương quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền. Nhưng có người lại thấy ở đó một cánh cửa đưa đến đối thoại, nhất là vào thời đại các Giáo Hội phát sinh sau khi Phong trào Cải cách đặt lại vấn đề Thánh Truyền. Việc tự do tìm hiểu đã chiếm được một địa vị, nhờ đó sự cộng tác giữa các nhà chú giải Công giáo và Tin lành càng dễ dàng và đáng khích lệ hơn. Ngoài ra, việc khuyến khích đọc Thánh Kinh đã tạo nên một nền tảng vững chắc đưa các ki-tô hữu xích lại gần nhau hơn, vì họ cùng lắng nghe một Lời Chúa. Dù bản chính lục Thánh Kinh vẫn còn đôi chút khác biệt, nhưng sự kiện này không có tầm quan trọng thực tiễn nào.

PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ

 

HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẠC KHẢI THIÊN CHÚA 1*

1. Lời mở đầu

    Khi thành kính lắng nghe và dạn dĩ công bố LờiThiên Chúa 2*, Thánh Công đồng làm theo lời thánh Gioan: “Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người” (1 Ga 1,2-3). Bởi thế, noi gương Công đồng Triđentinô và Vatican I, Công đồng này muốn trình bày giáo lý chân thật về mạc khải của Thiên Chúa và về lưu truyền mạc khải ấy, để nhờ việc rao giảng ơn cứu độ, toàn thể thế giới nhờ nghe mà tin, nhờ tin mà trông cậy, nhờ trông cậy mà yêu mến  [2]. 3*
---------------

1*– Lược đồ thứ nhất mang tựa đề “Lược đồ Hiến chế Tín lý về các nguồn Mạc khải”. Trong lần soạn thảo thứ hai, lược đồ mang tên “Lược đồ Hiến chế Tín lý về Mạc khải của Thiên Chúa”. Nhưng vì bản văn nói về Mạc khải rất ít nên có người đề nghị tựa đề “Về Thiên Chúa Đấng tự mạc khải”, hoặc “Về Thánh Kinh”. Trong lần soạn thảo thứ ba, tĩnh từ “tín lý” bị loại bỏ, nhưng lại xuất hiện trong bản văn cuối cùng.

2*– Nguyên văn viết tất cả hai chữ bằng chữ hoa, nên ta không biết nó biết nó chỉ Ngôi Lời  của Thiên Chúa hay Lời của Chúa, tức là Phúc Âm

3*– Ở đây Công đồng trình bày: mục đích của mạc khải là cứu độ con người chứ không phải để thoả mãn óc tìm tòi của trí khôn chúng ta. Quyền giáo huấn không phải là chủ của Lời Chúa nhưng là tôi tớ “lắng nghe” Và nâng theo (số 10); do đó, quyền giáo huấn phải làm chứng những gì đã được trao phó. Việc  trích dẫn 1 Ga 1,2-3 trình bày nội dung mạc khải (đời sống vĩnh cửu) như sự hiệp thông giữa con người và Ba Ngôi Thiên Chúa; nội dung đó được gửi đến cho mọi người nhờ các chứng tá. Những điều trên đương nhiên đòi hỏi một hoạt động truyền giáo: việc “công bố ơn cứu độ” (x. Cv 13,26; Ep 1,13).

 

CHƯƠNG I

 

VỀ CHÍNH VIỆC MẠC KHẢI 4*

2. Bản chất và đối tượng của Mạc khải

    Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho biết mầu nhiệm của ý muốn Ngài (x. Ep 1,9); nhờ mầu nhiệm đó, loài người  có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Vây qua việc mạc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), do tình thương chan hòa của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và liên lạc với họ (x. Br 3,38) để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài. Nhiệm cục mạc khải này được thực hiện bằng các việc làm và lời nói có liên hệ mật thiết với nhau, theo nghĩa là các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu độ biểu lộ và củng cố cả giáo huấn lẫn những thực tại được diễn tả bởi các lời; còn các lời thì công bố các việc làm và làm sáng tỏ mầu nhiệm được chứa đựng trong  đó 5*. Nhưng nhờ mạc khải này, sự thật thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về công cuộc cứu độ con người nên chiếu sáng cho chúng ta trong Chúa Kitô, Đấng vừa là Trung gian vừa là sự viên mãn của toàn thể mạc khải   [3]. 6*

-------------

4*– Chương này xuất hiện ở trong lược đồ thứ ba. Trong các lược đồ trước, lời mở đầu chỉ bàn sơ qua về vài khía cạnh như “sự cần thiết và đối tượng của mạc khải” (số 1), “Mạc khải tiệm tiến” (số 2) v.v... Nhưng nhiều Nghị Phụ đòi bàn về chính việc Mạc khải, vì Mạc khải chứa đựng không những các chân lý về Thiên Chúa mà cả sự kiện Thiên Chúa tự mạc khải. Trong chương này, Công đồng đã muốn trình bày Mạc khải dưới cái nhìn của con người để thích ứng hơn với những đòi hỏi của con người thời nay. Phải xem xét trọn giáo thuyết này dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa phó mình cho con người ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Bố cục của chương này như sau: số 2: sự kiện Chúa phó mình và từ đó tự mạc khải; số 3 và 4: các giai đoạn Mạc khải và sự hoàn thành trong Chúa Kitô; số 5: thái độ ở con người để tiếp nhận mạc khải; số 6 các chân lý Mạc khải.

5*– Nền thần học Công giáo đã thường coi Mạc khải như một lời nói; còn các hoạt động của  Thiên Chúa bị liệt vào hàng rất phụ thuộc. Công đồng lại muốn trình bày là Thiên Chúa tự mạc khải trước tiên bằng “hành động” (gesta) (không bằng việc làm (facta) vì việc làm có vẻ một tác động vật chất hơn). Ở đây, chữ “hoạt động” còn có nghĩa là những biến cố do một người gây nên; trong trường hợp này, người ấy chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa tự mạc khải bằng cách hoạt động phù trợ dân Ngài, thăm viếng bạn hữu (Abraham, Môsê) và bằng các phép lạ (ví dụ Chúa Kitô) v.v...

    Trước đó, số 2 này mang tựa đề: “Sự cần thiết của Mạc khải”, sau đổi thành “Bản tính và đối tượng”. Chúng ta thấy Mạc khải phát xuất không do “sự khôn ngoan và lòng nhân lành của Thiên Chúa” như Vatican I đã nói (Dz 1785/3004) nhưng do “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan”. Đối tượng là chính Thiên Chúa và Nhiệm cuộc cứu rỗi của Ngài. Ở đây Công đồng dùng tiếng “bí tích” để nói lên dấu chỉ và phương tiện, lời nói và hành động (x. GH I). Mạc khải là ơn hoàn toàn nhưng-không của tình yêu Thiên Chúa, tỏ bày cho các “bạn hữu” như trong một cuộc đối thoại, nghĩa là không những nói mà còn sống chung nữa.

6*– Câu này không thấy trong những lần soạn thảo trước, sau được thêm vào do đề nghị của nhiều Nghị Phụ. Vấn đề quan trọng là phải xem Chúa Kitô là trung gian duy nhất của Mạc khải vì Người là Lời mà Chúa Cha nói với chúng ta, và là sự viên mãn vì trong Người, Chúa Cha nói với chúng ta tất cả mọi sự. Vì vậy Mạc khải có Kitô tính.

3. Chuẩn bị Mạc khải Phúc Âm 7*

    Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi Lời (x. Ga 1,3), không ngừng làm chứng cho loài người về chính mình nơi các thọ tạo (x. Rm 1,19-20) 8*; hơn nữa, vì muốn mở ra con đường cứu độ cao vời, ngay từ khởi thủy, Ngài đã tỏ mình ra cho nguyên tổ biết. Sau khi tổ tông sa ngã, bằng việc hứa ban ơn cứu chuộc, Ngài đã nâng họ dậy hướng tới niềm hy vọng cứu độ (x. St 3,15). Ngài đã không ngừng săn sóc nhân loại, để ban sự sống đời đời cho tất cả những ai tìm kiếm ơn cứu độ bằng cách kiên tâm làm việc lành (x. Rm 2,6-7) 9*. Khi đến thời gian đã định, Ngài đã gọi Abraham để làm cho ông thành một dân lớn (x. St 12,2-3), một dân tộc mà sau thời các Tổ phụ, Ngài đã dùng Môsê và các ngôn sứ mà dạy dỗ, để họ nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng, là Thẩm phán chí công, và để họ trông đợi Đấng Cứu Thế Ngài đã hứa ban. Như thế, qua các thời đại, Ngài đã dọn đường 10* cho Phúc Âm.

------------------

7*– Đề mục tổng quát của đoạn này là sự trông chờ Mạc khải của Chúa Kitô. Mạc khải này thể hiện từng giai đoạn, ta có thể gọi là Mạc khải qua vũ trụ, Mạc khải sơ khai và Mạc khải trong lịch sử.

8*– Bản văn xác nhận sự kiện “Mạc khải qua vũ trụ” hay qua “thọ tạo” theo Thư gửi tín hữu Rôma 1,19-20. Nhưng bản văn phúc trình không muốn giải quyết vấn nạn là trong thực tế Thiên Chúa có ban ơn để người ta có thể nhận biết Chúa qua thọ tạo hay không (Relatio đính kèm lược đồ III, 1964, tr. 11, 3 A). Thiên Chúa mạc khải khi tạo dựng; nhưng nên chú ý là bản văn nói “Chúa tạo dựng” chứ không nói “Chúa đã tạo dựng” để chỉ rõ là tất cả tạo vật luôn luôn tùy thuộc vào Đấng Tạo Hoá, dầu cả trong giả thuyết tiến hoá. Mọi người đều có thể thấy nơi thọ tạo bằng chứng sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chính đây là nền móng cho thần học của các tôn giáo ngoài Kitô giáo.

9*– “Mạc khải sơ khai” được trình bày trong tầm mức siêu nhiên. Bản văn loại bỏ vấn đề độc tổ thuyết hay đa tổ thuyết, mà chỉ muốn nói là Thiên Chúa đã tỏ mình cho con người (không nói bằng cách nào), cũng như chỉ muốn nói là Thiên Chúa đã luôn luôn cứu thoát con người, và tình trạng này vẫn có giá trị ngay cả bây giờ (xem GH 16).

10*– “Mạc khải trong lịch sử” bắt đầu với Abraham. Công đồng đã muốn nêu lên mối liên lạc giữa việc tuyển chọn và Mạc khải. Thiên Chúa được gọi là “Cha”, nhưng các chữ “của mọi người” lại bị loại bỏ vì trong Cựu Ước phổ quát tính chưa rõ ràng lắm. Cựu Ước được coi như là sự “chuẩn bị” cho Phúc Âm để nói lên ý tưởng Mạc khải trong Cựu Ước còn bất toàn và có liên quan đến Mạc khải của Chúa Kitô.

4. Chúa Kitô hoàn tất mạc khải 11*

    Sau khi phán dạy nhiều lần nhiều cách qua các ngôn sứ, “vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (x. Dt 1,1-2) 12*. Thật vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Ga 1,1-18). Bởi vậy, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời thành xác phàm, “con người đã được sai đến với những con người”  [4], “đã nói lời của Thiên Chúa” (Ga 3,34) và hoàn thành công trình cứu độ Chúa Cha đã giao phó cho Người thực hiện (x. Ga 5,36; 17,4). Vì thế, chính Người, Đấng mà ai thấy là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9), bằng toàn thể sự hiện diện và tỏ mình ra bằng lời nói và việc làm, bằng các dấu chỉ và phép lạ, nhất là bằng cái chết và sự sống lại vinh quang từ trong kẻ chết, sau cùng bằng việc cử Thánh Thần chân lý đến, Người đã bổ túc và hoàn tất mạc khải và xác nhận mạc khải bằng một chứng cứ thần linh là Thiên Chúa ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi cho chúng ta sống lại để được sống đời đời.

    Vậy nhiệm cục Kitô giáo sẽ không bao giờ mai một, vì là giao ước mới và vĩnh viễn. Chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công khai mới nào khác nữa trước ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta tỏ mình ra trong vinh quang (x. 1 Tm 6,14; Tt 2,13). 13*

------------------------

11* – Số này đáp ứng số 2: Mạc khải được thể hiện bằng hành động và ngôn từ. Chúa Kitô vừa là biến cố vừa là Lời của Thiên Chúa. Có hai đoạn: đoạn thứ nhất cắt nghĩa tại sao Chúa Kitô đem lại cho chúng ta Mạc khải viên mãn; đoạn hai nói Mạc khải này là tối hậu và sẽ không còn mạc khải nào khác nữa.

12*– Công đồng đánh dấu sự liên tục và tương phản giữa Mạc khải của Chúa Kitô với những gì xảy ra trước. Một đối với nhiều, như toàn thể đối với phân tán. Nhập Thể là cuộc Mạc khải vĩ đại của Thiên Chúa. Vì vậy trước tiên phải xác định chân lý Nhập Thể, bản tính nhân loại thật sự của Chúa Kitô, trong đó ta “thấy” Chúa (x. Ga 14,9) là lịch sử thật của Người, “lời nói và việc làm”. Các phép lạ không phải chỉ là sự “xác nhận” Mạc khải, nhưng là chính Mạc khải: vì chính Chúa Kitô tỏ mình qua phép lạ.

13*– Theo ý tưởng của thư gửi tín hữu Do-thái, Mạc khải cũng như chức linh mục của Chúa Kitô phải là độc nhất và vĩnh cửu. Một vài nghị phụ muốn nói là “vì Mạc khải chấm dứt với các tông đồ”, nhưng Uỷ Ban bác bỏ ý kiến trên “vì đó là một lời giải thích đang được bàn cãi”. Lý do sâu xa: vì Chúa Kitô là sự viên mãn và như vậy hoàn tất Mạc khải, nên không còn gì vượt trên sự viên mãn nữa. Nhưng cuộc Mạc khải còn chờ sự vinh quang của ngày Quang Lâm. Còn vấn đề tiến triển: không phải tiến triển trong Mạc khải, nhưng tiến triển chính trong việc chúng ta hiểu và thực hành Phúc Âm; đó là công việc của Chúa Thánh Thần, Đấng không nói sự gì mới lạ nhưng làm chứng về Chúa Kitô (x. Ga 16,14).

5. Phải đón nhận Mạc khải bằng đức tin

    Phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin” (Rm 16,26; x. Rm 1,5; 2 Cr 10,5-6) đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải. Nhờ sự vâng phục đó, con người tự do ký thác mình trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng cách “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mạc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí” [5], và bằng cách tự ý ưng thuận mạc khải Ngài đã ban. Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho “mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” [6]. Và để người ta hiểu biết mạc khải sâu xa thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng ban các ân huệ mà kiện toàn đức tin. 14*
----------------

14* – Trong số này, Công đồng trình bày lời đáp của con người đối với Thiên Chúa mạc khải: đó là đức tin, nhưng đức tin được hiểu dưới phương diện nhân bản, như một cuộc “đối thoại cứu độ” (Ecclesiam Suam, ngày 6-8-1964, số 72-79). Công đồng cũng nhận định những khía cạnh của hành vi đức tin: tự do, thuộc lý trí, thuộc ý chí, không thể có nếu không có ơn Chúa… Kiểu nói “vâng phục bằng đức tin” không được trình bày như một đòi buộc luân lý suông nhưng như là một đòi hỏi chính yếu của mối liên hệ mà Thiên Chúa mạc khải nối kết với con người. Trong hành vi đức tin, con người dấn thân toàn diện chứ không phải chỉ bằng lý trí. Ở đây bàn đến “đức tin đã hình thành” bao gồm cả đức cậy và đức mến, như ta có thể phỏng đoán theo những câu trích Thánh Kinh. Nhưng Uỷ Ban cắt nghĩa thêm: “Đức tin chưa hình thành” cũng là đức tin và cũng cần ơn Chúa Thánh Thần. Đức tin luôn luôn lớn mạnh dưới tác động cũng của chính Chúa Thánh Thần.

6. Mạc khải và sự hiểu biết tự nhiên về Thiên Chúa

    Bằng cách mạc khải 15*, Thiên Chúa đã muốn biểu lộ và thông ban chính mình Ngài cùng những ý định muôn đời của Ngài liên quan đến việc cứu độ nhân loại, “nghĩa là cho người ta được tham dự vào các của cải của Thiên Chúa hoàn toàn vượt quá trí hiểu loài người”  [7]. 16*

    Thánh Công đồng tuyên xưng rằng “con người có thể nhận biết Thiên Chúa,  nguyên lý và cứu cánh mọi sự cách chắc chắn , nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí suy luận từ các thọ tạo” (x. Rm 1,20). Nhưng Công đồng cũng dạy rằng phải nhờ Thiên Chúa mạc khải, mới có “điều này là, tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa, tự chúng vốn không vượt quá khả năng lý trí, trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, con người có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn và không lẫn lộn sai lầm”  [8]. 17*

-------------------------

15* – Trong số này, Công đồng bàn về các chân lý được mạc khải, trước hết là các chân lý siêu nhiên, rồi đến các chân lý tự nhiên. Công đồng nói theo Vatican I. Nhưng thứ tự ở Vatican I là: a) tri thức tự nhiên về những chân lý tự nhiên, b) tri thức những chân lý tự nhiên nhờ Mạc khải, c) tri thức chân lý siêu nhiên nhờ Mạc khải. Đang khi đó thứ tự ở đây lại là c-a-b: nghĩa là theo một viển tượng Kinh Thánh và quy về Thiên Chúa hơn.

16* – Đoạn này nói lên đối tượng riêng biệt của Mạc khải, nghĩa là đối tượng mà chúng ta cần được mạc khải: chính Thiên Chúa và những ý định cứu độ của Ngài (x. Relatio, tr. 9, 5). Mạc khải này không phải chỉ là một sự thông đạt kiến thức nhưng cũng có mục đích cứu độ con người nghĩa là thông phần vào đời sống Thiên Chúa.

17*– Phần thứ hai của số 6 lặp lại giáo thuyết của Công đồng Vatican I về việc nhận biết Thiên Chúa bằng lý trí, nhưng Công đồng dùng những từ ngữ rất mạnh để chống lại thuyết vô thần. Nhưng chữ “tuyên xưng” và “dạy” ở phần này nói lên một tín điều. Con người thật sự có thể nhận biết Thiên Chúa nhưng họ không thể không sai lầm nếu Thiên Chúa không giúp đỡ. Lịch sử minh chứng rằng con người luôn luôn tìm kiếm Thiên Chúa nhưng không bao giờ thoát khỏi lầm lẫn; và trong thực tế, ảnh hưởng của tội lỗi hình như đã làm cho thế giới thường trở thành một chướng ngại vật. Tuy nhiên, trong “nhiệm cuộc” cứu độ chúng ta đang sống, một tri thức hoàn toàn tự nhiên chỉ là một tư tưởng trừu tượng, vì ơn Chúa hiện diện khắp mọi nơi.

CHƯƠNG II

 

SỰ LƯU TRUYỀN MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA  18*

 7. Các Tông đồ và những người kế vị loan truyền Phúc Âm

    Những gì Thiên Chúa đã mạc khải để cứu rỗi muôn dân, Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ 19*. Bởi thế Chúa Kitô, nơi Người, Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn mạc khải (x. 2 Cr 1,20 và 3,16-4,6), đã truyền dạy các Tông đồ rao giảng cho mọi người Phúc Âm đã được hứa trước qua miệng các Ngôn sứ, và được chính Người thực hiện và công bố; các ngài rao giảng Phúc Âm như nguồn mọi chân lý cứu độ và luật lệ luân lý  [9], đồng thời thông ban cho họ các ân huệ của Thiên Chúa. Việc này đã được thực hiện cách trung thành, một phần do các Tông đồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các định chế, các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Chúa Kitô khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý; một phần do chính các ngài và những người phụ tá các ngài đã viết lại20* sứ điệp cứu độ dưới sự linh ứng của cùng một Chúa Thánh Thần   [10].

    Nhưng để Phúc Âm được giữ gìn toàn vẹn và sống động mãi trong Giáo Hội 21*, các Tông đồ đã để lại những người kế vị là các giám mục và “trao lại cho họ quyền giáo huấn của các ngài”  [11]. Bởi vậy, Thánh Truyền này cùng với Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, là như tấm gương mà Giáo Hội lữ thứ trên trần gian nhìn vào để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, do bởi Ngài, Giáo Hội nhận lãnh tất cả, cho đến khi được dẫn tới để nhìn thấy Ngài diện đối diện, Ngài thế nào Giáo Hội sẽ thấy như vạy (x. 1 Ga 3,2).

------------------------

18*– Trong bản thảo thứ hai, chương I mang tựa đề: “Về Lời Chúa được mạc khải” và gồm bốn số. Trong bản thảo thứ ba, người ta thêm số 8 và rồi chương II này. Nhiều người đã phê bình tựa đề, vì Mạc khải – theo họ nói – là lời mạc khải hơn là lời được mạc khải. Tựa đề hiện tại thích hợp với nội dung hơn: “Chỗ này chúng tôi miêu tả việc lưu truyền Mạc khải cách tổng quát, nhưng chúng tôi quan tâm đặc biệt đến truyền thống sống động vì nó có liên quan trực tiếp với Mạc khải được lưu truyền và nó vẫn tiếp tục sau khi Thánh Kinh đã được viết. Như thế, chương này là một bài nhập đề khá hay cho những chương nói về Thánh Kinh sau này” (Relatio, tr. 19).

    Một số các Nghị Phụ muốn nhấn mạnh trên Thánh Truyền nên đòi phải có một đề mục về điểm này. “Phần đông các nghị phụ này muốn đặt Thánh Truyền lên trước Thánh Kinh, vì theo bản tính và thời gian, Thánh Truyền có trước Thánh Kinh... Các Nghị Phụ khác muốn xác nhận Thánh Truyền là một nguồn Mạc khải hoàn toàn tách biệt khỏi Thánh Kinh (Relatio, nt.,). Còn Uỷ Ban lại muốn tránh tất cả những vấn đề đang trong vòng tranh luận. Thế là đề mục Mạc khải đã trở thành nóng bỏng hơn cả đề mục cộng đoàn tính của giám mục. Vấn đề ở đây là di sản của bao thế kỷ tranh luận chống Tin Lành. Chúng ta phải vượt qua vấn đề đó, nhưng không phải là việc dễ dàng, nhất là vì chúng lại xa lạ với Đông phương và các Giáo Hội tân lập. Đây là lời của Đức giám mục Edelly trong một cuộc phát biểu ý kiến: “Phải thoát ra khỏi vấn đề sau Công đồng Triđentinô... Đặt mình vào trong trung tâm mầu nhiệm Giáo Hội là một liều thuốc công hiệu. Phải loại trừ tâm thức quá pháp lý và duy danh mà những người Cải cách và La-tinh tự đóng khung vào. Từ thời Trung Cổ, chính tâm thức này đã đối nghịch “việc truyền phép” với “lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần”. Và chính tâm thức này mới đây đã trình bày “quyền tối thượng” và “cộng đoàn tính” như hai thực thể tách biệt. Cũng chính tâm thức này đã đặt Thánh Kinh và Thánh Truyền song song nhau... Thánh Kinh là một thực tại phụng vụ và ngôn sứ. Các Giáo hội Đông Phương coi Thánh Kinh là một “việc truyền phép” lịch sử cứu độ dưới “hình thức” tiếng nói con người, nhưng không tách biệt khỏi việc truyền phép Mình Thánh Chúa trong đó tất cả lịch sử được quy hợp trong Thánh Thể Chúa Kitô. “Việc truyền phép” này cần một “lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần” , đó chính là Thánh Truyền. Thánh Truyền là “lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần” của lịch sử cứu độ, là sự tỏ mình của Thánh Thần; bởi thế nếu thiếu lịch sử, Thánh Truyền sẽ không thể hiểu được và Thánh Kinh là những chữ chết. Tiếng Thánh Truyền không luôn có cùng một nghĩa, vì vậy Uỷ Ban đã cho biết cách chung là từ khoảng giữa số 8 (và những điều các Tông đồ truyền lại), tiếng “Thánh Truyền” phải hiểu theo nghĩa thụ động: thực thể hay chân lý được lưu truyền.

19*– Câu này nói lên ý hướng của toàn chương: Thiên Chúa muốn lưu truyền toàn thể Mạc khải, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, cho mọi thời đại. Các Tông đồ đã được lệnh truyền dạy tất cả những điều các ngài đã thu nhận nơi Chúa Kitô (Mt 28,20).

20*– Công đồng dạy về hai nguồn lưu truyền “Phúc Âm” trước hết theo chiều dọc: từ Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đến các tông đồ, sau đó theo chiều ngang: từ các Tông đồ đến Giáo Hội. Đoạn này nhấn mạnh đến giai đoạn đặc biệt là “thời các Thánh tông đồ”, gồm cả những “môn đệ của các tông đồ” vì họ đã viết một phần Tân Ước, ngay cả sau khi vị Tông đồ cuối cùng băng hà. Các phương tiện lưu truyền là lời giảng dạy và Thánh Kinh: cả hai phương tiện đều lưu truyền cùng một Mạc khải. Công đồng không muốn nói là trong lời giảng dạy chứa nhiều mạc khải hơn trong các lời nói mà cũng bằng gương sáng và các tổ chức. Thánh Truyền không phải chỉ là lời nói suông mà còn là những thực thể.

21*– Ở đây bàn về tính cách liên tục của Mạc khải sau thời các Tông đồ. Đề mục này được bản kỹ lưỡng trong Hiến chế Giáo Hội số 20 và 21. Ở đây Công đồng chỉ nhắc lại. Ở chỗ khác Công đồng cũng dạy rằng nhiệm vụ thiết yếu của các giám mục là lưu truyền mạc khải (x. GH 25a; GM 12a). Sự viên mãn của Mạc khải hiện hữu trong Giáo Hội, và chính nơi Giáo Hội, nhờ đức tin, ta gặp được Thiên Chúa, tức là khởi đầu việc hưởng nhan Chúa: có sự liên tục giữa Giáo Hội hiện tại và Giáo Hội cánh chung.

8. Thánh Truyền 22*

    Vì vậy, những lời giảng dạy của các Tông đồ được đặc biệt ghi lại trong các sách linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế. Do đó, khi truyền lại những gì chính mình đã nhận lãnh, các Tông đồ khuyến cáo các tín hữu giữ gìn các truyền thống họ đã học biết qua lời chỉ giáo hay bằng thư từ (x. 2 Tx 2,15), và chiến đấu để bảo vệ đức tin chỉ được truyền đạt cho họ một lần mà thôi (Gđ 3)  [12]. Và những điều các Tông đồ truyền lại bao gồm tất cả những gì góp phần giúp Dân Thiên Chúa sống một đời thánh thiện và làm tăng triển đức tin. Như vậy, Giáo Hội qua giáo lý, đời sống và việc phượng tự của mình, bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin. 23*

    Thánh Truyền do các Tông đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần  
[13]. Thật vậy, các sự việc và các lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, hoặc nhờ các tín hữu chiêm ngưỡng và học hỏi, khi đã ghi nhớ các điều đó trong lòng (x. Lc 2,19 và 51), hoặc nhờ họ đã thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý do việc kế vị trong chức giám mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ, Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi Lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội. 24*

    Lời các thánh Giáo Phụ chứng thực sự có mặt sống động của Thánh Truyền; và sự phong phú của Thánh Truyền đã thâm nhập vào thực hành và đời sống của Giáo Hội, một Giáo Hội luôn tin và cầu nguyện. Nhờ Thánh Truyền ấy, Giáo Hội biết được toàn bộ thư quy Thánh Kinh và cũng nhờ Thánh Truyền, Thánh Kinh được hiểu biết thấu đáo hơn, cũng như Thánh Truyền đã làm cho Thánh Kinh không ngừng tác động. Như vậy, Thiên Chúa, Đấng xưa đã phán dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình; và Thánh Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Phúc Âm vang dội trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội làm vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho Lời Chúa Kitô tràn ngập lòng họ (x. Cl 3,16). 25*

-----------------------

22*– Số này xuất hiện trong bản thảo thứ ba. Nhiều Nghị Phụ đòi Công đồng phải trực tiếp bàn đến Thánh Truyền, vì các lược đồ trước hầu như không nói gì đến.

23*– Đoạn này bàn về sự hiện hữu và bản tính của Thánh Truyền. Một Nghị Phụ muốn bản văn nói: “Các chân lý mà các Tông đồ đã mạc khải bằng miệng và không có trong Thánh Kinh, được lưu truyền cho chúng ta bằng Thánh Truyền”. Nhưng Uỷ Ban bác bỏ đề nghị trên, vì Uỷ Ban không muốn đặt vấn đề về tính cách đầy đủ chất liệu của Thánh Kinh và nội dung của Thánh Truyền. Chỉ có một điều không còn gì nghi ngờ là Thánh Truyền có nội dung rộng lớn hơn Thánh Kinh; bằng chứng là trường hợp bản chính lục và sự linh hứng của chính  Thánh Kinh. Như thế câu “lời giảng dạy của các Tông đồ” bao gồm tất cả mọi điều mà các Tông đồ đã lưu truyền bằng bất cứ cách nào. Và những điều đó nhờ linh hứng được chứa đựng “cách đặc biệt” trong Thánh Kinh (nghĩa là không phải chỉ trong Thánh Kinh).

24*– Thánh Truyền luôn linh động, gia tăng và tiến triển liên tục (không phải trong bản chất mà trong việc hiểu biết) và luôn giữ tính đồng nhất nguyên thuỷ của mình trong khi vẫn hướng về sự viên mãn của chân lý. Để chỉ “bản chất”, ta nói “tông truyền” thay vì “Thánh Truyền sống”. Nguồn gốc sự phát triển là: việc chiêm ngưỡng, nghiên cứu của các nhà thần học, ơn hiểu biết Chúa Thánh Thần ban và lời giảng dạy của hàng giáo phẩm. Ở đây người ta theo kiểu nói của Thánh Irênê mà không nêu danh tánh, vì các nguồn từ “đoàn sủng về chân lý” có thể có ba nghĩa: ơn ban chân lý mạc khải, ân sủng giúp chân thành với chân lý, và ơn giúp cắt nghĩa Mạc khải cách chân thật; ở đây theo nghĩa thứ ba.

25*– Các Giáo Phụ là những chứng nhân quan trọng nhất của Thánh Truyền, không phải chỉ vì các ngài sống gần thời của Tông đồ mà vì các ngài đã hệ thống hoá giáo thuyết, đến nỗi đã có thể truyền lại cho chúng ta theo những công thức mà chính các ngài đã hình thành.

9. Tương quan giữa Thánh Truyền và Thánh Kinh

    Vậy Thánh Truyền và Thánh Kinh được nối kết và thông giao với nhau cách chặt chẽ. Thật thế, do cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch thần linh, có thể nói cả hai kết hợp thành một và cùng quy hướng về một mục đích. Quả vậy, Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói, xét theo tư cách được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần; còn Thánh Truyền thì truyền đạt nguyên vẹn cho các đấng kế vị các Tông đồ Lời Thiên Chúa đã được Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần ký thác cho các Tông đồ, để các đấng kế vị đó, nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng, trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến Lời ấy bằng việc rao giảng. Do đó, Giáo Hội không chỉ nhờ Thánh Kinh mà kín múc được niềm xác tín về mọi điều mạc khải. Chính vì thế cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn trọng với một lòng quý mến và thành kính như nhau   [14]. 26*

----------------

26*– Thánh Truyền không phải chỉ là của Giáo Hội nhưng còn mang đặc tính thần linh như Thánh Kinh cả về nguồn gốc, nội dung và mục đích. Nội dung là xét theo phẩm, chứ Công đồng không bàn đến lượng, Ở đây, ta thấy có sự phân biệt vai trò của các Tông đồ, những người cấu tạo Thánh Truyền, và vai trò của các giám mục, những người bảo vệ Thánh Truyền. Câu: “Do đó, Giáo Hội không chỉ nhờ...” được Đức Giáo hoàng Phaolô VI ghi thêm vào phút chót. Nhiều người Tin Lành phản đối và cho rằng đó là một bước quay về thuyết “Hai nguồn”. Nhưng Uỷ Ban cắt nghĩa là câu trên không hề thay đổi ý nghĩa bản văn. Thật ra, 270 nghị phụ đã yêu cầu sửa đổi nghĩa đó (trong số đó có 111 nghị phụ thuộc nhóm đưa ra đề nghị tu chỉnh danh tiếng 40D). Được Đức Hồng y Bea khuyến khích, Uỷ Ban đã chấp nhận câu thứ 3 trong số 7 câu do Đức Giáo hoàng đề nghị, và nói rằng câu đó không ngăn trở những vấn đề đang được tranh luận.

10. Tương quan giữa Thánh Truyền, Thánh Kinh, Dân Chúa và Huấn Quyền

    Thánh Truyền và Thánh Kinh làm thành một kho tàng thánh thiêng duy nhất  lưu trữ Lời Chúa, đã được ký thác cho Giáo Hội. Khi gắn bó với kho tàng ấy, toàn thể dân thánh, quy tụ quanh các vị chủ chăn27*, chuyên cần với giáo huấn của các Tông đồ, với tình hiệp thông, với việc bẻ bánh và kinh nguyện (x. Cv 2,42, bản hy-lạp), nên giữa các thủ lãnh và các tín hữu có sự nhất trí lạ lùng trong việc nắm giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin đã được truyền lại  [15].

    Còn nhiệm vụ chính thức giải thích lời Thiên Chúa đã được ghi chép hay truyền lại   [16], nhiệm vụ này đã được uỷ thác cho một mình Huấn Quyền sống động của Giáo Hội  [17], quyền này được thi hành nhân danh Chúa Giêsu Kitô28*. Tuy nhiên, Huấn Quyền này không ở trên Lời Chúa, nhưng phục vụ Lời Chúa vì chỉ giảng dạy những điều đã được truyền lại; bởi vì do mệnh lệnh của Thiên Chúa và nhờ ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Huấn Quyền kính mến lắng nghe, thành kính gìn giữ và trung thành trình bày Lời đó, đồng thời từ kho tàng đức tin duy nhất ấy, Huấn Quyền kín múc ra  tất cả mọi điều mà đề nghị cho giáo dân tin như là những điều đã được Thiên Chúa mạc khải.

    Như thế, đã rõ là do ý định hết sức khôn ngoan của Thiên Chúa, Thánh Truyền, Thánh Kinh và Huấn Quyền của Giáo Hội được nối kết và liên đới với nhau đến nỗi không một cái nào có thể đứng vững một mình không cần hai cái kia; và dưới tác động của một Chúa Thánh Thần duy nhất, cả ba cùng góp phần hữu hiệu vào việc cứu độ các linh hồn, mỗi bên theo phương cách riêng.

-------------------------

27*– Đoạn này dạy rằng Mạc khải là gia sản của toàn thể Dân Chúa. Do đó,  tín hữu không thể thụ động đối với Lời mạc khải. Giáo thuyết này là một bước tiến sánh với Vatican I và Thông điệp Humani Generis. Dân Chúa sống đạo sẽ làm giàu Thánh Truyền và giải thích Lời Chúa.

28*– Huấn Quyền là thẩm quyền duy nhất được giải thích chính thức Mạc khải, quyền này do Chúa thiết lập và giữ vai trò phụng sự Lời Chúa và Dân Chúa. Quyền giáo huấn có thể là thông thường và ngoại thường, khả ngộ và bất khả ngộ. Về phương diện hợp nhất, lời xác quyết sau đây thật là lời tối quan trọng: Huấn Quyền phải tuân theo Lời Chúa, dầu quyền này gây khó khăn cho nhiều ki-tô hữu khác.

CHƯƠNG III

 

ƠN LINH HỨNG THÁNH KINH VÀ VIỆC GIẢI THÍCH THÁNH KINH

11. Ơn linh hứng và chân lý trong Thánh Kinh

    Những gì Thiên Chúa mạc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần29*. Thật vậy, Giáo Hội Mẹ thánh chúng ta, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các phần đoạn đều là sách thánh và được ghi vào bản thư quy Thánh Kinh: bởi lẽ được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần (x. Ga 20,31; 2 Tm 3,16; 2 Pr 1,19-21; 3,15-16), các sách ấy có tác giả là chính Thiên Chúa và được truyền lại cho chính Giáo Hội với tư cách đó  [18]. Nhưng để viết ra các sách thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong tài năng và sức lực của họ  [19], để khi chính Ngài hành động trong họ và qua họ  [20], họ viết ra như những tác giả đích thật tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ những điều đó thôi  [21].

    Vì phải xem mọi lời tác giả được linh hứng, tức các thánh sử, viết ra, là những điều Chúa Thánh Thần xác quyết, nên phải tuyên xưng rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, chân lý 30* mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại nhằm cứu độ chúng ta  [22]. Bởi vậy “tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3,16-17 bản hy-lạp).

------------------

29*– Trong chương này, Công đồng bàn về những điểm gay go nhất của Thánh Kinh: linh hứng, vô ngộ, chú giải.

    Trước tiên là vấn đề linh hứng: lược đồ thứ nhất đề cập dài dòng về đề mục này, nhưng theo lối trình bày của các sách thần học nên bị giới hạn vì những tranh luận chưa ổn thoả. Với lập trường không nghiêng về luận đề này hay luận đề kia, Công đồng dạy:

    a) Có linh hứng Thánh Kinh, nghĩa là có ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần theo hai nghĩa: mạc khải các chân lý (ví dụ cho các ngôn sứ) và tác động giúp viết thành văn bản để lưu truyền, đồng thời bảo đảm kết quả.

    b) Linh hứng ảnh hưởng đến toàn bản chính lục, bởi lẽ một cuốn sách được liệt kê vào bản chính lục là vì nó được linh hứng. Bản văn lập lại giáo thuyết của Vatican I, và thêm rằng giáo thuyết về linh hứng Thánh Kinh là di sản của các Tông đồ (đức tin tông truyền).

    c) Liên quan giữa các thánh sử và Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng: Thiên Chúa là tác giả, còn thánh sử là người viết sách; người ta tránh gọi các thánh sử là “dụng cụ”, vì như vậy có vẻ quá thụ động. Cũng vậy, người ta sẽ tránh hiểu Thiên Chúa như tác giả “chính” mà thích nói Ngài là tác giả “siêu việt”. Thiên Chúa không là “thánh sử” nhưng Ngài dùng con người dầu vẫn để con người hoàn toàn tự do và tự phát (với lỗi lầm của họ). Đây là nền tảng của việc phê bình Thánh Kinh.

30*– Kết quả của ơn linh hứng là chân lý của Thánh Kinh. Trước kia là Lược đồ 2 chỉ nói vô ngộ, sau đó bản thảo thứ ba lại thêm: vô ngộ và chân lý; trong bản thảo thứ tư, Uỷ Ban thêm tính từ “cứu độ” vào danh từ “ chân lý”. Điều này gây nên một cuộc tranh luận rộng lớn và sôi nổi, vì người ta cho rằng như thế sẽ hạn chế tính cách vô ngộ của Thánh Kinh vào những điều siêu nhiên và đi ngược lại giáo huấn của các Đức Giáo hoàng gần đây. Uỷ Ban chấp nhận đề nghị sửa đổi của 73 Nghị Phụ: “nhằm cứu độ chúng ta” trong khi nhấn mạnh là linh hứng không bị giới hạn vào một phần đoạn nào của Thánh Kinh. Nhưng câu này chỉ rõ đặc tính riêng biệt của chân lý Thánh Kinh, nghĩa là chiều hướng để hiểu đúng những xác quyết của Thánh Kinh. Chân lý Thánh Kinh chứa đựng trong lời xác quyết hay lời giáo huấn của các tác giả chứ không trong những từ ngữ. Những giáo huấn ấy không bị giới hạn trong “đức tin và luân lý” bởi vì “chân lý cứu độ” cũng bao gồm những sự kiện lịch sử. Nên lưu ý là bản văn không nói: “những chân lý”, nhưng nói: “chân lý” theo số ít ở đây hiểu theo nghĩa Thánh Kinh nghĩa là hàm chứa sự biểu lộ của Thiên Chúa chân thật (chứ không theo nghĩa duy trí). Chân lý lịch sử của Thánh Kinh không nhất thiết hệ tại việc dựng lại các sự kiện theo thời gian và hoàn cảnh xã hội, nhưng hệ tại việc giải thích các sự kiện, nghĩa là dưới phương tiện những sự kiện đó diễn tả mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa.

12. Cách thức giải thích Thánh Kinh 31*

    Tuy nhiên vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy  [23], nên để thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, nhà chú giải Thánh Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thật sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của các ngài.

    Để tìm ra chủ ý của các thánh sử, giữa những phương pháp khác, cũng cần phải đến “văn thể” 32*. Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác. Hơn nữa, nhà chú giải còn có bổn phận tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp rõ rệt, thánh sử đã muốn diễn tả và thật sự đã diễn tả trong hoàn cảnh thời đại và văn hoá của các ngài, qua các lối văn được dùng trong thời đó  [24]. Thật vậy, để hiểu đúng ý nghĩa tác giả thánh muốn khẳng định trong bản văn, chúng ta phải chú tâm đúng mức đến các cách thức tự nhiên cảm nghĩ, nói năng hoặc tường thuật, thường được dùng vào thời đại của thánh sử, cũng như các cách thức mà người thời ấy quen dùng khi giao tế với nhau  [25].

    Nhưng bởi vì Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần, thì cũng phải được đọc và giải thích nhờ chính Thánh Thần  [26]. Và để khám phá ra chính xác ý nghĩa của các bản văn thánh, cũng phải kỹ lưỡng xem xét đến nội dung và sự duy nhất của toàn thể Thánh Kinh, dựa trên Truyền Thống sống động của toàn thể Giáo Hội và sự suy loại đức tin 33*. Các nhà chú giải có nhiệm vụ dựa theo những quy tắc đó mà cố gắng hiểu thấu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu sắc hơn, ngõ hầu nhờ sự học hỏi có thể gọi là chuẩn bị đó, phán quyết của Giáo Hội được chín chắn. Quả vậy mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh cuối cùng đều phải lệ thuộc vào phán quyết của Giáo Hội, vì Giáo Hội đã nhận từ Thiên Chúa mệnh lệnh và nhiệm vụ  gìn giữ và giải thích lời Thiên Chúa   [27].

----------------------

31*– Công đồng dạy rằng việc giải thích rất cần thiết để hiểu Thánh Kinh. Khoa giải thích tìm tòi những phương pháp văn chương của thánh sử để khám phá điều thánh sử muốn dạy. Thiên Chúa muốn dạy cũng điều đó và có lẽ còn hơn nữa: vấn đề nghĩa thâm sâu (sensus plenior) mà Uỷ Ban không muốn quyết đoán.

32*– Đoạn này bàn về việc phê bình Thánh Kinh nghĩa là nhằm phân tích “khía cạnh nhân loại” của Thánh Kinh: văn thể, phạm trù tri thức, hoàn cảnh lịch sử v.v... như trong bất cứ tác phẩm văn chương nào. Tầm quan trọng của “văn loại” được đặt lên hàng đầu, dầu không kê khai đầy đủ. Ta nên lưu ý điểm này: phải công nhận sự hiện hữu của nhiều loại lịch sử khác nhau, vì trong các cuốn sách của Thánh Kinh, quan niệm lịch sử không có cùng một nghĩa như nhau. Ý tưởng sâu xa được hiểu ngầm ở đây là Lời Chúa đã trở thành lời thật sự của con người, nghĩa là lời nhập thể, như trình bày ở số 13.

33*– Khoa học chưa đủ cho việc chú giải Kitô giáo. Cần phải có đức tin. Nhà chú giải cũng phải được hướng dẫn bởi cùng một Thánh Thần đã linh hứng các thánh sử. Tiếp đến, phải đặt mỗi cuốn sách trong toàn bộ Thánh Kinh vì các sách không có cùng một giá trị như nhau. Phải nhớ rằng Mạc khải còn tiến triển: Tân Ước soi sáng Cựu Ước và Thánh Truyền của Giáo Hội lại soi sáng Tân Ước. Sau cùng, việc chú giải và Huấn Quyền phải cộng tác theo cùng một mục đích là giúp hiểu biết thêm về Mạc khải.

13. Sự “hạ cố” của Đức Khôn Ngoan

    Vậy trong Thánh Kinh, tỏ hiện sự “hạ cố” kỳ diệu của Đức Khôn Ngoan vĩnh cửu, mà vẫn không làm tổn thương sự chân thật và thánh thiện của Thiên Chúa, “để chúng ta học biết lượng nhân từ khôn tả của Thiên Chúa và biết, do quan phòng săn sóc đến bản tính chúng ta, Ngài đã thích ứng lời nói của Ngài đến mức nào”   [28]. Quả thế, các lời của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, đã trở nên tương tự với lời nói loài người, cũng như khi xưa Lời của Chúa Cha vĩnh cửu đã mặc lấy xác thịt yếu đuối của loài người, đã trở nên giống như loài người.

Nguồn : Ủy Ban Kinh Thánh

          Thuộc Hội Đồng Giám Mục VN


Trở về Trang Mục Lục Giáo Hội



[1] Schema Constitutionum et Decretorum de quibus disceptabitur in Concilii Sessionibus Roma, 1962

[2] Xem T. Âutinh, De catechizandis rudibus, ch. IV, 8: PL 40, 316

[3] Xem Mt 11,27; Ga 1,14 và 17; 14,6; 17,1-3; 2 Cr 3,16 và 4,6; Ep 1,3-14.

[4] Epist. ad Diognetum, 7, 4: Funk, Patres Apostolici, 1, 403

[5] Vat. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 3: Dz 1789 (3008).

[6] Orange II, đ. 7: Dz 180 (377). – CĐ Vat. I, nt., Dz 1791 (3010).

[7] Vat. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 2: Dz 1786 (3005).

[8] nt.: Dz 1785-1986 (3004-3005).

[9] Xem Mt 28,19-20 và Mc 16,15. CĐ Triđen., khoá 4, Sắc lệnh De canonicis scripturis: Dz 783 (1501).

[10]  Xem CĐ Triđen., nt., – CĐ Vat. I, khoá 3, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 2: Dz 1787 (3006).

[11] T. Irenê, Adv. Haer. III, 3, 1: PG 7, 848; Harvey, 2, tr. 9.

[12] Xem CĐ Nixê II: Dz 303 (602). – CĐ Constantinopla IV, khoá 10, đ. 1: Dz 336 (650-652).

[13] Xem CĐ Vat. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 4: Dz 1800 (3020).

[14] Xem CĐ Triđen., Sắc lệnh De Canonicis Scripturis: Dz 783 (1501).

[15] Xem Piô XII, Tông hiến Munificentissimus Deus, 1-11-1950: AAS 42 (1950), tr. 756, lấy lại lời Thánh Cyprianô, Epist. 66, 8: CSEL 3, 2, tr. 733: “Giáo Hội là một dân hợp nhất với Linh mục và một đàn chiên liên kết với Chủ chăn”.

[16] Xem CĐ Vat. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 3: Dz 1792 (3011).

[17] Xem Piô XII, Tđ. Humani generis, 12-8-1950: AAS 42 (1950), tr. 568-569: Dz 2314 (3886)

[18] Xem CĐ Vat. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 2: Dz 1787 (3006).

[19] Xem Piô XII, Tđ. Divino afftante Spiritu, 30-9-1943: AAS 35 (1943), tr. 314; EB 556

[20] Trong và qua họ: xem Dt 1, 1 và 4, 7 (trong); 2 Sm 23,2; Mt 1,22 và nhiều nơi khác (qua); CĐ Vat. I: schema de doctr. cath, ghi chú số 9: Coll. Lac. VII, 522.

[21] Lêô XIII, Tđ. Providentissimus Deus, 18-11-1893: Dz 1952 (3293); EB 125.

[22] Xem T. Âutinh, De Gen. ad litt. 2, 9, 20: PL 34,270-271; CSEL 28, 1, 46-47 và Epist. 82, 3: PL 33, 277; CSEL 34, 2, 354. – T. Tôma, De Ver. q. 12, a. 2, c. – CĐ Triđen., khoá 4, De canonicis Scripturis: Dz 783 (1501) – Lêô XIII, Tđ. Providentissimus Deus: EB 121, 124, 126-127. Piô XII, Tđ. Divino afflante Spiritu: EB 539.

[23] T. Âutinh, De Civ. Dei, XVII, 6, 2: PL 41, 537; CSEL 40, 2, 228.

[24] T. Âutinh, De Doctr. Christ. III. 18, 26: PL. 34, 75-76: CSEL 80, 95.

[25] Piô XII, nt: Dz 2294 (3829-3820); EB 557-562.

[26] Xem Bênêđíchtô XV, Tđ. Spiritus Paraclitus, 15-9-1920: EB 469. – T. Giêrônimô, In Gal 5,19-21: PL 26, 417A.

[27] Xem CĐ. Vat, I, Hiến chế Tín lý Đức tin Công Giáo, ch. 2: Dz 1788 (3007).

[28] T. Gioan Kim Khẩu, In Gen. 3, 8 (hom. 17, 1): PG 53, 134. – “Thích ứng” tiếng hy-lạp là synkatabasis.