Tác gỉa HerbertWorkman rất có lý
khi phát biểu trong cuốc sách nhan đề The Persecution in the Early Church:
” Giáo Hội có lẽ đã không bị
bách hại, nếu như Giáo-Hội đã không qúa hăng hái tích cực vâng theo
mệnh lệnh của thầy Chí Thánh rao giảng Tin-Mầng khắp nơi! Nhưng khi
Kitô giáo ngưng rao giáng Tin Mầng nhanh chóng, thì không còn là Kitô
giáo nữa”(Orford:Oxford University press, 1980, P. 20, op. cit.)
Sự trung thành của Giáo-Hội với
mệnh lệnh của Chúa Kitô đã đem Giáo-Hội đến cuộc thử lửa với người
Do Thái ngay những thế kỷ đầu! Lịch sử cho ta thấy những người
Do-Thái trong thời Chúa Kitô đã có những bất đồng chính kiến, những
va chạm, thù hận với sự đô hộ của đế quốc La-Mã. Có những nhóm
Do-Thái cuồng nhiệt tin rằng họ có sứ mệnh tiêu diệt sự đô hộ lệ
thuộc của La-Mã trước khi Đấng Messiah xuất hiện! Nhiều tin đồn được
tung ra! Nhiều cuộc dấy loạn, nhiều cuộc cách mạng đã bùng lên trong
hậu bán thế kỷ thứ nhất!
Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi
những người Do Thái tố cáo Chúa về tội phản quốc, chính vì sự tố
cáo phản quốc nầy cũng đã làm cho Philatô, vị toàn quyền La-Mã phải
thất điên bát đảo, để rồi đành rửa tay rũ sạch sự vô can của mình,
và trao Chúa Jésus cho quân lính đem đi đóng đanh vào thập gía! Sự
liên hệ ngoại giữa Do-Thái và La-Mã vốn đã tế nhị từ đầu, sau vụ
án giết Chúa Jésus, con người vô tội, bị khoác lên đầu bản án phản
quốc thật lố bệch không quyền hành nào dám xét xử, để con người vô
tội phải chết oan! Nhưng lịch sử chưa chấm dứt nơi vụ án Chúa Kitô,
còn nữa, những vụ án khác...sẽ xảy ra...chẳng hạn vụ án Phaolô,
người công dân Do Thái, đồng thời là công dân La-Mã...sự căng thẳng tế
nhị giữa mối liên hệ Do Thái- La Mã càng ngày càng khó khăn, khiến
cho nhiều người phải chết, trên thực tế chỉ vì thù hận ghen ghét
Đạo Chúa Kitô.
Thật vậy, những cái chết đau thương
thảm khốc của các thánh tử đạo lại bị khoác cho một bộ áo chính
trị! Bị giết chết vì lòng thù hận ghen ghét của nhóm người
DoThái!Chính Philatô cũng biết Chúa Jésus bị tố cáo vì lòng thù
hận ghen ghét thứ tôn giáo mới do Ngài rao giảng, chứ không hề có
liên hệ gì đến chính trị! Người Do-Thái mượn cớ chính trị để giết
người người Kitô hữu,...chính trị chỉ là cái cớ mà thôi!
Cũng trong những thế kỷ đầu của
sự phát triển Kitô giáo trong vùng Tiểu-Á và các vùng thuộc quyền
lệ thuộc đế quốc La-Mã, những nhóm Do-Thái chống đối Kitô giáo luôn
đổ dầu vào lửa, luôn ngụy tạo ra những tin đồn thất thiệt về ngườ
theo đạo Kitô, thêm thắt, bịa đặt ra những câu chuyện thổi đi trong dân
gian về cách sống kỳ cục mê tín dị đoan, mọi rợ bán khai của người
kitô hữu, làm cho cuộc sống của họ trở thành bất ổn, đâu đâu họ
cũng bị người ta nghi ngờ theo dõi, ghét bỏ như những con chó hoang
trong xã hội loài người! Chẳng hạn: họ dựng lên những chuyện về
người kitô giáo mưu mô lật đổ chính quyền địa phương, người kitô hội
họp nhau ăn thịt uống máu con cái đã bị giết chết...Họ tố cáo người
kitô hữu giết người làm lể hy tế Thiên Chúa của mình...
Tóm lại, sự tuyên truyền ghanh ghét
của Người Do-Thái làm cho người theo đạo Chúa trở nên một loại người
man rợ, bán khai, một thứ người gây nguy cơ cho sự an bình của xã hội,
những người mê tín dị đoan, nguy hại xã tác...một đe dọa cho đế quốc La-Mã,
đặc biệt họ tố cáo người theo đạo Kitô từ chối chủ thuyết đa thần
của đế quốc La-Mã, không chịu vâng phục quyền bính tôn giáo của hoàng
đế La-Mã, không coi Hoàng đế là thần linh. Điều đó đưa tới một kết án gắt
gao là: ngườ kitô hữu là thứ phản bội, nguy hiểm cần tiêu diệt, cần
phải loại trừ ra khỏi thế giới người sống. Đó là bản án mà tuyên
truyền Do-Thái cung cấp cho nhà cầm quyền đương thời có cớ truy nã và
tiêu giệt những người kitô hữu, bị coi như những tà ma ngoại đạo, những
con ngươi bội phản nguy hiểm!
Những cách thế theo đó những kitô
hữu bị bách hại một cách gay gắt hay triệt để tùy vào những hoàn
cảnh địa phương! Nói chung trong toàn đế quốc La-Mã có lệnh cho quyền
bắt bới tra tấn người kitô hữu, gọi luật ấy là quyền “Coersio”:quyền
bắt đạo, nhưng việc áp dụng quyền nầy còn tuỳ vào thái độ của các
vị quan quyền, các nhà chửc trách địa phương, thái độ của họ đối
với người theo đạo Chúa như thế nào!
Hãy lấy biến cố đốt cháy thành
La-Mã vào năm 64 AD., đựợc sắp đặt mưu kế do các tay sai của hoàng
đế Nêron nhằm tiêu hủy toàn thể châu thành Lamã, rồi đổ tội trên đầu
những ngườ theo đạo Kitô giáo đốt thành, việc bắt hại giết chóc
người có đạo đã xảy ra tàn ác độc dữ nhất trong lịch sử bắt đạo
trong toàn thể đế quốc La-Mã! Người theo đạo Chúa bị đặt vào trong
một tình trạng vô cùng khó khăn bi đát!
Dầu bị bạc đãi, xử tệ, và thua
thiệt, bất công, những ki tô hữu luôn tỏ ra là nững người công dân
gương mẫu, sáng gía và đáng được ca tụng!
Đọc lại những trang sử của giáo
hội hoàn vũ, chúng ta nhận ra một sự kiện hiển nhiên là khởi đầu
của việc truyền bá Đạo Thánh Chúa, luôn luôn bị thách đố bởi những
sự cấm đoán, bách hại! Văn hào Textulia đã nói lên cách hùng hốn
chân lý bất diệt nầy:
" Máu các đấng Tử-Đạo, là
nguồn phát sinh ra người tín hữu" (Sanguis martyrorum, crescens
Christinorum)
Xem như thế, giòng máu đào tử đạo
được coi như số kiếp nghiệt ngã, nhiệm mầu, khơi nguồn sự sống của
Đạo Thánh Chúa!
Căn cứ vào các sử liệu kim cổ,
chúng ta có thể khẳng quyết không sai lầm rằng: vào bất thời
điểm nào trên giòng sinh mệnh của nhân loại, và dưới dạng thức của
bất cứ nền văn hóa nào, sự xuất hiện của Đạo Chúa Kitô luôn luôn bị
các chính quyền đương thời nghi kỵ, cấm đoán, thù ghét và bách hại!
Hình thừc, phương pháp, chiêu bài tuy có thay đổi, nhưng nội dung vẫn
là sự thù nghịch với "Nước Chúa" với "Cơ Cấu Mới"
của "Nước Trời"!
Những kẻ bị bách hại vì
"Nước Trời"vẫn bị “người đời" thù ghét trên suốt dọc
giòng lịch sử của các nền văn minh Đông-Tây: Có rất nhiều câu chuyện
ghê rợn về những khổ nhục tàn ác vô nhân mà các vị tử đạo đã phải
chịu vì Danh Thánh Chúa: chẳng hạn chuyện từng đoàn thanh niên nam
nử, gìa trẻ bị lột trần trước công chúng, trong các khu vực giải
trí công cọng, bị đánh đòn, bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, hoặc bị
quấn tròn làm những cây đuốc sống đốt cháy trong các công trường cho
dân chúng vui chơi!
Nơi khác, người ta bỏ người tín
hữu vào chảo dầu sôi, để cho dân chúng nghe tiếng than van kêu khóc!
Có khi người ta còn bày nhiều trò giải trí bằng cách bắt người tín
hữu phải chết chậm, chết đau đớn, chẳng hạn như đâm hết mắt của họ
rồi thả đi thất theo trong các nơi công cọng, hoặc treo xác họ lên
thập tự gía dựng nơi các công trường! Có khi người tín hữu bị chặt
hết chân tay rồi bị thả chết dần chết mòn nơi đồng vắng hoặc bị
thả làm mồi cho thú dữ hoặc cho chim kền kền móc ruột tim gan!
Riêng tại đất nước Việt nam chúng ta,
Đạo Chúa bị cấm đoán bách hại trên mấy trăm năm, nhưng việc tàn sát
giết hại người theo Đạo Chúa, dữ dằn ghê rợn nhất là trong ba triều
vua nhà Nguyễn: tức là Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức và đặc biệt
dưới chiêu bài của phong trào Văn-Thân. Sử sách ước lượng chừng ba
trăm nghìn người tín hữu kitô giáo đã chịu chết vị Đạo, trong số
đó, có 117 vị được phong lên hằng hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988
tại công trường Thánh Phêrô Rôma, dưới thời giáo hoàng Gioan-Phaolô đê
II.
Qua biến cố phong thánh nầy,
Việt-Nam bổng trở thành một quốc gia có nhiều thánh tử đạo nhất trên
thế giới! Lòng sùng mộ Đạo Chúa của người Việt hôm nay, phải chăng
là kết qủa của giòng máu tử đạo của các bậc tiền nhân anh hùng tử
đạo của thời xa xưa!
Chịu tù tội, hay chịu tử vì Đạo,
dĩ nhiên không phải là con đường duy nhất những người kitô hữu tiên
khởi đã chịu đựng để làm nhân chứng cho Chúa, các ngài còn phải
trải qua, hoặc đối diện với nhiều hình thức khổ nhục khác nữa để
làm nhân chứng cho Tin-Mầng- Cứu-Rỗi, như Phúc-Âm
đã báo trứớc: người theo Chúa kitô phải chịu nhiều thử thách và xỉ
nhục vì "Nước Trời":
" Hãy coi chừng người đời,
họ sẽ đưa các con ra tòa, sẽ đánh đập các con trong các hội đường.
Các con sẽ bị điệu đếc các thốn đốc và các quân vương vì Thầy, để
làm chứng tá trước mặt các vị ấy và trước người ngoại bang..Các
người sẽ bị nộp do cả cha mẹ , anh em bà con bằng hữu của chính
mình nữa.....Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy....."
(Lk 21:12-16).
Việc cấm Đạo và hành xử bất công
tàn ác đối với người tín hữu vẫn còn tiếp diễn trên giòng lịch sử
nhân loại ngay cả trong thời đại mới của chúng ta, một thời đại mệnh
danh là thời độc lập giải phóng của những con người bị ức hếp,
thời giải phóng nhữg dân tộc nhược tiểu, nói tóm lại thời đại đề
cao phẩm giá con người! Chính trong thời đại thế giới gào thét hai chữ
nhân quyền, thì quyền làm người của những tín hữu kitô nhiều nơi còn
bị vi phạm một cách trắng trợn và dã man!
Hãy đọc lại vài trang sử của
Sô-Viết và các nước theo chế độ cọng sản, trong đó không ai chối cãi
được rắng: việc bắt Đạo và cầm tù, ngược đãi, cư xử tàn ác bất
công, giết hại những người theo Đạo Chúa, được nhà nước cọng sản
nâng lên hàng quốc sách ưu tiên: chẳng hạn, một đạo luật được ban
hành năm 1929 do nhà nước Sô Viết cấm người tín hữu kitô giáo không
được công khai tuyên xưng đức tin! Các nghi thức phụng tự bị hoàn toàn
cấm đoán! Kết qủa là hàng ngàn tu sĩ, giáo sĩ và hăng trăm nghìn
tín hữu bị phát vãng đày aỉ lên vùng băng gía Siberia!
Về phía giáo hội Chính-Thống
giáo, trước cách mạng Bolsovic 1917, số tín hữu có chừng bảy trăm
nghìn(700.000), thế mà đến năm 1939 con số gíao dân chỉ còn lại vỏn
vẹn khoảng năm trăm người(500) nữa mà thôi! ( Winrich Scheffbuch, trong
cuốn sách nhan đề Christians under the Hammer and Sicle, trans. Mark A.
Noll, Grang Rapid: Zondervan Publishing House 1974, p. 116)
Theo gương bắt Đạo tại Sô-Viết, các
nước Đông Âu, đạc biệt là các nước Tiệp-Khắc, Hung gia-Lợi, Romania
áp dụng chinh sách hà khắc bắt bớ giam cầm các tín hữu kitô giáo
kể từ năm 1947. Cuốc sách thời danh nhan đề" The Pastor's Wife"
do bà Sabina Wumbrand viết, sau nầy được nhà xuất bản London& Stoughton
năm cho phát hành năm 1970, cuốn sách là một ký sự tuyệt vời, một
nhân chứng sống động về chính sách đàn áp kitô giáo của nhà cầm
quyền cọng sản Romania!
Phát xuất cùng một nguồn góc, một
chính sách đàn áp kitô giáo của Sô-Viết và các nước cọng sảm chư
hầu Đông Âu, chính quyền Tàu cọng Bắc Kinh và Việt cọng Hà Nội cũng
đã tra tay bắt bớ, triệt hại Đạo Chúa trong suốt cả thập niên năm
mươi dưới danh nghĩa cuộc cách mạng Văn-Hóa(Trung cọng) chiến dịch
cải cách ruộng đất tại miền Bắc và một phần của miền Trung Việt
Nam! Tại Trung Quốc hoặc ở Việt Nam hay tại bất cứ một quốc gia nào
trên thế giới, việc đầu tiên mà người cọng sản thi hành sau khi cướp
được chính quyền, là tra tay khủng bố, triệt hạ, tước đoạt, phá
hoại, trịch thu, xung công các cơ sở và tài sản của giáo-hội, đồng
thời ra tay bắt bớ cầm tù, thủ tiêu, giết hại những người tín hữu,
các giới chức, các giáo sư, thầy giáo, các cán bộ công giáo tiến
hành đặc biệt là các tu sĩ và hàng giáo sĩ địa phương với chủ
trương:" đánh chủ chăn thì đoàn chiên phải tan rã! Những tội ác
của cọng sản vô thần đã đổ xuống đầu biết bao người công dân lương
thiện và gương mẫu.
Chỉ có một lý do mà các tín hữu
phải chịu đối xử bất công, chịu tù đày giết chóc chỉ vì họ tuyên
xưng niềm tin vào Chúa Kitô, và Đạo Thánh của Ngài! Có thế thôi!
Mùa Xuân Năm Mậu Thân 1968, khi cọng
sản tràn vào thành phố Huế, đã bắt hàng ngàn người công giáo, sau
khi đập đánh tàn nhẫn dã man, đã chôn vùi họ nửa sống nửa chết
trong hố đầu vài thước đất! Cuộc chiến Việt Nam đã qua đi, nhưng các
ngôi mồ tập thể tại thành phố Huế cho đến muôn đời vẫn kêu lên tận
Trời tiếng kêu đau thương oan ức của những người tín hữu công giáo Việt Nan!
Sử sách nào sẽ biện minh cho họ? Công lý nào sẽ báo oán cho họ? Ai
sẽ trả lại công đạo cho họ?!
Trước lịch sử và thế giới, chính
Chúa Kitô đã trả lại công đạo, đã trịnh trọng lên tiếng tuyên dương công
trạng của những những vị thánh tử đạo nầy, những vị anh hùng không tên
tuổi nầy:
" Phúc cho các con là những
người bị bách hại vì chân lý, Nước Trời là của các con”! ( Matt
5:10)
Trong lịch sử đàn áp tôn giáo, một
điều nghịch lý, bi đát đáng quan tâm là nhiều khi những kitô hữu trung
thực bị những người đồng đạo đàn áp bách hại! Điều đó thường xảy
ra trong một khi Đạo được tự do bành trướng phát triển với đầy đủ
tôn ty phẩm trật cùng các thứ truyền thống, tập quán qui cũ! Tóm
lại, khi Đạo đã biến thành một kiểu sống nào đó(way of life), thì
những cá nhân đạo hữu thường bắt đầu chịu khốn khổ bởi những thành
kiến của những người trong Đạo, cùng chia sẽ một niềm tin! Chiến
tranh tôn giáo trong các thế kỷ 16, 17 và 18 đưa dến cái chết cho hàng
trăm nghìn người kitô hữu sùng đạo! Những tín hữu nầy đã lâm vào
cái chết cũng chỉ vì là nạn nhân của những thiên kiến hẹp hòi,
những nghi kỵ ghen tức của những người tự xưng là môn đệ của cùng
một Chúa, một phép Rửa, một niềm tin ?
Tại nước Ái Nhĩ Lan, sự dằng co
xung đột giữa công giáo và tin lành đã trở thành một thứ thánh
chiến! Bom đạn vẫn không ngưng, cuộc chiến tai ác, tàn khốc mỉa mai
giữa những người đã có mang danh trên thế giới là những môn đệ sùng
mộ Đạo của Chúa Kitô?
Thảm kịch những người kitô hữu bị
cầm tù bách hại lại đang tái diễn ra hôm nay tại Nam Mỹ. Qua truyền
thanh, truyền hình thế giới tân tiến được chứng kiến cảnh tượng giết
chóc nầy mỗi buổi chiều trong phòng ăn của họ qua các thiên phóng sự
thật chi tiết và chính xác! Máu đang chảy tại Nam và Trung Mỹ vì nơi
đây giáo hội công giáo địa địa phương đang làm sự cải tổ từ trong
lòng giáo hội, cải tổ khỏi những bất công đàn áp , bóc lột những
người nghèo, những người lảnh đạo giáo hội địa phương nầy đã đứng
về phía những người nghèo khổ và bị bốc lột, đòi lại nhân phẩm và
quyền lợi cho những người con cái của Chúa đang bị chính các người
đồng hương và đồng đạo của mình đóng đinh trong cuộc đời nghèo đói
thiếu nhân phẩm của con người. Nhưng thương thay, cuộc tranh đấu nầy bị
chính quyền và những người kitô hữu giàu có khác phản đối và ngăn
cấm! Thế là máu lại đổ, những thân xác của những con người con Chúa
lại bị súng đạn của chính quyền công giáo và những ông trùm a-phiến
giáng xuống thê thảm! Cả thế giới đều nhìn thấy những cảnh giết
chóc dã man nầy! Nhưng thế giới đã trở thành thui chột và đui mù! Thế
giới làm ngơ trước sự bất công và đàn áp dã man! Nhiều vị gíam
mục, linh mục, tu sĩ, nữ tu đã bị thảm sát! Theo thống kê cho biết,
trong khoảng 1968 và 1979 có trên 1,500 người giáo dân phải cầm tù, bị
hành hạ hoặc thủ tiêu tại các nước Puebla, tại Paragay và Bolivia..
Bên cạnh sự cầm tù, giết chóc sát
hại những vị lãnh đạo phong trào tranh đấu cho những người bị bóc
lột khai thác, chính quyền địa phương còn dùng đến những chiến thuật
theo dõi đường đi nước bước của các vị lãnh đạo phong trào, đặc
biệt các hội dòng có cơ sở truyền giáo hoạt đông trong vùng chẳng
hạn như dòng Tên, Dòng Đaminh, Dòng Dâng Hiến! Các chính quyền địa
phương đã xử dụng đến những dụng cụ tinh tế của cơ quan tình báo CIA
của Hoa Kỳ để biết những tin tức chính xác về các hoạt động tôn
giáo xã hội trong vùng. Ngoài ra, các chính quyền địa phương còn
dùng những phương thế gian xảo, như gài người vào các tổ chức của
các nhóm hoạt động để gây ảnh hưởng xấu, hoặc để tung ra những báo
cáo láo, những loại thư rơi nhằm làm bẩn tên tuổi, bôi nhọ các nhân
vật sáng gía để làm nhục cho giáo hội!
Ngoài ra, chính quyền địa phương
còn cho người gài khí giới đạn dược vào nhà các linh mục tu sĩ để
rồi lấy cớ vu oan hoặc bắt giam họ vì tội tàng trử khí giới bất
hợp pháp! Những mưu mô trên và muôn vàn chiến thuật dơ bẩn khác do
chính quyền địa phương và các chúa trùm A-phiến bày ra để triệt hạ
những người tranh đấu cho nhân phẩm và quyền lợi của người dân nghèo.
(Xem thêm tài liệu của Reinhold Iblacker trong cuốn Witness of Hope: The
Persecution of Christians in Latin America (Marynoll, N.Y. Orbis Books 1981,
pp.14-16)
Hãy nhìn vào Nước Hoa-Hỳ, nơi có
tượng Nữ Thần Tự Do đứng sừng sửng nêu cao bó đuốc Tư-Do bên bờ cảng
vào thành phố New York!
Hãy nhìn lại Hoa Kỳ, nơi đây trên
tờ giáy bạc dollar uy quyền với hàng chữ:" In God We Trust"
(chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa"!
Hãy nhìn vào Hoa Kỳ nơi đây các
viên chức khi tuyên thệ nhận nhiệm sở phải đặt tay lên sách Kinh Thánh
để tuyên thệ!
Thế nhưng cũng chính trên đất nước
nầy, chính súng đạn của họ đã giết chết giữa thanh thiên bạch ông
Kennedy, vị tổng thống nổi tiếng là tài ba đức độ! Ông Kennedy bị
giết vì ông là vị tổng thống công giáo?
Ông Kennedy bị giết vì ông tranh đáu
cho nhân phẩm con người và nhân quyền của những người nghèo, những
người bần cùng trong xã hội giàu có nhưng đầy bất công nầy?
Hãy nhìn lại Hoa Kỳ: một đất nước
được xây dựng trên nền tảng nguyên tác luân lý đạo đức của kitô giáo!
Thế nhưng súng đạn của Hoa Kỳ đã nổ tung, đã giết hại Martin Luther
King, vị mục sư thời danh, tranh đấu cho sự tự do bình đảng của những
đồng bào da mầu anh em chủng tộc của ông?
Hãy nhìn vào khuôn mặt khả aí của
nước Mỹ! Một quốc gia hãnh diện là anh hùng lãnh đạo thế giới tự
do, là sứ giả nền dân chủ và nhân quyền cho khắp thế giới?
Nhưng nơi đây, trên mãnh đất tụ do
nầy, cũng có hàng ngàn hàng vạn người kitô hữu bị cầm tù, bị
ngược đãi vì đã tranh đấu cho nhân phẩm và quyền lợi của những người
nghèo khổ, bị bóc lột!
Phải chăng Chúa Kitô và những kẻ
theo Ngài luôn luôn bị bách hại!?
Phải chăng Chúa Kitô, dẫu nhập thể
và nhập thế vào giai đoạn lịch sử nào chăng nữa, Ngài luôn luôn phải
chịu đóng đinh! Chúa Kitô luôn luôn phải chịu đóng đinh, không những chỉ
bởi tay những kẻ vô thần hay những phường phàm phu tục tử! Nhưng nhiều
khi còn do tay của những con người mang danh kitô hữu, và nhân danh Đạo
Chúa!
Suốt dọc giòng lịch sử của nhân
loại, ở vào nhiều thời điểm và nơi chốn khác nhau, có hằng hà sa số
những tâm hồn cao thượng nghe theo tiếng gọi làm nhân chứng của Chúa
Kitô! Họ là những người dấn thân làm chứng tá cho nhân đức, cho gía
trị luân lý đạo đức, cho công lý và hoà bình, những người biết
thương cảm và muốn hiến mình trong chương trình giải thoát con người
đau khổ khốn cùng! Những con người có lòng hào hiệp như thế, luôn
luôn bị coi như là chướng ngại vật, những cái gai nhức đối với tầng
lớp trong tư thế nắm quyền sinh tử trên dân chúng, nhưng lại dung quyền
bính để mưu đồ bất chánh nhằm tìm kiếm tư lợi, hưởng thụ, ích kỷ, cầu an
và nhu nhược!
Những người đứng về phía người
nghèo khổ đói rách vô gia cư, thất nghiệp, bệnh hoạn tật nguyền, bị
xã hội ruồng rẩy, những kẻ dấn thân trong phong trào tranh đầu cho
công lý hòa bình, những người can đảm dám nói lên những sự thật đau
lòng ngay trong lòng giáo hội và xã hội, họ là những người chiến đấu
cho lẽ công chính,những người nầy muôn đời sẽ bị bách hại bởi chính
thiểu số trong hàng thống trị, họ sẽ bị đàn áp bởi những người anh
em đồng đạo, đồng lý tưởng với mình! Họ là những người mà Chúa Kitô
đã tiên báo trước rằng sẽ bị bách hại vì lẽ công chính! Họ là
những người đang đi trong đường nẻo của Nước Thiên Chúa! Nhưng họ là
những người được Thiên Chúa chúc phúc! Bởi vì khi Nước Chúa đến, họ
sẽ coi như là tâm điểm của Nước Trời! Khi đó sự dữ sẽ bị thiêu hủy
trong lữa đời đời! Sự bất công phải đươc minh oan! Những gì thuộc về
Chân, Thiện, Mỹ sẽ tồn tại muôn đời!
Trong khi tuyên dương những kẻ chịu
bách hại vì lẽ công chính, Chúa Kitô nói đến sự chúc phúc đang xảy
ra trong hiện tại, chứ không phải chỉ có trong một tương lai xa xôi,
mặc dầu Nước Thiên Chúa mang bản chất của một viễn tượng tương lai
đang đến, tuy nhiên thực thể Nước Trời thực sự đang xảy ra trọn vẹn đầy
đủ ngay hôm nay: theo ngôn từ của Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi
cho tín hữu Do-Thái: " Vì ông mong đợi một thành trìcó nền móng do
chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng (Hb.11:10).
Chỉ có mơ tưởng đến tương lai thôi
cũng đủ sức làm cho ông(Abraham) và con cái ông vững tâm tiếp tục
hành trình, mặc dầu con đường đi nhiều hiểm nguy gian khổ! Tác giả
bức thư cho tín hữu Do-Thái đã tìm thấy niềm uỉ an và trông cậy vì
đoan chắc rằng chính Chúa Kitô đã mở đường dẫn lối cho những ai tin
theo Ngài! Thánh Phaolô đã kết luận bức thư bằng cách nêu lên bằng
chứng của những người đã can đảm theo gương Chúa Kitô, đã hiên ngang
tiên phong trước chúng ta trên con đường chứng tá cho công lý:
"Họ bị ném đá, bị cưa chân,bị
giết chết bằng dao kiếm, aó mặc thì chỉ có da dê da cừu, , chịu
thiếu thốn mọi sự và bị đè nén tàn bạo! Với họ, thế gian đã
chẳng xứng, họ lang thang trong chốn hoang vu, trên núi non, nơi rừng
rậm, trong hang động thâm u, trong hầm hố u tối! Những vị tiền nhân
của chúng ta có một niềm tin cao độ, vì thế họ đã chịu thử thách,
cho nên họ đã không lãnh nhận được điều đã hứa: là vì Thiên Chúa dự
liệu cho ta cái gì hoàn hảo hơn, còn họ, thì chưa đạt tới chỗ hoàn
thành (Hb. 11: 37- 40 ).
Nơi đây, Thánh Phalô mời gọi chúng
ta có cái nhìn siêu vượt không gian và thới gian để tìm về nguyên ủy
, cội nguồn của Niềm Tin chúng ta, là chính Chúa Kitô, vị nhân chúng
tuyệt của Thiên Chúa Cha nơi trần gian:
" Như thế, với rất nhiều nhân
chứng đang bao phủ chung quanh ta như những đám mây bao la trên vòm trờn
thênh thang, chúng ta nên gỡ bỏ hết mọi tơ vương vương vấn tâm hồn, đặc
biệt là tội lỗi đang bám sát chúng ta, rồi bền chí tiếp tục cuộc
chạy đua mà ta đã khởi đầu! Chúng ta không nên rời con mắt khỏi Chúa
Kitô, vị lãnh đạo Đúc Tin của chúng ta, hãy đưa đức tin đến chốn vẹn
toàn. Bởi muốn cho ta hưởng niềm vui tương lai, Chúa Kitô đã không ngần
ngại chịu khổ hình và chịu chết, không coi đó là đều ô nhục! Vì cam
tâm chịu khổ nhục như thế, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn phong làm
vua vũ trụ và an vui bên hữu ngai báu Chúa Cha cho đến muôn muôn đời! (
Hb. 12:1-2 )
Nếu người đời ghét chúng ta như họ
đã ghét Chúa Kitô, như thế Chúa Kitô trở nên mẫu mực của niềm vui
nội tại, của sự chúc phúc mà mọi người tín hữu theo Ngài cần mang
khắc ghi trong tâm trí! Nhờ niềm vui linh thánh đầy ắp trong lòng mà
chúng ta không nao núng khi phải chịu bách hại vì "Lẽ công
chính". Chúa Kitô mãi mãi hiện diện trong giáo hội của Ngài,
đặc biệt ngài luôn luôn hiện diện trong cuộc đời nhân chứng của những
kẻ theo Ngài.
Siêu vượt trên không gian và thới
gian, sự hiện diện của Ngài giữa thế giới, nơi lòng cuộc đời để
nâng đỡ cuộc chứng tá của mỗi người chúng ta! Ngài hiện diện để
gíup ta trở nên những kitô khác( alter Christus) được gửi đến, được sai
vào thế giới, được trao ban cho nhân loại!
Linh mục Joseph Girzone, trong tuổi
hồi hưu, đã viết mấy cuốn chuyện giữa đạo và đời rất hấp dẫn,
trong đó có hai cuốn Joshua và Joshua and the Children, do nhà xuất bản
Macmillan New York phát hành.Qua lời văn miêu tả duyên giáng bình dị,
cha Girzone đã cống hiến độc gỉa chân dung của một Chúa Giêsu thời đại.
Với tên Joshua, cái tên rất thân
thương trong kinh thánh và rất Do-Thái, là hiện thân của Chúa Kitô tân
thời trong bối cảnh của xã hội hiện đại. Joshua xuất hiện trong khu
phố như một người bình dị, sinh sống bằng nghề thợ mộc. Nhưng cuộc
sống thánh thiện và tư cách của anh ta đã khiến cho người dân trong
khu phố từ thán phục đến thắc mắc, nhất là lập trường và ý kiến
của Joshua về các vấn đề liên quan đến gíao hội, xã hội, các vấn đề
luân lý đạo đức! Tuy làm nghề lao động, nhưng Joshua có tầm hiểu biết
quảng bá đến mọi vấn đề, anh không ngần ngại bày tỏ thái độ và
lập trường của mình nếu có ai muốn được soi sáng và thôg cảm! Nhiều
người dân trong khu khố của anh bắt đầu tỏ thái độ ác cảm với anh
vì anh biết nhiều, đặc biệt anh can đảm dám nói lên ý kiến và lập
trường của mình chẳng hạn về những bất công trong xã hội, những lạm
dụng, những tệ đoan trong giáo hội, những lạm dụng quyền bính của
các người nắm vai trò lãnh đạo dân chúng! Những phân tích xây dựng
của anh nghe ra cơ hồ như những lời trong kinh thánh khi Chúa Kitô phê
phán lớp người Biệt phái và Pharisiêu!
Một ngày kia khi Joshua đang bươc đi
trên đường phố, bổng có nhóm người công giáo thủ cựu chận anh lại
chỉ vào mặt anh mạt sát nặng lời là họ rất bất mãn với anh vì
dám thốt ra những lời phê phán giáo hội và các đấng các bậc lãnh
đạo trong đạo. Joshua vẫn giữ nguyên thái độ trầm tĩnh cố hữu của
anh, và bằng giọng nói từ tốn khiêm cung nhẹ nhàng, anh xác định với
họ lập trường ôn hòa của anh, đồng thời nhắc nhớ cho những người
đang tức giận anh về thái độ và hành vi của Chúa Kitô trong tân ước
khi Ngài nhắc nhớ kẻ thù của Ngài về hoạt động của Chúa Thánh Linh
trong tâm hồn con người, và về thời điểm đã đến con người tôn thờ
Thiên Chúa đích thực, phải tôn thờ Ngài trong tinh thần và trong sự
thật. Đến lúc con người cần thoát ra khỏi cái vỏ đạo đức của truyền
thống luật lệ ràng buộc giam hãm con người, nhưng hãy mở rộng tâm
hồn cho Thần Linh của Thiên Chúa hoạt động! Nhưng trong đám đông cuồng nhiệt
kia, có người vẫn hung hãn kết án Joshua là thù thịch chống đối, phê
bình chỉ trích giáo hội La-Mã. Để tả lời cho những tố cáo bịa đạt
có tính cách trả thú cá nhân kia, Joshua mạnh dạn bày tỏ lập trường
của mình:
"Tôi yêu giáo hội, như Chúa
Kitô yêu thương giáo hội của Ngài, giáo hội là món qùa qúy gía mà
Thiên Chúa gửi tặng cho nhân loại! Nhưng vì giáo hội đang trong trần
thế, thế nên giáo hội có khía cạnh thế tục và nhân loại của mình,
vì thế giáo hội cần thiết liên tục tỉnh thức đề phòng những sai
quấy, liên tục canh tân đổi mới, về nguồn cho phù với tinh thần nguyên
thủy của Chúa Kitô, đấng sáng lập giáo hội, Người kitô hữu trưởng
thành không sợ bày tỏ lòng mình cũng như biểu lộ lòng trung thành
của mình đối với giáo hội trong tinh thần chân lý của Chúa Kitô.
Người tín hữu trong giáo hội không phải là đầy tớ tôi đòi của giáo
hội, nhưng thực sự họ là những phần tử sống động, là thành phần
đích thực của đại gia đình giáo hội, theo ngôn từ của Thánh Phêrô,
người tín hữu là những viên gạch sống động của toà nhà giáo hội,
họ là những phần mình của nhiệm thể mà Chúa Kitô là đầu của thân
thể giáo hội! Như thế trong giáo hội đích thực của Chúa Kitô không
có ai là tôi mọi cho ai, không có ai tự coi mình thuộc về giai cấp
thống trị! Chúa Kitô là đầu của nhiệm thể, tất cả kitô hữu là mình
mầu nhiệm là anh em trong Chúa Kitô! Trong Tân Ước đã có nhiều lần
Chúa báo động các vị mục tử của đoàn chiên phải trở thành những
người đầy tớ để phục vụ đoàn chiên. Thế nên người tín hữu trong đoàn
chiên của Chúa không nên sợ hãi khi phải nói lên sự thật nhằm xây dựng
cho đoàn chiên của Chúa Kitô. Tôi nói những gì tôi cần phải nói vì
tôi quan tâm đến giáo hội, một giáo hội mà Chúa kitô muốn thành lập
là thiên đàng của an bình, là ngọn đèn s6ng soi chiếu cho người trần
thế, vì thế giáo hội không thể là nhà tù giam hãm tinh thần hoặc
là lưỡi kiếm để đâm chém và gây thương tích cho ai”!( New York,
Macmillan Publishing Co. 1983, p.125)
Nghe Joshua phân trần thế, có nhiều
người càng căm giận anh ta, có người nhào tới đòi đã thương anh, có
người tỏ lời trách móc thậm tệ, có người cho rằng anh ta là loại
tà đạo, là giáo gian, là đạo rối! Có kẻ thề hứa sẽ tìm cách dứt
điểm anh để anh không gây ảnh hưởng đến cọng đoàn khu phố!
Khi đám người cuồng tín đã bỏ đi,
Joshua chỉ còn biết lắc đầu chịu thua, anh nhớ lại thái độ của
những người Pharisêu và luật sĩ trong thế kỷ thứ nhất đã cư xử với
Chúa Kito thế nào! Hai nghìn năm sau, hai nghìn năm lịch sử của Kitô
giáo, trong số những tín hữu, vẫn có những Pharisiêu tân thời, vẫn
còn những tên luật sĩ mới hung hãn muốn lên ngôi Thiên Chúa, muốn
biến mình thành Đạo, và họ vẫn cho mình lên ngai chúa tể của loài
người! Hai nghìn năm lịch sử kitô giáo, ngưới tín hữu vẫn chưa học
biết Thiên Chúa muốn làm gì cho nhân loại nầy!?
Mãi về sau, khi cuộc xung đột giữa
nhóm cuồng tín và Joshua càng trở nên trầm trọng, có người tò mò
hỏi thử Joshua cái bí quyết nào giúp anh sống được trong an bình,
sống an vui được ngay trong gây cấn như thế? Joshua mỉn cười với đôi
mắt hướng về trời:
" Sự an bình của tôi đến tự
nội tâm, sự đơn giản của đời sống tôi phản chiếu những gì tôi có
trong linh hồn...Tôi không để cho lòng mình bị thương tích bởi các
biến cố xảy ra bên ngoài...càng ngày tôi càng ý thức và xác tín
rằng bản tính con người đang ở trong một tiến trình hoàn thiện
hơn..chúng ta cần trở nên hoàn thiện, đó là lý tưởng và ơn gọi của
mỗi người...nhưng dầu có tiến tới bao nhiêu, chúng ta vẫn nguyên vẹn
là những con người bất toàn, khiếm khuyết, học biết mình là bất toàn
khiếm khuyết không phải để bi quan yếm thế nhưng là để ta trở nên
khiêm tốn hơn và biết thương cảm tha nhân hơn! Tôi hiểu biết thế và tôi
chấp nhận thực trạng con người như thế! Tôi thích dân chúng và chấp
nhận họ trong thực trạng của họ. Tôi tìm thấy trong họ có nhiều đều
làm tôi vui thích vì Thiên Chúa Cha đã sáng tạo ra họ như thế! Hãy
kiếm tìm Thiên Chúa và học để yêu thương dân chúng, rồi bạn sẽ tìm
thấy sự an bình và hoà hợp với thiên nhiên (Joshua p. 151, Macmillan
, New York 1983).
Trên đây là lý do tại sao Chúa Kitô
chúc phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, sự chúc phúc
nầy đang xảy ra hôm nay cũng như còn sẽ xảy ra trong tương lai!
Sự an bình nội tại đang đến với tâm
hồn ta hôm nay, và ngay trong giây phút hiện tại nầy! Đó là món quà vô
cùng qúi giá mà Chúa Cứu Thế trao ban cho các môn đệ và cho tất cả những
ai tín thác vào sứ điệp Phúc-Âm của Ngài!
Rev.Nguyễn Quốc Hải, Ph.D
Nguồn Web Giáo Hoàng Học Viện Piô X