Hướng Đến Một Hội
Thánh Hiệp Hành:
Hiệp thông, Tham gia
và Sứ vụ
Tài liệu chuẩn bị
NỘI DUNG
I. LỜI KÊU GỌI CÙNG NHAU CẤT BƯỚC HÀNH TRÌNH
II. MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH TỪ NỀN TẢNG
III. LẮNG NGHE KINH THÁNH
Chúa Giêsu, đám
đông, các Tông đồ
Một động năng kép
của sự hoán cải: Phêrô và Cornêliô (Cv 10)
IV. HIỆP HÀNH BẰNG HÀNH ĐỘNG: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỈNH Ý DÂN
CHÚA
Câu hỏi căn bản
Các biểu hiện
khác nhau của tính hiệp hành
Mười chủ đề cốt
lõi cần được khám phá
Đóng góp cho cuộc
thỉnh ý
Chữ
viết tắt
DV
Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum (18-11-1965)
EC
Phanxicô, Tông hiến Episcopalis communion (15-9-2018).
EG
Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24-11-2013).
FT
Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3-10-2020).
GS
Công đồng Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes (7-12-1965).
ITC
Ủy ban Thần học Quốc tế
LG
Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium (21-11-1964).
LS
Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (24-5-2015).
UR
Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về Đại kết (21-11-1964).
1. Hội
thánh của Thiên Chúa được triệu tập trong Thượng hội đồng. Với tên gọi “Hướng
đến một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ”, con đường này sẽ
khai mạc trọng thể vào các ngày 9-10 tháng 10 năm 2021 tại Rôma và vào ngày 17
tháng 10 sau đó tại mỗi Giáo hội đặc thù. Kỳ Đại Hội Thường lệ lần thứ XVI của
Thượng Hội đồng giám mục, vào tháng 10 năm 2023[1], sẽ là giai đoạn cơ bản và được tiếp nối
bởi giai đoạn do các Giáo hội địa phương thực hiện (x. EC, 19-21).
Với việc triệu tập này, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi toàn thể Giáo hội suy tư
về một chủ đề mang tính quyết định đối với đời sống và sứ vụ của mình: “Con
đường hiệp hành này chính là con đường Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội của
thiên niên kỷ thứ ba”[2]. Hành trình này, theo ý hướng “canh tân”
Giáo hội được Công đồng Vaticanô II khởi xướng, chính là một ân phúc mà cũng là
một nhiệm vụ: bằng cách cùng nhau gieo bước hành trình và cùng nhau suy nghĩ về
hành trình đã thực hiện, Hội thánh sẽ có thể học biết, qua kinh nghiệm của
mình, đâu là những tiến trình có thể giúp Hội thánh sống hiệp thông, thực hiện
sự tham gia và mở ra cho việc thi hành sứ vụ. Quả thực, việc chúng ta “cùng
nhau gieo bước hành trình” là điều thể hiện và chứng tỏ rõ nhất bản chất của
Hội thánh như là Dân Chúa lữ hành và truyền giáo.
2. Câu
hỏi căn bản thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta là: Hiện nay việc “đồng hành cùng
nhau” này đang diễn ra thế nào tại các bình diện khác nhau (từ bình diện địa
phương đến bình diện hoàn vũ), cho phép Hội thánh loan báo Tin Mừng đúng theo
sứ vụ Hội thánh được ủy thác; và Chúa Thánh Linh mời gọi chúng ta thực hiện
những bước nào để thăng tiến như một Hội thánh hiệp hành? Để cùng nhau giải đáp
được câu hỏi này đòi hỏi chúng ta phải lắng nghe Chúa Thánh Thần là Đấng như
gió “thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và
đi đâu” (Ga 3,8), phải mở ngỏ cho những điều lạ lùng mà Chúa Thánh Thần chắc
chắn sẽ chuẩn bị cho chúng ta trên suốt hành trình. Như thế, một sức năng động
được khơi dậy cho phép chúng ta bắt đầu thu hoạch một số hoa trái của cuộc hoán
cải hiệp hành, sẽ dần dần chín mùi. Đây là những mục tiêu hết sức quan trọng
đối với phẩm chất của đời sống Hội thánh và đối với việc hoàn thành sứ vụ loan
báo Tin Mừng mà tất cả chúng ta đều tham gia nhờ Bí tích Rửa tội và Thêm sức.
Chúng tôi xin nêu ra ở đây những nguyên tắc chính, làm cho tính hiệp hành được
thể hiện nơi hình thức, phong cách và cơ cấu của Giáo hội:
- Nhắc
nhở cách thức trước đây, trong lịch sử Chúa Thánh Thần đã mở đường dẫn lối cho
Giáo hội và ngày nay kêu gọi chúng ta cùng nhau làm chứng cho tình yêu Thiên
Chúa.
- Sống
tiến trình Giáo hội mang tính tham gia và quy tụ, vốn cống hiến cho mọi người -
đặc biệt những người, vì những lý do khác nhau, cảm thấy mình là những kẻ ngoài
lề - cơ hội tự bày tỏ và được lắng nghe hầu góp phần vào việc xây dựng dân
Thiên Chúa.
- Nhận
biết và trân quý tính đa dạng phong phú của những ân huệ và đặc sủng mà Chúa
Thánh Thần rộng rãi tặng ban vì lợi ích của cộng đoàn và toàn thể gia đình nhân
loại.
- Thử
nghiệm những cách thức thi hành trách nhiệm chung trong việc loan báo Tin Mừng
và nỗ lực xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn và đáng sống hơn.
- Xem
xét cách thức thể hiện trách nhiệm và quyền bính trong Giáo hội cũng như các cơ
cấu kiểm soát chúng, vạch trần và ra sức hoán cải các định kiến cùng những thực
hành lệch lạc không phát xuất từ Tin Mừng.
- Làm
cho cộng đồng Kitô giáo thành một chủ thể đáng tín nhiệm và là một đối tác đáng
tin cậy trong hành trình đối thoại xã hội, chữa lành, hòa giải, liên kết và
tham gia, tái thiết nền dân chủ, cổ vũ tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội.
- Canh
tân và củng cố những mối tương quan giữa các thành viên trong cộng đồng Kitô
hữu cũng như giữa các cộng đồng và các nhóm xã hội khác, chẳng hạn những cộng
đồng tín hữu của các tông phái và tôn giáo khác, những tổ chức xã hội dân sự,
những phong trào quần chúng, v.v…
- Cổ vũ
việc đề cao và thủ đắc những thành quả kinh nghiệm hiệp hành mới đây trên bình
diện thế giới, khu vực, quốc gia và địa phương.
3. Tài
liệu Chuẩn bị này nhằm phục vụ cho hành trình hiệp hành, đặc biệt như một công
cụ tạo thuận lợi cho giai đoạn đầu tiên của việc lắng nghe và thỉnh ý dân Chúa
trong các Giáo hội đặc thù (tháng 10 năm 2021 – tháng 4 năm 2022), với hy vọng
giúp khơi gợi các ý tưởng, thúc đẩy năng lực và óc sáng tạo của tất cả những ai
sẽ tham gia vào hành trình này, và nhờ thế, làm cho việc chia sẻ thành quả các
nỗ lực của họ được thuận lợi. Nhắm mục đích này, Tài liệu 1/ bắt đầu bằng cách
phác thảo một số đặc điểm nổi bật của bối cảnh đương thời, 2/ giải thích ngắn
gọn các nguồn tài liệu tham khảo thần học căn bản giúp hiểu biết và thực hành
đúng đắn về tính hiệp hành, 3/ đề xuất một số đoạn Kinh Thánh làm chất liệu cho
việc nguyện ngắm và sự suy tư cầu nguyện trong suốt hành trình, 4/ minh thị một
số viễn tượng để từ đó đọc lại những kinh nghiệm sống tinh thần hiệp hành, 5/
trình bày một số cách thức khai triển việc đọc lại các kinh nghiệm này trong
cầu nguyện và chia sẻ. Để hướng dẫn cụ thể cách tổ chức các việc trên, Tài liệu
này còn được kèm theo một Cẩm nang mang tính phương pháp luận và có sẵn trên
trang mạng dành cho Thượng Hội đồng này[3]. Trang mạng này cống hiến một số nguồn
tài liệu để đào sâu chủ đề về tính hiệp hành, cũng như nguồn hỗ trợ cho Tài
liệu Chuẩn bị này; trong số những nguồn tài liệu đó, chúng tôi xin lưu ý hai
nguồn đã nhiều lần được nhắc đến: Diễn từ Mừng kỷ niệm 50 năm ngày
thiết lập Thượng Hội đồng giám mục, được Đức Thánh Cha Phanxicô phát biểu
vào ngày 17 tháng 10 năm 2015, và văn kiện Tính hiệp hành
trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh, do Ủy ban Thần học Quốc tế soạn thảo
và ấn hành năm 2018.
I. LỜI KÊU GỌI CÙNG NHAU CẤT BƯỚC HÀNH TRÌNH
4. Con
đường hiệp hành diễn ra trong bối cảnh lịch sử được ghi dấu bởi những biến
chuyển lớn trong xã hội và bởi một giai đoạn then chốt trong đời sống Giáo hội
không thể bỏ qua được: chính trong những biến động phức tạp của bối cảnh này
cùng những căng thẳng và những mâu thuẫn của nó, chúng ta được mời gọi “tìm
hiểu tường tận các dấu chỉ của thời đại và giải thích những dấu chỉ ấy dưới ánh
sáng Tin Mừng” (GS, 4). Chúng ta phác họa ở đây một vài yếu tố chủ yếu của
khung cảnh toàn cầu có nối kết chặt chẽ nhất với chủ đề của Thượng Hội đồng,
nhưng sự mô tả này phải được phong phú hóa và hoàn tất ở bình diện địa phương
tùy theo bối cảnh tại đó.
5. Thảm
kịch toàn cầu như đại dịch Covid-19, “có lúc đã khơi lại rõ ràng cái cảm thức
chúng ta là một cộng đồng thế giới đang chèo chống trên cùng một con thuyền, ở
đó điều gây tổn hại cho người này cũng gây tổn hại cho người khác. Phải nhớ
rằng nếu có được cứu, thì tất cả cùng được cứu, chứ chẳng có chuyện chỉ riêng
ai đó được cứu” (FT, 32). Đồng thời, đại dịch đã phơi bày rõ nét những bất bình
đẳng và bất công vốn đã hiện hữu: nhân loại dường như càng bị chao đảo bởi
những tiến trình đại chúng hóa và phân mảnh; thân phận bi thảm của các di dân
trên khắp mọi miền thế giới chứng tỏ những hàng rào phân rẽ gia đình nhân loại
duy nhất vẫn sừng sững dương cao. Thông điệp Laudato si’ và Fratelli
tutti cho thấy rõ những thương tích hằn sâu ngang dọc thân mình nhân
loại, và chúng ta có thể tìm đọc những phân tích này để nghe thấy tiếng kêu
than của những người nghèo và của trái đất cũng như nhận ra những hạt mầm hy
vọng và tương lai, nhờ Chúa Thánh Thần, vẫn tiếp tục đâm chồi nảy lộc ở thời
đại chúng ta: “Đấng Tạo Hoá không bỏ mặc chúng ta. Ngài không bao giờ bỏ dở kế
hoạch yêu thương của Ngài. Ngài không hối tiếc vì đã tạo dựng nên chúng ta.
Nhân loại vẫn có khả năng cùng hợp tác xây dựng ngôi nhà chung” (LS, 13).
6. Tình
trạng này, bất kể nhiều dị biệt rất lớn, liên can đến toàn thể gia đình nhân
loại, thách thức khả năng của Hội thánh trong việc đồng hành cá nhân và cộng
đồng để nhìn lại những kinh nghiệm tang thương, qua đó cho phép chúng ta vạch
trần vô số những an toàn giả tạo và vun trồng niềm hy vọng và tin tưởng nơi
lòng nhân hậu của Đấng Tạo Hóa và sự tốt lành trong công trình tạo dựng của
Ngài. Tuy nhiên, chúng ta không thể che dấu một thực tế rằng Hội thánh đang
phải đương đầu với sự thiếu đức tin và suy đồi của chính mình. Cách riêng,
chúng ta không thể quên nỗi đau khổ mà các trẻ vị thành niên và những người dễ
bị tổn thương phải chịu “do việc lạm dụng tình dục, lạm dụng quyền bính và lạm
dụng lương tâm của nhiều giáo sĩ và người thánh hiến”[4]. Chúng ta không ngừng bị chất vấn “trong
tư cách là dân Chúa, phải gánh lấy nỗi đau của các anh chị em mình đã bị thương
tổn trong thân xác và tinh thần”[5]. Đã quá lâu, Hội thánh không biết lắng
nghe cho đủ tiếng kêu than của các nạn nhân ấy. Đây là những vết thương trầm
trọng khó chữa lành, vì thế chúng ta không bao giờ cầu xin tha thứ cho đủ; và
những vết thương này là những chướng ngại, đôi khi rất lớn, ngăn cản chúng ta
tiến lên theo hướng “cùng nhau gieo bước hành trình”. Toàn thể Hội thánh được
mời gọi giải gỡ gánh nặng của nền văn hóa thấm nhiễm chủ nghĩa giáo sĩ trị do
lịch sử để lại, cùng với những thói tục thi hành quyền bính để mọi thứ lạm dụng
khác (quyền lực, kinh tế, lương tâm, tình dục) có cơ hội bám vào. Không thể có
chuyện “hoán cải hoạt động của Hội thánh mà lại không có sự tham gia tích cực
của tất cả mọi thành phần Dân Chúa”[6], vì thế chúng ta hãy cùng nhau cầu xin
Chúa ban “ơn hoán cải và xức dầu bên trong để có thể biểu lộ sự hối lỗi trước
tội lạm dụng này, và can đảm quyết tâm chống lại những tội ác đó”[7].
7. Bất
chấp những bất trung của chúng ta, Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động trong
lịch sử và biểu lộ quyền năng tác sinh của Ngài. Chính trong những dấu vết khắc
sâu bởi đủ mọi thứ khổ đau mà gia đình nhân loại và dân Chúa phải hứng chịu,
những cách diễn tả mới của đức tin và những hành trình mới đang được triển nở,
chúng không những có khả năng giải thích các biến cố theo quan điểm thần học,
mà còn có khả năng khám phá trong thử thách những lý do để tái thiết con đường
sự sống của Kitô hữu và Hội thánh. Thực tế có không ít Giáo hội đã bắt đầu thực
hiện những cuộc gặp gỡ và đưa ra những tiến trình ít nhiều mang hình thức thỉnh
ý dân Chúa. Đây là lý do để hy vọng, tràn trề hy vọng. Ở đâu có dấu ấn của
phong cách hiệp hành, ở đó cảm thức về Hội thánh triển nở, và sự tham gia của
tất cả mọi người đem lại cho đời sống Hội thánh một sức năng động mới. Ước muốn
trở nên những thành tố chính trong lòng Giáo hội từ phía giới trẻ và yêu cầu
đánh giá đúng hơn về vai trò phụ nữ, cũng như để họ có không gian tham gia vào
sứ vụ của Giáo hội, vốn đã được các Thượng Hội đồng 2018 và 2019 lưu ý, đều đã
được xác nhận. Cũng theo hướng này, mới đây đã có việc thiết lập thừa tác vụ
Giáo lý viên cho giáo dân cũng như thừa tác vụ Đọc sách và Giúp lễ cho phụ nữ.
8. Chúng
ta không thể không biết đến những hoàn cảnh đa dạng của các cộng đồng Kitô giáo
sinh sống tại những vùng khác nhau trên thế giới. Bên cạnh những quốc gia nơi
Giáo hội tiếp nhận phần lớn dân số và là đại diện tham chiếu văn hóa cho toàn
xã hội, còn có những quốc gia khác, ở đó người Công giáo là thiểu số; trong một
số quốc gia đó, tín hữu Công giáo cùng với những Kitô hữu khác phải chịu những
sự bách hại đôi khi rất tàn bạo, và nhiều khi phải tử đạo. Nếu, một đàng, não
trạng thế tục hóa thống trị có xu hướng loại trừ tôn giáo khỏi không gian công cộng,
thì đàng khác, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo vốn không tôn trọng tự do của những
người khác, lại nuôi dưỡng những hình thức bất bao dung và bạo lực, cũng có thể
thấy những hình thức này nơi cộng đồng Kitô giáo và trong những mối tương quan
của cộng đồng này với xã hội. Không hiếm khi những Kitô hữu có các thái độ y
như thế, cũng xúi giục chia rẽ và chống đối, ngay cả trong Giáo hội. Cũng phải
để ý đến cách thức trong đó những chia rẽ len lỏi khắp xã hội, dội lại trong
Giáo hội và trong những tương quan của Giáo hội với xã hội, là những chia rẽ
gây ra bởi những lý do sắc tộc, chủng tộc, giai cấp hoặc các hình thức phân
tầng xã hội khác hoặc bạo lực văn hóa và cơ cấu. Những cảnh trạng này tác động
sâu xa đến ý nghĩa của diễn ngữ “cùng nhau gieo bước hành trình” và những khả
năng cụ thể thực hiện điều này.
9. Trong
bối cảnh này, hiệp hành được coi là con đường chính dành cho Hội thánh, vốn
được kêu gọi canh tân dưới tác động của Chúa Thánh Thần và nhờ lắng nghe Lời
Chúa. Khả năng hình dung ra một tương lai khác cho Giáo hội và cho các định chế
của Giáo hội xứng tầm sứ vụ mà Giáo hội nhận lãnh, tùy thuộc phần lớn vào quyết
định khởi động những tiến trình lắng nghe, đối thoại và biện phân cộng đồng,
trong đó tất cả và mỗi người đều có thể tham gia và góp phần. Đồng thời, sự
chọn lựa “cùng nhau gieo bước hành trình” là một dấu hiệu mang tính tiên tri
đối với gia đình nhân loại, đang cần một dự án chung có khả năng mưu cầu thiện
hảo cho tất cả mọi người. Một Hội thánh có khả năng hiệp thông, có tình huynh
đệ, có sự tham gia và bổ trợ, trung thành với những gì Hội thánh công bố, sẽ có
thể đến bên người nghèo và người bé mọn cũng như cất lên tiếng nói thay cho họ.
Để “cùng nhau gieo bước hành trình”, chúng ta cần để cho Chúa Thánh Thần uốn
nắn, nhờ đó có được tinh thần hiệp hành thực sự, bằng cách can đảm và tự do dấn
bước vào tiến trình hoán cải vốn là điều thiết yếu cho “cuộc đổi mới liên tục
mà [Giáo hội] luôn cần đến bao lâu Giáo hội còn là một định chế nhân loại ở
trần gian này” (UR, 6; x. EG, 26).
II. MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH TỪ NỀN TẢNG
10. “Con
đường hiệp hành này là chính con đường Thiên Chúa mong đợi nơi Hội thánh của
thiên niên kỷ thứ ba. Điều Chúa yêu cầu chúng ta, theo một nghĩa nào đó, hoàn
toàn đã bao hàm trong chính hạn từ ‘Synod’”[8], vốn “là một từ cổ kính trong Truyền
thống của Giáo hội, ý nghĩa của nó được rút ra từ những nội dung sâu xa nhất
của Mạc khải”[9]. Chính “Chúa Giêsu tự giới thiệu Ngài là
‘con đường, sự thật và sự sống’ (Ga 14, 6)” và “các kitô hữu, những người đi
theo Ngài, ban đầu được gọi là ‘những môn đệ của Con Đường đó’ (x Cv 9,
2; 19, 9.23; 22,4; 24, 14.22)”.[10] Trong viễn tượng này, tính hiệp
hành không chỉ là việc cử hành các cuộc gặp gỡ trong Giáo hội và các cuộc hội
họp của giám mục, hay chỉ là vấn đề quản trị nội bộ của Giáo hội; hiệp hành còn
“chỉ phương cách sống và hành động (modus vivendi et operandi)
đặc trưng của Giáo hội, dân Thiên Chúa, vốn biểu lộ và thực hiện cách cụ thể
bản chất hiệp thông của mình khi mọi thành viên của Giáo hội đồng hành cùng
nhau, tập hợp lại trong đại hội và cùng tham gia tích cực vào sứ vụ phúc âm hóa
của Giáo hội”.[11] Như thế, các trụ cột của một Hội
thánh hiệp hành, như tiêu đề của Thượng Hội đồng đề ra thì nối kết với nhau:
hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Trong chương này, chúng ta sẽ giải thích ngắn
gọn một số tham chiếu thần học cốt yếu làm nền tảng cho quan điểm đó.
11. Trong
thiên niên kỷ thứ nhất, “cùng nhau gieo bước hành trình”, vốn có nghĩa là thực
hiện hiệp hành, là cách thức hành động thông thường của Giáo hội - được hiểu
như “Dân được tập hợp lại trong sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần”[12]. Đối lập với những người phân rẽ nhiệm
thể Giáo hội, các Giáo phụ đã nêu lên sự hiệp thông của các Giáo hội khắp đó
đây trên thế giới, điều mà Thánh Augustinô gọi là “concordissima fidei
conspiratio”[13] nghĩa là “sự đồng tâm
nhất trí trong đức tin của tất cả những người đã chịu phép Rửa”. Đây chính
là nguồn cội của việc thực hành rộng rãi tính hiệp hành ở mọi cấp độ của Hội
thánh – địa phương, giáo tỉnh và hoàn vũ – mà Công đồng Chung là sự thể hiện rõ
nét nhất của nó. Trong viễn cảnh Hội thánh này, được gợi hứng bởi nguyên tắc
mọi người được tham gia vào sinh hoạt của Giáo hội, Thánh Gioan Kim khẩu dám
nói rằng: “Hội thánh và Synod là hai từ đồng nghĩa”.[14] Ngay cả trong thiên niên kỷ thứ
hai, khi Giáo hội nhấn mạnh hơn vào chức năng phẩm trật, cách thức tiến hành
này vẫn không bị mai một: nếu, ở thời Trung cổ và ở thời Cận đại, bên cạnh việc
tiến hành các Công đồng chung, việc tiến hành các Công nghị giáo phận và giáo
tỉnh cũng đã được chứng thực rõ ràng, thì khi cần phải xác định những chân lý
phải tin, các vị giáo hoàng đều mong muốn tham khảo ý kiến các giám mục để biết
đức tin của toàn thể Hội thánh, nại đến thế giá của cảm thức đức tin (sensus
fidei) của toàn thể dân Chúa, vốn “không thể sai lầm khi tin” (infallibile
in credendo) (EG, 119).
12. Công
đồng Vaticanô II, vốn gắn bó với truyền thống năng động này, nhấn mạnh rằng
“Thiên Chúa muốn thánh hoá và cứu độ con người không như những cá nhân riêng rẽ
không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm cho họ thành một dân tộc để
họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện” (LG,
9). Các thành viên của dân Chúa hợp nhất bằng phép Thanh tẩy và “mặc dù theo ý
Đức Kitô, một số người được đặt làm thầy dạy, làm người phân phát các mầu
nhiệm, và làm mục tử, vì lợi ích của những người khác, nhưng tất cả mọi người
đều thực sự bình đẳng về phẩm giá và về hoạt động chung của toàn thể các tín
hữu, trong việc xây dựng thân mình Đức Kitô” (LG, 32). Do đó, tất cả những
người đã chịu phép Thanh tẩy, những người tham gia vào chức vụ tư tế, ngôn sứ
và vương đế của Đức Kitô, “khi thi hành các đặc sủng đa dạng và phong phú Chúa
ban cho theo ơn gọi và tác vụ của họ”[15], đều là những chủ thể tích cực loan báo
Tin Mừng, trong tư cách cá nhân cũng như với tư cách toàn thể dân Chúa.
13. Công
đồng nhấn mạnh cách thế qua đó, nhờ được xức dầu Thánh Thần khi chịu phép Rửa,
toàn thể các tín hữu “không thể sai lầm trong đức tin, họ biểu lộ thuộc tính
đặc biệt này qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi ‘từ
các giám mục cho đến những người bé mọn nhất trong các tín hữu’ đều đồng thuận
về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa” (LG, 12). Chính Chúa Thánh
Thần hướng dẫn các tín hữu “tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Nhờ tác động của
Ngài, “truyền thống phát xuất từ các Tông đồ được tiếp nối trong Giáo hội”, để
dân Thiên Chúa có thể lớn lên vì “các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu
biết thấu đáo hơn, hoặc nhờ sự chiêm niệm và học hỏi của những tín hữu đã luôn
suy tưởng các điều ấy trong lòng (x. Lc 2,19.51), hoặc nhờ sự thông hiểu về
những cảm nghiệm thiêng liêng, hoặc nhờ sự giảng dạy của những người đã lãnh
nhận cách chắc chắn đoàn sủng về chân lý cùng với việc kế vị các Tông đồ trong
chức giám mục” (DV 8). Quả thực, dân Chúa, được các mục tử tập hợp lại, gắn bó
với kho tàng thánh thiêng Lời Chúa được ủy thác cho Hội thánh, kiên trì không
ngừng trong giáo huấn của các Tông đồ, trong tình hiệp thông huynh đệ, trong
việc bẻ bánh và trong lời cầu nguyện, “đến nỗi có sự đồng tâm nhất trí lạ lùng
giữa các mục tử và tín hữu đối với việc gìn giữ, thực hành và tuyên xưng đức
tin đã được truyền lại” (DV, 10).
14. Các
mục tử, được Thiên Chúa cắt đặt như “những người bảo vệ, giải thích và chứng
nhân đích thực cho đức tin của toàn thể Hội thánh”[16], nên không sợ lắng nghe đoàn chiên được
giao phó cho mình. Việc thỉnh ý dân Chúa không hàm ý là Hội thánh tiếp
thu những trào lưu dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số, bởi lẽ lý do của việc
tham gia vào mọi tiến trình hiệp hành là niềm khao khát được chia sẻ sứ vụ loan
báo Tin Mừng, chứ không phải là những xung đột lợi ích. Nói khác đi, đây là một
tiến trình mang tính Hội thánh vốn chỉ có thể được thực hiện “giữa lòng một
cộng đồng có cấu trúc phẩm trật”[17]. Chính trong mối liên hệ tích cực giữa
cảm thức đức tin của dân Chúa và chức năng giáo huấn của các mục tử mà sự đồng
tâm nhất trí trong cùng một đức tin của toàn thể Hội thánh được thể hiện. Mọi
tiến trình hiệp hành, trong đó các giám mục được mời gọi phân định những gì
Chúa Thánh Linh nói với Hội thánh, không phải chỉ có các ngài đơn độc, nhưng
bằng cách lắng nghe dân Chúa vốn “cũng tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Đức
Kitô” (LG, 12), đều là hình thức hiển nhiên của việc “cùng nhau gieo bước hành
trình”, nhờ đó Hội thánh lớn mạnh. Thánh Biển Đức lưu ý rằng: “Chúa thường mạc
khải con đường khôn ngoan nhất phải theo”[18] cho những ai không nắm giữ chức vụ
quan trọng trong cộng đoàn (trong trường hợp này, là người trẻ nhất). Như vậy,
các giám mục nên quan tâm tiếp cận với hết mọi người, để trong lúc tuần tự thực
hiện tiến trình hiệp hành, điều Thánh Phaolô Tông đồ khuyến cáo các cộng đoàn
được thể hiện: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri.
Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy” (1 Tx 5,19-21).
15. Ý
nghĩa cuộc hành trình mà tất cả chúng ta được mời gọi thực hiện, trước hết,
chính là ý nghĩa hành trình tái khám phá khuôn mặt và hình thức của một Hội
thánh hiệp hành, trong đó “mỗi người đều có điều gì đó để học biết. Giáo hữu,
giám mục đoàn, giám mục Rôma: tất cả đều lắng nghe nhau, và tất cả đều lắng
nghe Chúa Thánh Thần, ‘Thần Khí sự thật’ (Ga 14,17), để biết ‘điều Thần Khí nói
với các Hội Thánh’ (Kh 2,7)”[19] Vị Giám mục Rôma, như nguyên lý và
nền tảng sự hiệp nhất Giáo hội, yêu cầu tất cả các giám mục và tất cả các Giáo
hội địa phương - trong và từ Giáo hội địa phương này mà có một Giáo hội Công
giáo duy nhất (x. LG, 23) - tự tin và can đảm dấn bước trên con đường hiệp
hành. Trong hành trình “cùng nhau gieo bước hành trình” này, chúng ta cầu xin
Chúa Thánh Thần giúp chúng ta khám phá ra rằng việc hiệp thông, vốn kết hiệp
các ân ban, đặc sủng, và tác vụ khác nhau lại, là để thi hành sứ vụ: Hội thánh
hiệp hành là Hội thánh “ra đi”, Hội thánh truyền giáo là “Hội thánh luôn mở
rộng cửa” (EG, 46). Điều này bao hàm lời mời gọi làm sâu sắc thêm mối tương
quan với các Giáo hội và các cộng đoàn Kitô hữu khác mà chúng ta được liên kết
bởi một Phép Rửa duy nhất. Đàng khác, viễn tượng “cùng nhau gieo bước hành
trình” thì rộng rãi hơn và bao trùm toàn thể nhân loại, trong đó chúng ta cùng
chia sẻ “vui mừng và hy vọng, u sầu và lo âu của con người ngày nay” (GS, 1).
Hội thánh mang tính hiệp hành là dấu chỉ tiên tri, nhất là cho cộng đồng các
quốc gia không có khả năng đề xuất một dự án chung cho phép theo đuổi thiện ích
của mọi người: ngày nay đối với Hội thánh, thực hành tính hiệp hành là phương
thức hiển nhiên nhất để trở thành “bí tích phổ quát của ơn cứu độ” (LG, 48),
“dấu chỉ và phương tiện hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và hợp nhất với
toàn thể nhân loại” (LG, 1).
16. Thần
Khí Thiên Chúa soi sáng và ban sức sống cho việc “cùng nhau gieo bước hành
trình” của các Hội thánh cũng chính là Thần Khí hoạt động trong sứ vụ của Đức
Giêsu, được hứa ban cho các Tông đồ và các thế hệ môn đệ hằng biết lắng nghe
Lời Chúa và đem ra thực hành. Theo lời hứa của Chúa Giêsu, Thần Khí không chỉ
xác nhận tính liên tục của Tin Mừng Chúa Giêsu, mà còn làm sáng tỏ những chiều
sâu luôn mới mẻ trong mạc khải của Ngài và soi dẫn các quyết định cần thiết để trợ
lực Hội thánh trên cuộc hành trình này (x. Ga 14,25-26; 15,26-27; 16,12-15). Do
đó, thật thích đáng khi tiến trình xây dựng Hội thánh hiệp hành được truyền cảm
hứng bởi hai “hình ảnh” trong Kinh Thánh. Hình ảnh đầu tiên hiện lên rõ nét khi
diễn ra “khung cảnh cộng đồng” vốn luôn gắn liền với hành trình loan báo Tin
Mừng; còn hình ảnh kia lại đề cập đến kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần, nhờ đó
Phêrô và cộng đồng sơ khởi nhận ra được nguy cơ của việc đặt ra những hạn chế
phi lý trong việc chia sẻ đức tin. Kinh nghiệm hiệp hành của việc cùng nhau
gieo bước hành trình, khi theo Chúa Giêsu và vâng phục Thần Khí, sẽ có thể nhận
được nguồn cảm hứng mạnh mẽ qua việc suy niệm hai thời điểm này của mạc khải.
Chúa Giêsu, đám đông, các Tông đồ
17. Theo
cách thức Chúa Giêsu vẫn thường tự mạc khải như toàn bộ Tin Mừng cho biết, ta
thấy hiện ra một khung cảnh độc đáo trong cấu trúc cơ bản của mạc khải, khi
Chúa Giêsu loan báo sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa. Khung cảnh này chủ yếu
bao gồm ba tuyến nhân vật (và một tuyến nhân vật thêm vào). Tuyến nhân vật
trước tiên, đương nhiên là Chúa Giêsu, nhân vật chủ đạo tuyệt đối có vai trò
khởi xướng, Ngài rao giảng lời và tỏ lộ những dấu chỉ cho thấy Nước Thiên Chúa
đang đến, “không thiên vị người nào” (x. Cv 10, 34). Bằng nhiều cách, Chúa
Giêsu đặc biệt chú ý đến những người “xa cách” Thiên Chúa và những người bị
cộng đồng “loại trừ” (người tội lỗi và người nghèo, nói theo ngôn ngữ Tin
Mừng). Bằng lời nói và hành động của mình, nhân danh Chúa Cha và trong quyền
năng Chúa Thánh Thần, Ngài ban ơn giải thoát khỏi sự dữ và ơn hoán cải mang lại
niềm hy vọng. Mặc dầu những lời mời gọi của Chúa và những đáp trả của con người
rất đa dạng, nhưng ta thấy có đặc điểm chung này: đức tin luôn nâng cao giá trị
con người. Thật vậy, lời cầu xin của họ được lắng nghe, những khó khăn của họ
nhận được sự trợ giúp, tấm lòng quảng đại sẵn sàng của họ được đề cao, phẩm giá
của họ được Thiên Chúa nhìn nhận và được cộng đồng phục hồi.
18. Trên
thực tế, người ta sẽ không thể hiểu được công cuộc loan báo Tin Mừng và sứ điệp
cứu độ nếu Chúa Giêsu không kiên trì mở ra những cuộc đối thoại với lượng thính
giả đông đảo nhất có thể, mà các sách Tin Mừng gọi là đám đông, nghĩa là toàn
bộ những ai đi theo Ngài và đôi khi, ngay cả đeo đuổi Ngài với hy vọng được một
dấu lạ và một lời cứu độ: đó chính là tuyến nhân vật thứ hai của khung cảnh mạc
khải. Tin Mừng không chỉ được công bố cho một số ít người được soi sáng hoặc
tuyển chọn. Những người đối thoại với Chúa là “dân chúng” trong đời thường, là
“bất cứ ai” mang thân phận con người, được Ngài cho trực tiếp gặp gỡ ân phúc
của Thiên Chúa và lời gọi đến hưởng ơn cứu độ. Bằng cung cách khiến cho những
người chứng kiến phải ngạc nhiên và đôi khi công phẫn, Chúa Giêsu chấp nhận đối
thoại với hết những ai thuộc về đám đông đó: Ngài lắng nghe lời phản bác tha
thiết của người phụ nữ Canaan (x. Mt 15,21-28), không chấp nhận bị loại trừ vì
không được Chúa thi ân; Ngài chẳng ngại bắt chuyện với người phụ nữ Samari (x.
Ga 4,1-42), bất chấp thân phận của nàng vốn bị coi là chẳng ra gì về mặt xã hội
cũng như tôn giáo; Ngài thôi thúc người mù từ bẩm sinh biểu lộ hành vi đức tin
cách tự do và với lòng biết ơn (x. Ga 9) trong khi tôn giáo chính thức đã kể
anh thuộc hạng người vô phúc.
19. Một
số người theo Chúa Giêsu cách minh nhiên hơn, sống đúng ý nghĩa của từ “môn
đệ”, trong khi những người khác lại được khuyên trở về với cuộc sống đời
thường: tuy nhiên, tất cả đều làm chứng rằng chính sức mạnh đức tin đã cứu chữa
họ (x. Mt 15, 28). Trong số những người theo Chúa Giêsu, nổi bật nhất là các
Tông đồ, những người ngay từ đầu Ngài đã đích thân kêu gọi, rồi giao nhiệm vụ
làm trung gian đầy uy thế giữa đám đông dân chúng với mạc khải và sự xuất hiện
của Nước Thiên Chúa. Tuyến nhân vật thứ ba xuất hiện ở khung cảnh này không nhờ
việc chữa lành hay hoán cải, nhưng vì đáp ứng lời kêu gọi của Chúa Giêsu. Việc
tuyển chọn các Tông đồ không phải là đặc ân phong ban một chức quyền với lãnh
địa riêng có tính phân tán mà là ân sủng của một thừa tác vụ ban phúc lành và
tình huynh đệ có tính quy tụ. Nhờ ân huệ Thánh Thần của Chúa Phục Sinh, họ sẽ
bảo toàn địa vị của Chúa Giêsu mà không thay thế Người: không đặt các lăng kính
để lọc bớt sự hiện diện của Người nhưng làm cho việc gặp gỡ Người được trở nên
dễ dàng.
20. Chúa
Giêsu, đám đông đủ mọi hạng người, các tông đồ: đây là hình ảnh và là mầu nhiệm
mà Hội thánh phải không ngừng chiêm ngắm và đào sâu để có thể trở nên chính
mình ngày một hơn. Không một ai trong ba tuyến nhân vật này có thể rời khỏi
khung cảnh mạc khải này. Nếu Đức Giêsu vắng mặt và ai khác thế chỗ, Giáo hội sẽ
trở thành một thứ giao kèo giữa các tông đồ và đám đông, để rồi cuộc đối thoại
của họ sẽ kết thúc bằng những âm mưu của trò chơi chính trị. Nếu không có các
tông đồ, là những người được Chúa Giêsu trao quyền và Chúa Thánh Thần chỉ dạy, thì
mối tương quan với chân lý Tin Mừng sẽ bị phá vỡ và đám đông sẽ chỉ còn thấy
Chúa Giêsu như một huyền thoại hoặc như một ý thức hệ, cho dù họ có đón nhận
hay bác bỏ Ngài. Nếu không có đám đông, mối tương quan giữa các tông đồ và Chúa
Giêsu sẽ suy thoái thành một thứ tôn giáo mang hình thức giáo phái và tự quy
ngã, đồng thời việc loan báo Tin Mừng sẽ mất đi ánh sáng của nó, vốn chỉ đến từ
Thiên Chúa, Đấng tự tỏ mình cho nhân loại và từng người để ban ơn cứu độ cho
họ.
21. Cũng
còn một tuyến nhân vật phản diện “thêm vào”, mang đến khung cảnh này sự chia rẽ
quỷ quyệt giữa ba tuyến nhân vật kia. Trước cảnh gây vấp ngã của thập giá một
số môn đệ bỏ đi, còn đám đông thì nay thế này mai thế khác. Âm mưu gây chia rẽ
- và do đó cản trở con đường chung - cũng bộc lộ dưới những hình thức nghiêm
nhặt của tôn giáo, bó buộc của luân lý còn gắt gao hơn cả lệnh truyền của Chúa
Giêsu, hoặc dưới những hình thức quyến rũ của một thứ khôn ngoan chính trị thế
gian, tự cho là hữu hiệu hơn sự biện phân các thần trí. Để thoát khỏi các mưu
chước lừa dối của “tuyến nhân vật thứ tư” này, cần phải thường xuyên hoán cải.
Biểu trưng cho vấn đề này là câu chuyện về viên đại đội trưởng Cornêliô (x. Cv
10), xảy ra trước “Công đồng” Giêrusalem (x. Cv 15) vốn là điểm tham chiếu chủ
yếu cho Hội thánh hiệp hành.
Một động năng kép của sự hoán cải: Phêrô và Cornêliô (Cv 10)
22. Đoạn
này trước hết tường thuật lại việc hoán cải của Cornêliô, thậm chí ông còn nhận
được một loại “truyền tin”. Cornêliô là người ngoại giáo, dường như là dân
Rôma, một viên bách quản (sĩ quan cấp bậc thấp) của đội quân chiếm đóng, vốn
hay sử dụng bạo lực và lạm quyền. Thế mà ông lại chuyên cần cầu nguyện và hay
bố thí, nghĩa là vun trồng mối tương quan với Thiên Chúa và chăm lo cho người
chung quanh. Một thiên sứ bất ngờ đã đến tư gia, gọi đích danh ông và thúc giục
ông sai phái – động từ chỉ sứ vụ! – gia nhân của mình tới Giaphô để gọi mời –
động từ chỉ ơn gọi! – Tông đồ Phêrô. Câu chuyện sau đó trở thành trình thuật về
việc hoán cải của Tông đồ này. Chính ngày hôm đó, ông Phêrô đã nhận được một
thị kiến: có tiếng nói ra lệnh cho ông giết và ăn các con vật, trong đó có
những loài bị coi là không thanh sạch. Phêrô trả lời dứt khoát: “Lạy
Chúa, không thể được!” (Cv 10, 14). Ông nhận ra chính Chúa đang nói với mình, nhưng
ông vẫn kiên quyết từ khước, vì lệnh này phá bỏ những điều luật của Torah, vốn
là phần cốt yếu đối với căn tính tôn giáo của ông, đồng thời thể hiện cách hiểu
về sự tuyển chọn tạo sự khác biệt, hàm ý phải tách khỏi và loại trừ các dân tộc
khác.
23. Trong
khi Tông đồ Phêrô đang hết sức bối rối và tự hỏi những điều vừa xảy ra có ý
nghĩa gì, thì gia nhân của Cornêliô vừa kịp đến, Thần Khí cho Phêrô biết họ là
những kẻ chính Ngài đã sai đến. Câu Phêrô trả lời họ làm gợi nhớ lời của Chúa
Giêsu ở Vườn Dầu: “Tôi đây chính là người các ông đang tìm” (Cv 10, 21). Đây là
một cuộc hoán cải thực sự, một cuộc vượt qua đau đớn nhưng mang lại vô vàn hoa
trái, ra khỏi những phạm trù văn hóa và tôn giáo của bản thân. Tông đồ Phêrô
chấp nhận ăn chung với dân ngoại thứ thức ăn mà trước đây ngài đã luôn coi là
bị cấm, vì đã nhận ra đó một phương tiện sống và hiệp thông với Thiên Chúa và
tha nhân. Chính trong sự gặp gỡ tha nhân, tiếp đón họ, đồng hành với họ, bước
vào nhà họ mà ngài nhận ra ý nghĩa của thị kiến của mình: không có người nào là
bất xứng dưới mắt Thiên Chúa, và sự khác biệt do được tuyển chọn không hàm ý
một sự ưu tiên mang tính loại trừ, nhưng là việc phục vụ và trở nên chứng tá ở
tầm mức toàn thế giới.
24. Cornêliô
và Tông đồ Phêrô, cả hai cùng lôi kéo người khác vào hành trình hoán cải của
mình, làm họ trở thành bạn đồng hành với mình. Hoạt động tông đồ hoàn thành
thánh ý Thiên Chúa bằng cách tạo ra những cộng đồng, phá bỏ các hàng rào và
thúc đẩy các cuộc gặp gỡ. Lời nói giữ vai trò trung tâm trong cuộc gặp gỡ giữa
hai nhân vật chính. Cornêliô khởi đầu bằng cách chia sẻ kinh nghiệm mình đã
trải qua. Tông đồ Phêrô lắng nghe ông và, đến lượt mình, lại lên tiếng để tường
thuật lại những gì đã xảy ra cho mình, làm chứng sự gần gũi của Chúa, Đấng đến
gặp gỡ từng người để giải thoát họ khỏi những gì cầm giữ họ trong sự dữ và làm
băng hoại nhân tính họ (x. Cv 10, 38). Cung cách thông đạt này cũng tương tự
cung cách Tông đồ Phêrô dùng khi ở Giêrusalem, khi những tín hữu thuộc giới cắt
bì trách cứ ông và tố cáo ông đã vi phạm những quy định truyền thống, là điều
có vẻ họ hết sức lưu ý trong khi chẳng lưu tâm gì đến sự tuôn đổ của Thần Khí:
“Ông đã vào nhà những kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ!” (Cv 11, 3). Vào
thời khắc xung đột đó, Tông đồ Phêrô kể lại những gì đã xảy đến với ông và
những phản ứng hoang mang, bối rối và chống đối của ông. Chính điều này đã giúp
cho những người đang đối thoại với ông, thoạt đầu rất hung hăng và cố chấp,
chịu lắng nghe và đón nhận những gì đã xảy ra. Ở đây Kinh Thánh sẽ góp phần
giải thích ý nghĩa của sự kiện này, cũng như sau đó ở “Công đồng” Giêrusalem,
qua một quá trình biện phân mà điều cốt yếu là cùng nhau lắng nghe Chúa Thánh
Thần.
IV. HIỆP HÀNH BẰNG HÀNH ĐỘNG: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỈNH Ý DÂN CHÚA
25. Nhờ
Lời Chúa soi dẫn và dựa vào Truyền thống, con đường hiệp hành bén rễ sâu vào
đời sống cụ thể của dân Chúa. Trên thực tế, nó cho thấy một đặc điểm và cũng là
một nguồn lực lạ thường: chính tính hiệp hành vừa là mục đích vừa là phương
pháp của con đường hiệp hành này. Nói cách khác, nó thiết lập một loại công
trường hoặc kinh nghiệm dò đường để có thể bắt đầu thu hoạch ngay những hoa
trái của sự năng động mà việc hoán cải tiệm tiến theo hướng hiệp hành mang lại
cho cộng đoàn Kitô hữu. Mặt khác, con đường này chỉ có thể cậy dựa vào những kinh
nghiệm hiệp hành đã trải qua, ở những bình diện khác nhau trong Giáo hội và với
những mức độ cảm xúc khác nhau: những điểm mạnh và thành tựu cũng như những
giới hạn và khó khăn của các kinh nghiệm này mang lại những yếu tố có giá trị
cho việc biện phân hướng đi để tiếp tục lên đường. Dĩ nhiên, ở đây, chúng ta
muốn nói đến những kinh nghiệm do hành trình hiệp hành hiện tại mang lại, nhưng
cũng muốn nói đến tất cả những kinh nghiệm trong đó các hình thức “cùng nhau
cất bước hành trình” đã và đang được trải nghiệm trong đời sống hàng ngày, ngay
cả khi thuật ngữ hiệp hành này không được biết đến hoặc không được sử dụng.
26. Như
đã đề cập ở phần đầu, dưới đây là câu hỏi căn bản hướng dẫn việc thỉnh ý dân
Chúa:
Hội
thánh hiệp hành “cùng nhau cất bước hành trình”, khi loan báo Tin Mừng: Việc
“cùng nhau cất bước hành trình” hiện đang diễn ra thế nào trong Giáo hội địa
phương của anh chị em? Để Hội thánh được lớn lên trong việc “cùng nhau cất bước
hành trình”, Thần Khí đang mời gọi chúng ta thực hiện những bước đi nào?
Để trả
lời, anh chị em được mời gọi:
a) hãy
tự vấn: câu hỏi căn bản trên gợi nhớ những kinh nghiệm nào trong Giáo hội địa
phương của anh chị em;
b) hãy
đọc lại ý nghĩa sâu xa của những kinh nghiệm này: Chúng đã gợi lên niềm vui
nào? Chúng gặp những khó khăn và trở ngại nào? Chúng phơi trần những thương
tích nào? Có thể học được điều gì từ các kinh nghiệm này?
c) hãy
thu thập các thành quả để chia sẻ: Tiếng Chúa Thánh Thần vang dội nơi đâu qua
những kinh nghiệm này? Người đang yêu cầu chúng ta điều gì? Đâu là những điểm
phải khẳng định, những viễn cảnh nên thay đổi, các bước cần thực hiện? Chúng ta
ghi nhận được sự đồng thuận ở những nơi nào? Những nẻo đường nào đang mở ra cho
Giáo hội địa phương của chúng ta?
Các biểu hiện khác nhau của tính hiệp hành
27. Trong
cầu nguyện, suy tư và chia sẻ được câu hỏi căn bản gợi ý, nên ghi nhớ ba bình
diện, trên đó tính hiệp hành được biểu hiện như một “chiều kích cấu thành Giáo
hội”[20].
- Bình
diện phong cách, với phong cách này hằng ngày Giáo hội sống và làm việc, qua đó
thể hiện bản chất của mình là Dân Chúa đang cùng đồng hành và tập họp trong
cộng đoàn do Chúa Giêsu quy tụ nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần để loan báo Tin
Mừng. Phong cách này được thấy rõ qua “việc cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử
hành Bí tích Thánh Thể, tình hiệp thông huynh đệ, tinh thần đồng trách nhiệm và
sự tham gia của toàn thể dân Chúa trong đời sống và sứ vụ, trên mọi cấp độ và
sự khác biệt giữa các thừa tác vụ và các vai trò”[21];
- Bình
diện những cơ cấu của Giáo hội và những quy trình trong Giáo hội, cũng được xác
định theo quan điểm thần học và giáo luật, trong đó bản chất hiệp hành của Giáo
hội được diễn tả theo hướng định chế ở các cấp độ địa phương, vùng miền và hoàn
vũ;
- Bình
diện những diễn trình và sự kiện hiệp hành trong đó Giáo hội được triệu tập bởi
vị hữu trách có thẩm quyền, theo những thủ tục cụ thể do kỷ luật của Giáo hội
xác định.
Mặc dù
xét về quan điểm luận lý, chúng có khác biệt, nhưng ba bình diện này liên kết
với nhau và phải có sự nhất quán với nhau, nếu không sẽ gây ra và lan truyền
những thứ phản chứng khiến cho sự khả tín của Giáo hội bị xói mòn. Trên thực
tế, nếu các cơ cấu và các tiến trình trong Giáo hội không mang phong cách hiệp
hành, thì phong cách này dễ dàng biến chất từ bình diện ý định và ước muốn
thành bình diện khoa trương, trong khi nếu các diễn trình và sự kiện không được
sinh động hóa bởi một phong cách thích hợp, thì chúng sẽ hóa ra những thủ tục
trống rỗng.
28. Hơn
nữa, khi đọc lại kinh nghiệm, cần ghi nhớ rằng có thể hiểu việc “cùng nhau cất
bước hành trình” từ hai viễn tượng khác nhau vốn có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Viễn tượng thứ nhất là nhìn vào đời sống nội bộ của Giáo hội địa phương
và mối tương quan giữa các thành phần tạo thành Giáo hội này (trước hết và trên
hết là giữa các tín hữu và các mục tử, đồng thời qua những tổ chức và hội đoàn
hiện hành được giáo luật quy định, bao gồm cả công nghị giáo phận) và các cộng
đồng (đặc biệt là cộng đồng giáo xứ) nơi có những tổ chức và hội đoàn này. Tiếp
đến là nhìn đến các mối tương quan giữa các giám mục với Giám mục Rôma, đồng
thời qua các cơ cấu trung gian mang tính hiệp hành (các Công nghị của các Giáo
hội Đông phương và Tổng giáo miền chính, các Hội đồng Giáo chủ và Đại hội Giáo
phẩm của các Giáo hội tự trị [sui iuris], các Hội đồng giám mục, với các biểu
thức quốc gia, quốc tế và lục địa của họ). Sau đó mở rộng đến những cách thức
mà mỗi Giáo hội đặc thù dung hợp nơi mình những đóng góp từ các hình thức khác
nhau của đời sống đan sĩ, tu sĩ, và đời sống thánh hiến, của các hiệp hội và
phong trào giáo dân, của nhiều loại cơ sở của Giáo hội (trường học, bệnh viện,
trường đại học, các cơ sở, các tổ chức từ thiện và trợ giúp, v.v…). Cuối cùng,
viễn tượng này cũng bao gồm các mối tương quan và sáng kiến chung với các anh
chị em thuộc các hệ phái Kitô giáo khác mà chúng ta chia sẻ với họ cùng một
hồng ân phép Rửa.
29. Viễn
tượng thứ hai là xem xét cách thức Dân Chúa cùng đồng hành với toàn thể gia
đình nhân loại. Vì vậy, chúng ta sẽ tập trung quan sát tình trạng các mối tương
quan, đối thoại và các sáng kiến chung có thể có với tín đồ các tôn giáo bạn,
với những người xa rời đức tin, cũng như với các môi trường và nhóm xã hội cụ
thể, với các thể chế xã hội (chính trị, văn hóa, kinh tế, tài chính, lao động,
công đoàn và hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và xã hội dân sự,
các phong trào quần chúng, các nhóm thiểu số, người nghèo và người bị loại trừ,
v.v…).
Mười chủ đề cốt lõi cần được khám phá
30. Để
làm nổi bật các kinh nghiệm và để việc thỉnh ý nhận được nhiều đóng góp hơn, chúng
tôi trình bày dưới đây mười chủ đề chính nêu rõ các khía cạnh khác nhau của
việc “sống tinh thần hiệp hành”. Chúng nên được thích ứng với sự đa dạng của
các bối cảnh địa phương và đôi khi, được phối hợp, giải thích, đơn giản hóa và
đào sâu, với sự chú ý đặc biệt đến những người gặp khó khăn trong việc tham gia
và phản hồi: Sổ tay đi kèm với Tài liệu Chuẩn bị này cung cấp các công cụ, lộ
trình và gợi ý để các nhóm câu hỏi khác nhau có thể mang lại những ý tưởng cụ
thể cho những khoảnh khắc cầu nguyện, huấn luyện, suy tư và trao đổi.
I. CÁC
BẠN ĐỒNG HÀNH
Trong
Giáo hội và xã hội, chúng ta sát cánh bên nhau trên cùng một nẻo đường. Trong
Giáo hội địa phương của anh chị em, ai là những người “cùng nhau cất bước hành
trình”? Khi chúng ta nói: “Giáo hội của chúng ta”, Giáo hội này bao gồm những
thành phần nào? Ai yêu cầu chúng ta đồng hành với nhau? Ai là những người đồng
hành trên đường, kể cả những người ở bên ngoài vành đai Giáo hội? Những người
hoặc nhóm nào hiển nhiên hay trên thực tế bị bỏ lại bên lề?
II.
LẮNG NGHE
Lắng
nghe là bước đầu tiên, đòi hỏi khối óc và con tim rộng mở, không thành kiến. Giáo
hội đặc thù của chúng ta “cần lắng nghe” ai? Làm thế nào để thành phần giáo
dân, đặc biệt là giới trẻ và phụ nữ, được lắng nghe? Làm thế nào để đón nhận sự
đóng góp của những người nam và nữ thánh hiến? Đâu là chỗ để những nhóm thiểu
số, những người bị loại bỏ và bị loại trừ cất lên tiếng nói của họ? Chúng ta có
nhận ra những định kiến và khuôn mẫu cản trở chúng ta lắng nghe hay không? Bối
cảnh xã hội và văn hóa trong đó chúng ta đang sống được chúng ta lắng nghe thế
nào?
III.
PHÁT BIỂU
Mọi
người đều được mời gọi can đảm và mạnh dạn (parrhesia) lên tiếng, nghĩa
là, phải bao gồm cả sự tự do, chân lý và bác ái. Làm thế nào để thúc đẩy trong
cộng đồng và các tổ chức của nó một phong cách trao đổi tự do và đích thực,
không giả dối và cơ hội chủ nghĩa? Và trong mối tương quan với xã hội mà chúng
ta là thành phần? Khi nào và cách nào để chúng ta nói lên được những gì là quan
trọng đối với chúng ta? Mối tương quan với hệ thống truyền thông (không chỉ
truyền thông Công giáo) thì thế nào? Ai nói thay cho cộng đồng Kitô hữu, và họ
được chọn ra sao?
IV. CỬ
HÀNH
Chỉ có
thể “cùng nhau cất bước hành trình” khi cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành
Thánh Thể. Làm thế nào để việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ gợi hứng và
hướng dẫn chúng ta “cùng nhau cất bước hành trình”? Làm thế nào để
những việc này truyền cảm hứng cho các quyết định quan trọng nhất? Các tín hữu
được khích lệ ra sao để tích cực tham dự phụng vụ và thi hành chức năng thánh
hóa? Đâu là chỗ dành cho việc thi hành các thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ?
V. ĐỒNG
TRÁCH NHIỆM TRONG SỨ VỤ
Sự hiệp
hành là để phục vụ sứ mạng của Hội thánh, mọi thành viên trong Hội thánh đều
được mời gọi tham gia vào sứ mạng này. Vì tất cả chúng ta đều là môn
đệ truyền giáo, mỗi người đã lãnh phép Rửa được kêu gọi trở thành chủ thể tích
cực trong sứ vụ này như thế nào? Làm thế nào để cộng đồng hỗ trợ các thành viên
của mình dấn thân phục vụ xã hội (công tác xã hội và hoạt động chính trị, nghiên
cứu khoa học và giảng dạy, thúc đẩy công bằng xã hội, bảo vệ nhân quyền và chăm
sóc ngôi nhà chung, v.v…)? Anh chị em giúp họ thế nào trong việc sống những dấn
thân này theo đòi hỏi của sứ vụ? Sự biện phân các lựa chọn liên quan đến sứ
mạng được thực hiện như thế nào và ai tham gia vào đó? Theo quan điểm của một
chứng tá Kitô hữu đích thực, các truyền thống khác nhau mang phong cách hiệp
hành, vốn tạo nên di sản của nhiều Giáo hội, đặc biệt là các Giáo hội Đông
phương, được hội nhập và thích nghi như thế nào? Sự cộng tác diễn ra như thế
nào trong các lãnh thổ có sự hiện diện của các Giáo hội tự trị [sui iuris]
khác nhau?
VI. ĐỐI
THOẠI TRONG GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI
Đối
thoại là con đường kiên trì bao gồm cả những lúc im lặng và chấp nhận đau khổ,
nhưng lại có khả năng thu thập kinh nghiệm của con người và các dân tộc. Đâu
là nơi chốn và phương thức đối thoại trong Giáo hội địa phương của chúng ta?
Những khác biệt về quan điểm, những xung đột, và những khó khăn được giải quyết
như thế nào? Làm thế nào để thúc đẩy sự cộng tác với các giáo phận lân cận, với
và giữa các dòng tu trong khu vực, với và giữa các hiệp hội và phong trào giáo
dân, v.v…? Đối với các tín đồ của các tôn giáo khác và với những người ngoại
đạo, chúng ta có những kinh nghiệm nào về đối thoại và dấn thân chia sẻ? Làm
thế nào để giáo hội đối thoại với và học hỏi từ các bộ phận khác trong xã hội:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội dân sự, người nghèo…?
VII.
VỚI CÁC HỆ PHÁI KITÔ GIÁO KHÁC
Cuộc
đối thoại giữa những Kitô hữu thuộc các tín phái khác nhau, được liên kết bởi
cùng một phép Rửa, có một vị trí đặc biệt trong hành trình hiệp hành. Chúng
ta có những mối liên hệ nào với anh chị em của các tông phái Kitô giáo khác? Họ
quan tâm đến lĩnh vực nào? Chúng ta đã từng rút ra được những thành quả nào từ
việc “cùng nhau cất bước hành trình”? Có những khó khăn nào?
VIII.
THẨM QUYỀN VÀ THAM GIA
Hội
thánh hiệp hành là Hội thánh tham gia và đồng trách nhiệm. Làm
thế nào để chúng ta xác định được mục tiêu phải theo đuổi, cách thức đạt được
chúng và các bước cần thực hiện? Giáo hội địa phương của chúng ta hành xử quyền
bính như thế nào? Cách làm việc theo nhóm và tinh thần đồng trách nhiệm được
thực hiện ra sao? Các thừa tác vụ giáo dân và việc đảm nhận trách nhiệm của các
tín hữu được thúc đẩy như thế nào? Các tổ chức hiệp hành hoạt động như thế nào
ở cấp giáo hội địa phương? Chúng có phải là một kinh nghiệm hữu hiệu không?
IX.
BIỆN PHÂN VÀ QUYẾT ĐỊNH
Theo
phong cách hiệp hành, các quyết định có được qua việc biện phân, dựa trên sự
đồng thuận xuất phát từ lòng vâng phục Thần Khí của cả cộng đoàn. Chúng
ta cùng nhau biện phân và đưa ra quyết định bằng những thủ tục và phương pháp
nào? Có thể cải thiện chúng như thế nào? Chúng ta thúc đẩy sự tham gia vào diễn
trình đưa ra quyết định trong các cộng đồng có cơ cấu phẩm trật như thế nào?
Làm thế nào để chúng ta nối kết giai đoạn thỉnh ý với giai đoạn thảo luận, diễn
trình ra quyết định với thời điểm lấy quyết định? Chúng ta thúc đẩy tính minh
bạch và trách nhiệm giải trình thế nào và bằng những công cụ nào?
X. TỰ
ĐÀO TẠO TRONG TIẾN TRÌNH HIỆP HÀNH
Linh
đạo cùng nhau cất bước hành trình cần trở thành nguyên tắc giáo dục để huấn
luyện con người nhân bản và con người Kitô hữu, con người của gia đình và con
người của cộng đồng. Phải đào tạo ra sao, đặc biệt là những người gánh vác
trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, để họ có thêm khả năng trong việc “cùng
nhau cất bước hành trình”, lắng nghe nhau và tham gia đối thoại? Chúng ta đào
tạo thế nào để giúp họ biện phân và thực thi quyền bính? Những công cụ nào giúp
chúng ta nhận biết tính năng động của nền văn hóa đang bao trùm chúng ta và tác
động của chúng đối với phong cách của Giáo hội chúng ta?
31. Giai
đoạn đầu tiên của hành trình hiệp hành nhằm thúc đẩy một diễn trình thỉnh ý
rộng rãi để thu thập vô số các kinh nghiệm trong việc sống tinh thần hiệp hành,
theo những cách trình bày và khía cạnh khác nhau của chúng, liên quan đến các
mục tử và tín hữu của các Giáo hội đặc thù trên mọi bình diện khác nhau, thông
qua những phương thế thích hợp nhất tùy theo thực tế địa phương: cuộc thỉnh ý,
do giám mục điều phối, được triển khai đến “các linh mục, phó tế và giáo dân
trong các Giáo hội [địa phương], hoặc theo tư cách cá nhân hoặc trong các hiệp
hội, không bỏ qua sự đóng góp quý giá mà những người nam và nữ thánh hiến có
thể cống hiến”(EC, số 7). Đặc biệt yêu cầu sự đóng góp của các tổ chức và hội
đoàn hiện hành trong các Giáo hội [địa phương] nhất là của hội đồng linh mục và
hội đồng mục vụ, từ sự đóng góp đó “có thể [thực sự] bắt đầu hình thành một Hội
thánh hiệp hành”.[22] Sự đóng góp của các thực thể giáo
hội khác mà Tài liệu chuẩn bị sẽ được gửi đến, cũng như của những người muốn
gửi trực tiếp ý kiến của mình sẽ có giá trị ngang nhau. Cuối cùng, điều quan
trọng cơ bản là những người nghèo và người bị loại trừ cũng được cất lên tiếng
nói của mình, chứ không chỉ những người có vai trò hoặc trách nhiệm nào đó
trong các Giáo hội [địa phương].
32. Bản
tổng hợp mà mỗi Giáo hội đặc thù soạn thảo khi kết thúc công cuộc lắng nghe và
biện phân này chính là sự đóng góp của mỗi Giáo hội [địa phương] cho diễn trình
hiệp hành của Giáo hội hoàn vũ. Để các giai đoạn tiếp theo của tiến trình này
được dễ dàng và bền vững hơn, điều quan trọng là phải cô đọng các thành quả của
sự cầu nguyện và suy tư trong tối đa mười trang giấy. Nếu cần phải trình bày
bối cảnh và giải thích chúng rõ hơn, có thể đính kèm các văn bản hỗ trợ hoặc bổ
sung khác. Hãy nhớ rằng mục đích của Thượng Hội đồng, và do đó của cuộc thỉnh ý
này, không nhằm tạo ra các tài liệu, mà là “để gieo mầm ước mơ, rút ra các lời
tiên tri và thị kiến, cho phép hy vọng nảy nở, khơi dậy niềm tin, băng bó các
vết thương, cùng nhau đan kết các mối tương quan, đánh thức bình minh hy vọng,
học hỏi lẫn nhau và mang lại một khả năng sáng tạo giúp khai mở trí tuệ, sưởi
ấm trái tim, tiếp thêm sức mạnh cho đôi tay”.[23]
Bản
dịch của nhóm dịch thuật HĐGMVN
Tải tài
liệu về tại đây: file
PDF, file
Word
[1] Sơ
đồ các giai đoạn của tiến trình hiệp hành
[2] Phanxicô,
Diễn từ mừng Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng giám mục (17.10.2015).
[3] X. www.synod.va
[4] Phanxicô,
Thư gởi dân Chúa (20.08.2018), lời ngỏ.
[5] Ibid,
số 2.
[6] Ibid.
[7] Ibid.
[8] Phanxicô,
Diễn từ mừng Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng giám mục.
[9] ITC,
Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh (02.03.2018), số 3.
[10] Ibid.
[11] Ibid.
số 6.
[12] Cyprian,
Lời cầu nguyện của Chúa, 23.
[13] Augustin,
Thư 194, 31.
[14] John
Chrysostom, Chú giải Thánh vịnh 149.
[15] ITC,
Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh, số 6.
[16] Phanxicô,
Diễn từ tại buổi lễ kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng giám mục.
[17] ITC,
Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh, số 69.
[18] Biển
Đức, Quy luật, 3.3.
[19] Phanxicô,
Diễn từ mừng Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng giám mục.
[20] ITC,
Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh, số 70.
[21] Ibid.
[22] Phanxicô,
Diễn từ mừng Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng giám mục.
[23] Phanxicô,
Diễn từ tại buổi lễ kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng hội đồng giám mục.