Huấn thị về cầu nguyện xin chữa lành bệnh
Thánh bộ Tín lý
I. Những khía cạnh tín
lý
1. Bệnh tật và chữa
lành: ý nghĩa và giá trị của chúng trong chương trình cứu độ
“Con
người hướng đến hoan lạc, nhưng ngày ngày nó kinh qua nhiều thứ khổ đau.” Về việc
này, trong những lời hứa cứu chuộc của Ngài, Chúa loan báo niềm hân hoan tâm hồn
liên hệ đến sự giải thoát khỏi khổ đau (x. Is 30,29; 35,10; Br 4,29). Thật thế,
Ngài là ‘Đấng cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ’ (Kn 16,8). Trong muôn ngàn khổ đau,
những khổ đau bệnh tật là một thực tại luôn hiện diện trong lịch sử con người
và cũng là điều mà con người mong được giải thoát.
Trong
Cựu Ước, “
Tuy
nhiên bệnh tật cũng đến với người công chính, và con người thắc mắc đặt vấn đề
tại sao. Vấn nạn này lặp lại nhiều lần trong các trang sách Gióp. “Nếu đau khổ
có ý nghĩa liên quan đến hình phạt về một lỗi lầm nào đó, là đúng, thì ngược lại
xem tất cả mọi khổ đau là hậu quả của một lỗi lầm và luôn có đặc tính là hình
phạt, thì đó là điều sai. Hình ảnh Gióp, người công chính, là một chứng cớ đặc
biệt trong Cựu Ước… Và nếu Chúa đồng ý thử thách Gióp phải trải qua cơn đau khổ,
thì vì để chứng minh sự công chính của ông ấy. Khổ đau có một đặc tính thử
thách.”
Đau
yếu luôn là một điều tiêu cực, dẫu nó có nét tích cực như để minh chứng sự
trung thành của người công chính, như là phương cách để phục hồi sự công chính
mà tội lỗi đã vi phạm, và cũng như là phương thế để hối thúc người có tội cải hối.
Cũng vì nét tiêu cực như thế của khổ đau mà tiên tri loan báo thời không còn bệnh
tật, thời mà cuộc sống không bị vương mắc bởi bệnh đem đến tử vong (x. Is
35,5-6; 65,19-20).
Nhưng
thắc mắc tại sao bệnh tật lại xảy đến cho người công chính, ta sẽ có giải đáp
trong Tân Ước. Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, những tiếp xúc với người
bệnh không phải lúc này lúc kia, nhưng là liên tục. Ngài chữa lành cho nhiều
người một cách lạ lùng đến độ những việc chữa lành lạ lùng như thế là nét đặc
trưng của sinh hoạt của Ngài: “Chúa Giêsu rảo khắp các thành, các làng, giảng dạy
trong các nhà hội, tuyên dương Tin Mừng Nước Chúa và chữa lành mọi bệnh tật và
bại liệt.” (Mt 9,35; x. 4,23). Những việc chữa lành là dấu chỉ của sứ mạnh cứu
độ của Ngài (x. Lc 7,20-23). Chúng thể hiện chiến thắng của quyền uy Thiên Chúa
trên mọi sự dữ và trở thành biểu tượng cho việc cứu chữa con người toàn diện,
linh hồn và thể xác. Thật vậy, chúng cho thấy Chúa Giêsu có quyền năng để tha tội
(x. Mc 2,1-12), chúng là dấu chỉ của những ơn ích cứu độ, như việc chữa lành
người bại liệt ở Bethzatha (x. Ga 5,2-9. 19-21) và người mù từ thủa mới sinh
(x. Ga 9).
Theo
Tân Ước, thì ngay vào thời đầu Kitô giáo, có những việc chữa lành bệnh tật xác
thực quyền năng công cuộc loan báo Phúc Âm. Chúa Giêsu phục sinh đã hứa như thế
và những cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên đã thấy thực hiện giữa họ: “Và có những dấu
chỉ xảy đến cho những người tin… họ đặt tay trên các người bệnh và các người
này được chữa lành” (Mc 16,17-18). Philipphê rao giảng ở
Thánh
Phaolô trình bày Phúc Âm bằng những lời loan truyền xuyên kèm theo những dấu chỉ
và những điều lạ lùng được thực hiện nhờ quyền năng Thánh Thần: “Tôi làm sao
dám bỏ qua không nói đến những gì Đức Kitô đã làm nơi tôi nhằm làm cho dân ngoại
tuân phục qua lời nói cũng như trong việc làm, bằng sức mạnh của các dấu chỉ và
các việc lạ lùng, bằng sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa” (Rm 15,18-19; x. 1
Tm 1,5; 1 Cr 2,4-5). Và dĩ nhiên những dấu chỉ và những việc lạ lùng tỏ bày quyền
năng Thiên Chúa hỗ trợ lời giảng dạy như thế phần lớn là những phép lạ chữa
lành bệnh tật. Và những việc lạ lùng đó không phải chỉ dành cho vị Tông Đồ,
nhưng thể hiện ở giữa những người tín hữu nữa: “ Người đổ ơn Thánh Thần cho anh
em và thực hiện được những phép lạ giữa anh em, người ấy làm việc đó vì anh em
thực thi Lề Luật hay là vì anh em tin vào lời rao giảng?” (Gl 3,5).
Chiến
thắng cứu độ mà Chúa Kitô mang lại trên bệnh tật và trên những khổ đau khác
không phải chỉ liên quan đến phép lạ chữa hết bệnh, nhưng còn là việc làm cho mỗi
người chúng ta được tham dự khổ nạn tự ý và vô tội của Đức Kitô. Thật thế,
Chính Đức Kito,â vốn vô tội, đã chịu mọi thứ đau khổ và dằn vặt trong cơn khổ nạn
của Ngài, mang hết nỗi khốn cùng của mọi người: Ngài hoàn tất điều mà tiên tri
Isaia đã nói về Ngài (x. Is 53,4-5). Ngoài ra: “Nơi Thánh Giá Chúa Kitô, không
những ơn cứu chuộc hoàn thành nhờ khổ đau, mà chính khổ đau của con người được
cứu chuộc… Khi thực hiện sự cứu chuộc bằng khổ đau, Chúa Kitô còn nâng khổ đau
của con người lên đến mức ban cho khổ đau ấy giá trị Cứu Độ. Trong khổ đau, mọi
người có thể tham dự vào khổ đau cứu chuộc của Chúa Kitô.”
Giáo
hội tiếp đón người bệnh tật không phải vì lo âu thương mến mà thôi, nhưng nhận
ra nơi họ ơn gọi làm người và làm kitô hữu, tham gia vào việc hoàn thành Nước
Chúa dưới nhiều phương cách khác nhau, và có lẽ đây là cách quí giá nhất. Những
lời nói của tông đồ Phaolô phải là chương trình sống của họ, và trước hết những
lời ấy phải là ánh sáng soi dọi cho họ thấy ý nghĩa của khổ đau: ”Tôi hoàn
thành nơi thể xác tôi những gì còn thiếu nơi những thử thách của Chúa Kitô cho
thân thể Ngài là Giáo hội’ (Cl 1,24)”. Đây là niềm hân hoan phục sinh, hoa trái
của Thánh Thần. Như thánh Phaolô đã nói “nhiều người bệnh có thể trở nên kẻ
mang lại ‘nguồn vui của Thánh Thần giữa những cơn thử thách của họ’ (1 Tx 1,6)
và là chứng nhân sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.”
2. Mong được chữa lành và
cầu xin để được ơn ấy
Luôn
vâng theo ý Chúa, nhưng ước mong của người bị bệnh mong được lành bệnh là một
điều tốt và nằm trong bản tính con người, nhất là khi được diễn tả qua lời cầu
nguyện khẩn thiết kêu đến Chúa. Tác giả Sách Huấn Ca khuyên cầu xin với lời lẽ
như sau: “Hỡi con, khi con bị bệnh thì đừng bực tức, nhưng cầu xin Chúa và Ngài
sẽ chữa lành con” (Hc 38,9). Nhiều thánh vịnh ghi lại lời cầu xin chữa lành bệnh
(x. Tv 6,37; 40; 87).
Trong
thời gian hoạt động công khai của Chúa Giêsu, nhiều người bệnh chạy đến Ngài,
trực tiếp hoặc qua trung gian bạn bè hay người phối ngẫu, để xin cho mình được
lành bệnh. Chúa nhận lời cầu xin, và các bản Phúc Âm không ghi lại có một lần
nào Ngài đã quở trách việc này. Chỉ có một lần Chúa phàn nàn nhân có người có vẻ
thiếu lòng tin: “Ngươi có thể được chứ! Ai tin đều có thể được” (Mc 9,23; x. Mc
6,5-6; Ga 4,48).
Không
những việc người tín hữu cầu xin cho mình hoặc cho người khác là việc làm đáng
khen, nhưng trong phụng vụ Giáo hội cầu xin Chúa người bệnh được lành. Trước hết,
Giáo hội có một bí tích “đặc biệt nhằm hồi sức cho những ai đang bị thử thách
vì bệnh hoạn: bí tích xức dầu cho bệnh nhân.” Qua bí tích này và qua lời cầu
nguyện của linh mục, “toàn thể Giáo hội trao phó người bệnh cho Chúa, Đấùng từng
chịu khổ đau và được hiển vinh, để Ngài uỉ an và cứu chữa”. Trong lúc làm phép
dầu thánh, Giáo hội cũng đã cầu xin: “Xin Chúa gửi Thánh Thần, Đấng thánh hoá
xuống trên dầu này. Nhờ Chúa chúc lành, dầu này trở nên dầu thánh mà chúng con
nhận nơi Chúa. Nó sẽ dùng để xức cho bệnh nhân X., người anh em chúng con, để
nâng đỡ thân xác, linh hồn và thần trí người ấy khỏi khổ đau và bệnh hoạn.” Tiếp
đó, trong hai lời cầu nguyện sau khi xức dầu, người ta còn xin cho người bệnh
được chữa lành. Việc làm đó cho thấy bí tích xức dầu là dấu chỉ và lời hứa về
triều đại tương lai, loan báo sự phục sinh, khi ‘sẽ không con có sự chết; sẽ
không còn khóc than và cực nhọc, vì thế giới cũ đã không còn’ (Kh 21,4). Ngoài
ra, Sách Lễ Rôma còn có lễ ‘pro infirmis’ (cầu cho người bệnh), và ngoài việc cầu
xin ơn thiêng liêng, người ta cầu xin cho bệnh nhân được sức khỏe.
Về
các nghi thức chúc lành của Nghi Lễ Rôma có nghi thức chúc lành bệnh nhân,
trong đó có những bản kinh khác nhau để cầu xin chữa lành: trong bản hai của
các Lời Kinh, trong bốn Lời nguyện xin chúc lành cho người lớn, trong hai Lời
nguyện xin chúc lành cho trẻ con, trong kinh của Nghi thức tóm gọn (Ritus
brevrior).
Hẳn
nhiên, việc cầu xin không bỏ qua, nhưng khuyến khích phải chạy thầy chạy thuốc
theo phương tiện tự nhiên nhằm bảo vệ và phục hoạt sức khỏe. Việc cầu nguyện
còn thúc đẩy con cái của Giáo hội lo chăn sóc cho bệnh nhân và tìm cách xoa dịu
đớn đau thân xác cũng như an ủi tinh thần, nhằm vượt thắng cơn bệnh. Thật thế,
“Ý định của Thiên Chúa muốn con người phải tận lực chống bệnh, gìn giữ sức khỏe
để có thể chu toàn đầy đủ phận vụ của mình trong xã hội và trong Giáo hội.”
3. Đoàn sủng chữa lành
bệnh trong Tân Ước
Không
những các phép lạ chữa lành bệnh xác thực quyền năng của việc truyền bá Phúc Âm
thời các thánh Tông Đồ, nhưng Tân Ước cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã trao quyền
năng chữa bệnh cho các tông đồ và những người đầu tiên rao truyền Phúc Âm. Theo
Phúc Âm của Mat-thêu và của Luca thì khi gửi mười hai môn đệ đi sứ vụ lần đầu,
Chúa cho “họ quyền chế ngự các tà khí để trục xuất chúng và chữa lành mọi bệnh
tật và bại liệt” (Mt 10,1; x. Lc 9,1), và bảo họ: “Anh em hãy chữa lành các người
bệnh, làm cho người chết sống lại, thanh tẩy người bệnh phong, đánh đuổi tà ma”
(Mt 10,8). Ngài cũng dạy bảy mươi hai môn đệ phải thi hành lịnh Ngài trong sứ vụ
của họ: ”Hãy chữa lành các người bệnh” (Lc 10,9). Quyền phép này được trao cho
họ trong một bối cảnh công tác, không phải để đề cao cá nhân, nhưng để cũng cố
sự vụ của họ.
Sách
Công Vụ Tông Đồ kể lại một cách chung những việc lạ lùng mà các tông đồ đã thực
hiện: “Nhiều việc lạ và dấu chỉ đã được các Tông đồ thực hiện” (Cv 2,43; x.
5,12). Các dấu chỉ và sự lạ này là những sự kiện lạ lùng cho thấy rõ chân lý và
sức mạnh của sứ vụ họ đang theo đuổi. Nhưng ngoài những lần kể đến sự việc một
cách chung như thế, Sách Công Vụ lại hay chép lại những phép lạ mà các cá nhân
đi rao giảng Phúc Âm đã làm để chữa bệnh:Stêphanô (x. Cv 6,8), Philipphê (x. Cv
8,6-7) và nhất là Phêrô (x. Cv 3,1-10; 5,15; 9,33-34, 40-41) và Phaolô (Cv
14,3. 8-10; 15,12; 19,11-12; 20,9-10; 28,8-9).
Như
đã nói đến ở phần trên, đoạn cuối Phúc Âm Marcô và Thư thánh Phaolô gửi người
Galata mở ra một lối nhìn mới, không giới hạn các phép lạ chữa lành bệnh nơi
sinh hoạt của các tông đồ và một vài người rao giảng Phúc Âm có vai trò quan trọng
trong đợt truyền bá Phúc Âm thời khởi thủy. Theo lối nhìn đó thì những ám chỉ về
‘đoàn sủng chữa lành bệnh’ (x. 1 Cr 12,9 . 28. 30) có một tầm quan trọng đặc biệt.
Ý nghĩa rộng của chữ ‘charisma’ là ‘ân huệ’; và trong trường hợp này là ‘ơn nhận
được để chữa lành bệnh’. Những ân sủng đó, ở vào số nhiều, lại ban cho một người
(x. 1 Cr 12,9). Ở đây, đừng nên hiểu theo nghĩa là nhiều ơn chữa lành đổ xuống
cho sức khỏe của một người, nhưng nhiều ơn chữa lành mà người nào đó nhận được
để chữa lành kẻ khác. Ơn này được ban xuống ‘trong cùng một Thánh Thần’, nhưng
không nói rõ bằng cách nào người ta có được ơn ấy. Phải chăng là nhờ cầu nguyện,
và có thể có thêm một vài cử chỉ tượng trưng đi theo!
Thánh
Giacôbê, trong thư của Ngài, có nói đến một sự can thiệp của Giáo hội qua các
niên trưởng của cộng đoàn để lo cho sự an lành của các người bệnh. Nhưng không
nói là những phép lạ chữa lành bệnh nhân: bối cảnh này không giống với bối cảnh
của các ‘đoàn sủng chữa lành bệnh’ trong 1 Cr 12,9. “Giữa anh em có ai đau yếu
ư? Người ấy nên kêu đến các vị niên trưởng của Giáo hội và họ hãy xức dầu nhân
danh Chúa và cầu nguyện trên người ấy. Cầu nguyện với lòng tin sẽ cứu người bệnh
và Chúa sẽ phục hồi cho người ấy. Nếu người đó đã phạm tội, thì họ hãy xóa giải
cho y” (Gc 5,14-15). Đây là một tác động bí tích: việc xức dầu cho bệnh nhân và
cầu nguyện trên người ấy, chứ không phải chỉ ‘cho người ấy’. Đây là một tác động
hữu hiệu trên bệnh nhân chứ không phải chỉ là một lời cầu xin mà thôi. Những động
từ ‘sẽ cứu’ và ‘sẽ phục hồi’ hẳn nhiên không phải chỉ gợi lên việc chữa lành
thân xác, nhưng một cách nào đó có nói đến việc này. Động từ ‘cứu’ dù được dùng
ở các nơi khác trong bức thư theo nghĩa là cứu độ thiêng liêng (x. 1,21; 2,14;
4,12; 5,20), nhưng trong Tân Ước cũng còn được dùng theo nghĩa ‘chữa bệnh’ (x.
Mt 9,21; Mc 5,28 . 34; 6,56; 10,52; Lc 8,48); động từ thứ hai, mặc dầu đôi khi
có nghĩa là ‘chỗi dậy’ (x. Mt 10,8; 11,5; 14,2), lại cũng được dùng để nói đến
cử chỉ làm cho người đang liệt giường ‘vươn mình dậy’ kà được chữa lành bệnh một
cách lạ lùng (x. Mt 9,5; Mc 1,31;9,27; Cv 3,7).
4. Các kinh nguyện để
xin Chúa chữa lành bệnh tật
Các
giáo phụ cho rằng tín hữu cầu xin Chúa, không những ban sức khỏe phần hồn, mà
phần xác nữa, là việc làm chính đáng. Thánh Augustinô đã từng viết về ơn ích của
đời sống, sức khỏe và thân xác lành mạnh: “Cần phải cầu xin cho chúng được an
lành, nếu ta đang được, và nếu không được thì cầu xin Chúa ban cho”. Vị giáo phụ
này đã để lại cho chúng ta nhân chứng về một phép lạ chữa lành bệnh cho một người
bạn tại nhà ngài, nhờ lời cầu nguyện của một giám mục, một linh mục và vài thầy
sáu.
Các
nghi lễ phụng vụ đông cũng như tây đã cho chúng ta những chứng liệu về hướng ấy.
Trong một kinh cầu sau hiệp lễ, người ta xin: “Lạy Chúa, xin ơn của việc hiệp lễ
này thấm nhập tâm trí và thể xác chúng con.” Trong phụng vụ trọng thể ngày Thứ
Sáu tuần thánh, mọi người được kêu mời để cầu xin Chúa Toàn Năng “cất khỏi bệnh
tật…và ban cho người bệnh được an lành.” Đặc biệt hơn cả là bản văn làm phép dầu
bệnh nhân. Người ta xin Chúa đổ tràn ơn lành để nâng đỡ thể xác, linh hồn và thần
trí của những người sẽ tiếp nhận “khỏi mọi khổ đau và bệnh hoạn, mọi căn bệnh của
đời sống thể xác tinh thần và thiêng liêng.”
Những
lối nói nơi các nghi lễ đông phương về xức dầu bệnh nhân cũng không khác biệt.
Chúng tôi chỉ nêu lên một vài chỗ đáng ghi nhận hơn cả. Khi xức dầu bệnh nhân,
nghi lễ Byzantin có kinh này: “Lạy Cha chí thánh, là thầy thuốc các linh hồn và
thể xác, Cha đã gửi Người Con duy nhất của Cha là Đức Giêsu Kitô, để chữa lành
mọi bệnh tật và giải thoát chúng con khỏi sự chết, xin Cha cũng chữa lành cho
tôi tớ Cha đây khỏi bệnh thân xác và tinh thần đang đè nặng trên mình, nhờ ơn
Chúa Kitô của Cha.” Trong nghi lễ Copte, người ta xin Chúa chúc lành dầu để tất
cả những ai sẽ nhận lãnh có thể được an lành về tinh thần và thể xác. Và lúc xức
dầu cho bệnh nhân, các linh mục kêu đến Chúa Giêsu Kitô, Đấng được gửi đến thế
gian “để chữa lành mọi bệnh tật và cứu khỏi phải chết” và xin Thiên Chúa “chữa
lành bệnh nhân khỏi bệnh thân xác và cho người ấy bước đi trên đường ngay
chính.”
5. ‘Đoàn sủng chữa lành
bệnh’ trong bối cảnh ngày nay
Lịch
sử Giáo hội không thiếu những vị thánh có ơn làm phép lạ chữa lành bệnh. Hiện
tượng đó không giới hạn vào thời các Tông đồ. Tuy nhiên, ‘đoàn sủng chữa lành bệnh’
mà nay cần có một số chỉ dẫn về tín lý, không nằm trong các hiện tuợng làm phép
lạ như thế. Vấn đề được đề cập sẽ liên hệ đến những cuộc tụ tập cầu nguyện với
chủ tâm xin ơn chữa lành lạ lùng cho người bệnh, hoặc các lối cầu nguyện sau phần
hiệp lễ nhằm mục đích này.
Những
phép lạ chữa lành bệnh tại các nơi cầu nguyện (các thánh địa, cạnh các thánh di
của các vị tử đạo hoặc các thánh khác…) rất nhiều và được lịch sử Giao hội ghi
nhận. Vào thời thượng cổ và trung cổ, các phép lạ như thế lôi kéo những cuộc
hành hương đến một số thánh địa như thánh địa Thánh Martinô thành
Về
những gì liên quan đến các cuộc tụ họp cầu kinh với mục đích rõ ràng là xin ơn
chữa lành – mục tiêu nếu không chiếm trọn chương trình thì ít nhất cũng chi phối
chương trình cầu nguyện ấy -, thì nên phân biệt những cuộc tụ họp có thể làm ta
nghĩ đến một ‘đoàn sủng chữa lành bệnh’, và những cuộc tụ họp khác không có
liên hệ gì đến một đoàn sủng như thế. Muốn nói đến một đoàn sủng chữa lành bệnh,
thì phải có sự can thiệp của một hay nhiều người, chẳng hạn những người lãnh đạo
nhóm vận động cuộc tụ họp, như là tác năng quyết định về sự hữu hiệu của việc cầu
xin. Nếu không liên hệ gì với ‘đoàn sủng chữa lành bệnh’, thì hẳn nhiên những
việc cử hành được tiên liệu trong các sách phụng vụ, một khi được thực hiện
đúng theo qui luật, thì được phép và nên làm, như trường hợp thánh lễ ‘cho người
bệnh’. Nếu các việc cử hành đã tiên liệu trong các sách phụng vụ nhưng không
tuân theo qui luật phụng vụ, thì thiếu phần chính đáng.
Trong
các thánh địa cũng có những cử hành khác, không nhằm mục đích riêng là cầu xin
Chúa những ơn phép lạ chữa lành bệnh, nhưng thể theo ý của những người tổ chức
và người tham dự, thì một phần nào đó của mục tiêu tụ họp lại có nhắc đến; về
việc này, người ta tổ chức những cử hành phụng vụ, chẳng hạn chầu Mình Thánh
Chúa và phép lành, hoặc những cử hành không có tính cách phụng vụ, nhưng do
lòng sùng mộ dân gian được Giáo hội khuyến khích, như lần hạt chung. Những cử
hành này cũng chính đáng, miễn là đừng méo mó ý nghĩa chân thực của chúng. Chẳng
hạn, không nên nêu lên mục tiêu tối hậu là xin chữa lành bệnh mà làm sai lệch cứu
cánh riêng của việc chầu Mình Thánh Chúa; kỳ thực, việc chầu Mình Thánh Chúa
giúp tín hữu nhìn nhận sự hiện diện lạ lùng của Chúa Kitô và kêu mời họ kết hợp
với Ngài trong lòng mình bằng mối giây liên kết cao độ nơi mối hiệp thông bí
tích Thánh Thể.
Không
thể xếp một lớp người tín hữu nhất định nào đó có ‘đoàn sủng chữa lành bệnh’.
Thật vậy, thánh Phaolô nói đến nhiều đoàn sủng khác nhau trong 1 Cr 12, nhưng
không nói nhóm người riêng được ơn về các ‘đoàn sủng chữa lành bệnh’ (như các
nhóm Tông đồ, tiên tri, giảng dạy, điều khiển hoặc này khác); và ngài đi ngay
vào một lối suy nghĩ khác chi phối việc Thánh Thần cấp ban: “Nhưng những điều ấy
đều do một thánh Thần duy nhất tác động, ban phát các ơn của Ngài cho mỗi người
riêng tùy ý Ngài” (1 Cr 12,11). Vì thế, trong các cuộc tụ tập cầu nguyện được tổ
chức để xin Chúa ban ơn chữa lành, gán cho một nhóm người tham dự nào đó ‘đoàn
sủng chữa lành’ – (như những người điều hành nhóm) - là việc làm hồ đồ; chỉ có
thể cậy trông vào ý muốn tối thượng của Thánh Thần, tùy Ngài ban cho một vài
người nào bất kỳ ơn đặc biệt chữa lành để thể hiện sức mạnh của ân sủng của
Chúa Phục Sinh. Tuy nhiên, ngay cả những lời cầu khẩn có sốt sắng cách mấy thì
cũng không đương nhiên được ơn chữa lành tất cả các bệnh tật. Thánh Phaolô lấy
Lời Chúa để nhắc nhỡ: ”Ơn của Ta đủ cho con; vì quyền năng của Ta thể hiện ra
nơi sự yếu nhược” (2 Cr 12,9), và các khổ đau phải chịu có ý nghĩa rằng “tôi
hoàn thành nơi thể xác tôi những gì còn thiếu nơi những thử thách của Chúa Kitô
cho Thân thể Ngài là Giáo hội’ (Cl 1,24).”
II. Những qui luật hướng
dẫn
Điều
1– Mọi tín hữu được tự do cầu xin Chúa để được chữa lành. Khi những việc cầu
xin như thế thực hiện tại nhà thờ hoặc ở một nơi thánh khác, thì nên được một
thừa tác viên có chức thánh hướng dẫn.
Điều
2– Những kinh cầu xin chữa lành được xem như có tính cách phụng vụ, nếu nằm
trong các sách phụng vụ được Thẩm quyền Giáo hội chấp nhận; nếu không thì không
có tính cách phụng vụ.
Điều
3- §1. Những kinh nguyện phụng vụ chữa lành bệnh được cử hành theo nghi lễ qui
định và với những phẩm phục thánh theo hướng dẫn của Ordo benedictionis
infirmorum trong Nghi Lễ Rôma.
§2.
Dựa vào những gì đã được thiết lập trong các Praenotanda, V., De aptationibus
quae Conferentiae Episcoporum competunt trong cuốn Nghi Lễ Rôma này, về nghi thức
ban phép lành bệnh nhân, các Hội đồng giám mục có thể làm những kinh nguyện
thích ứng với địa phương, hoặc có thể vì nhu cầu mục vụ đòi hỏi, với điều kiện
trước đó phải cho Tòa Thánh xem lại.
Điều
4- §1. Giám mục địa phận có quyền đưa ra những phép tắc cho Giáo hội riêng của
mình về những việc cử hành phụng vụ xin chữa lành bệnh, theo giáo luật 838 §4.
§2.
Những ai chuẩn bị các cuộc cử hành phụng vụ loại này phải tuân hành những phép
tắc ấy trước cuộc lễ.
§3.
Việc cho phép phải minh nhiên, dẫu các cuộc cử hành được các giám mục hoặc hồng
y của Toà Thánh công giáo tổ chức hoặc tham dự. Giám mục địa phận có quyền từ
chối việc này đối với một giám mục khác, nếu có lý do chính đáng và cân xứng.
Điều
5- §1. Các kinh nguyện chữa lành không có tính cách phụng vụ phải được thực hiện
theo những phương cách khác với các cuộc cử hành có tính cách phụng vụ, chẳng hạn
các cuộc gặp gỡ cầu nguyện hoặc đọc Lời Chúa. Thẩm quyển sở tại cần lưu tâm,
theo đúng nội dung giáo luật 839 § 2.
§2.
Cần tránh lẫn lộn các lối cầu nguyện tự do không có tính cách phụng vụ này với
những cử hành thực sự có tính cách phụng vụ.
§3.
Ngoài ra trong lúc tiến hành việc cầu xin, đừng sử dụng những lối như điên loạn,
giả tạo, làm kịch làm trò hoặc gây kích động, nhất là về phía người điều hành.
Điều
6- Việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, nhất là truyền hình, khi
có tổ chức cử hành các cuộc cầu nguyện chữa lành bệnh có tính cách phụng vụ và
không có tính cách phụng vụ, phải được giám mục địa phận xem xét, theo giáo luật
823, và các phép tắc được Thánh Bộ Tín Lý qui định trong Huấn thị ngày 30 tháng
3 năm 1992.
Điều
7- §1. Ngoài những gì đã qui định ở điều 3 nói trên và những việc cử hành cho
người bệnh được sách phụng vụ qui định, các việc cầu nguyện xin chữa lành bệnh
có tính cách phụng vụ cũng như không có tính cách phụng vụ không được đưa vào,
hoặc ghép vào việc cử hành Thánh Thể, các Bí tích hoặc các phụng vụ giờ kinh.
§2.
Trong các cuộc cử hành ở §1 trên đây, có thể xen vào các ý chỉ cầu nguyện riêng
để xin chữa lành các bệnh nhân trong lời nguyện chung hoặc lời nguyện ‘của các
tín hữu’, vào lúc mà lời nguyện chung này đã tiên liệu.
Điều
8- §1. Thừa tác trừ quỉ phải được thực thi do lệnh của Giám mục điạ phận, và
tuân theo giáo luật 1172, thư của Thánh bộ Tín Lý ngày 29 tháng 9 năm 1985, và
Nghi lễ Rôma.
§2.
Những kinh trừ quỉ trong Nghi lễ Rôma phải tách biệt với những cuộc cử hành xin
chữa lành bệnh có tính cách phụng vụ cũng như không có tính cách phụng vụ.
§3.
Tuyệt đối cấm xen những lối cầu nguyện này vào trong việc cử hành Thánh Lễ, các
Bí tích và phụng vụ giờ kinh.
Điều
9- Những người điều hành các việc cử hành xin chữa lành bệnh, có tính cách phụng
vụ hay không có tính cách phụng vụ, phải giữ cho cộng đoàn tham dự một bầu khí
đạo đức thanh thản, và phải thận trọng cần thiết nếu có những người tham dự được
chữa lành; vào cuối phần cử hành cầu nguyện, họ có thể ghi nhận một cách kỹ lưỡng
và đơn sơ những chứng nhân khả dĩ và trình sự việc lên giáo quyền có năng cách.
Điều
10- Giám mục địa phận cần phải lấy quyền mình mà can thiệp khi có những lạm dụng
trong các việc cử hành xin chữa lành bệnh, có tính cách phụng vụ hay không có
tính cách phụng vụ, khi có trường hợp gây tai tiếng rõ ràng cho cộng đoàn tín hữu,
hoặc khi có những thiếu sót gia trọng về phép tắc phụng vụ và kỷ luật.
Trong
lần tiếp kiến Giáo hoàng Gioan Phaolô II dành cho vị Tổng trưởng ký tên dưới
đây, Ngài đã chuẩn y Huấn thị này, vốn đã được quyết định trong tổng công hội của
Thánh Bộ Tín lý, và Ngài ra lệnh cho phổ biến.
Tại trụ sở Thánh bộ Tín
lý, Rôma, ngày 14 tháng 9 năm 2000, lễ tôn vinh Thánh Giá.
+ Hồng y Giuse
Ratzinger,
Tổng trưởng
+ Tổng giám mục
Tarcisio, s.d.b.,
Hiệu
tòa Vercelli, Tổng thư ký