FABC: DIỆN MẠO
LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG MỘT GIÁO HỘI ĐỐI THOẠI ĐỂ CẢM THÔNG VÀ YÊU THƯƠNG GIỮA
MỘT Á CHÂU ĐA VĂN HÓA VÀ TÔN GIÁO
Tác giả: Lm. Giuse Nguyễn Văn Am, SDB.
MỤC LỤC
I. Bối cảnh Á châu dưới ánh sáng của lòng xót thương
II. Diện mạo Đức Giêsu Kitô trong FABC
III. Giáo Hội của lòng thương xót
WHĐ (11.03.2021) - Truyền thống ngôn sứ chưa chấm dứt, vẫn sống động.
Truyền thống ấy vẫn sống động với Giáo Hội, vì mỗi người Kitô hữu, môn đệ của
Đức Kitô, là một ngôn sứ trong vị NGÔN SỨ DUY NHẤT. Truyền thống ấy không chỉ
giới hạn ở những đặc sủng lạ kỳ, nhưng trải rộng đến cả những nghĩ suy thần
học. Nó phải thay đổi lối nhìn và đánh giá về thực tại của các kitô hữu, cộng
đoàn môn đệ của Đấng xót thương. Với sự dẫn dắt của Đức Giáo hoàng Phanxicô, ta
không chỉ nhận ra những chỉ dẫn mục vụ độc sáng. Ta còn thấy những suy tư thần
học mang tính ngôn sứ trong những ngôn ngữ rất sống động về đời thánh hiến, về
đời sống gia đình, về cộng đoàn Giáo Hội.
Điều trên tỏ lộ cách đặc biệt khi ngài công bố năm thánh
đặc biệt của Lòng Thương xót nơi Thiên Chúa. Nó tạo nên cả một phong trào nhằm
canh tân Giáo Hội trong chính cốt lõi của Giáo Hội. Lòng thương xót như trái
tim bơm dòng máu ân sủng làm cho Giáo Hội “sống, hoạt động và hiện hữu” (Cv
17:28). Khắp nơi chúng ta bắt gặp rất nhiều bài suy tư tiếp theo Misericordiae
Vultus.
Trong dòng chảy ấy, tôi cũng muốn đọc, tìm hiểu và suy tư
những văn kiện của FABC dưới ánh sáng của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Bài
viết được triển khai trước tiên bằng cách đặt rõ sứ điệp trong bối cảnh khát
mong lòng thương xót đích thật tại Á châu. Sau đó, tôi nêu lên diện mạo Đức
Kitô tại Á châu dưới ánh sáng của Lòng thương xót. Rồi từ đó, tôi nhìn đến Giáo
Hội Á châu trong hướng mục vụ được khởi hứng và hướng dẫn bởi lòng thương xót
thần linh.
I. Bối cảnh Á châu
dưới ánh sáng của lòng xót thương
Như bất cứ lịch sử nào, lịch sử của Á châu cũng đầy những
bóng tối mà bài đối đáp với vua của Cao Bá Quát bộc lộ thực tại: “Nước trong
leo lẻo cá đớp cá. Trời nắng chang chang người trói người”. Dĩ nhiên, lịch sử
con người tại Âu cũng như Á chẳng hề thiếu những sự kiện tiêu cực ấy. Bao nỗi
thảm cảnh do những bạo chúa như Tần Thủy Hoàng gây ra có trong mọi dân tộc Á
châu. Tuy nhiên, giữa những thảm cảnh đó, Á châu không thất vọng, song được
nâng đỡ do những bậc thánh hiền, khôn ngoan. Giữa những nhiễu nhương của thời
đại, Khổng Tử đã dạy một nếp sống quân tử và thương người. Còn Lão Tử viết:
“Tôi chỉ dạy ba điều: tính đơn giản, sự kiên nhẫn và lòng
trắc ẩn. Ba điều này là kho tàng lớn nhất của các con. Đơn giản trong
hành động và tư tưởng, các con trở về nguồn của đời sống; kiên nhẫn với bạn bè
và kẻ thù hợp theo đường lối của mọi sự vật. Trắc ẩn đối với chính mình, các
con khiến mọi sự trong thế giới được hài hòa”.[1]
Nhờ những nhà hiền triết Á châu đó, các dân tộc Á châu
cùng nhìn “Đa nguyên và khác biệt không phải như một vấn đề mà là như sự phong
phú. Ngay cả đối kháng và căng thẳng có thể mang tính sáng tạo trong viễn cảnh
của một sự hài hòa vốn không tĩnh lặng, nhưng năng động như cuộc sống và chuyển
động”.[2] Gia sản này
đâu phải là một cái gì dễ tan biến như làn mây. Nó vẫn sống động, dù nhiều khi
như bị ẩn tàng dưới những sóng cồn hận thù, phân biệt đối xử đủ loại của thời
tân tiến.
Xem ra hôm nay, theo FABC, Á châu hiện không ở “trong một
thời kỳ “bình an” dân quê, nhưng là khủng hoảng khổng lồ (gigantic crisis)[3] với muôn hình thức của sự tân thời
hóa, toàn cầu hóa, thời kỳ hậu-thực dân, kỹ thuật mới,[4] chủ nghĩa tiêu thụ.[5] Các biến động xã hội nhiều khi đưa
tới một “thứ sợ hãi các dân tộc”, ‘ethnophobia’[6] Nó giúp tạo ra trong xã hội cả một
giới trẻ-nạn nhân, giới trẻ-vong thân, giới trẻ-thiểu số,[7] một thế giới di dân bị ghen ghét, bị
đối xử bất công, không luật pháp bảo vệ, v.v.[8]
Các Giám mục Á châu nhất trí nhận định:
Những hình thức nghèo khổ mới gây ra di dân và đổ vỡ gia
đình. Với dòng tư bản không kiềm chế tạo cho thông tin không giảm sút đi vào,
những não trạng và ưu tiên mới đang thay đổi những nền văn hóa Á châu, nhất là
giới trẻ, nhưng không luôn luôn vì sự thiện. Trong nhiều miền Á châu, quyền lực
chính trị vẫn còn là một dụng cụ thống trị hơn là phục vụ. Chúng tôi xót xa vì
sự hòa nhập chính trị đàn áp với sự khéo léo kinh tế, sự sát nhập tôn giáo với
chủ nghĩa bá quyền (sô-vanh) văn hóa.[9]
Trong gia đình chúng ta bắt gặp sự đau buồn tương tự:
“Phần đa gia đình Á châu hứng chịu một sự nghèo khổ lớn
lao. Họ phải đấu tranh hằng ngày và không thể thoát khỏi thực tại nghèo khổ bi
thảm này. Nhiều người trẻ nghèo gặp khó khăn nghĩ tới lập gia đình và khởi đầu
một gia đình thiếu hết những phương tiện nâng đỡ và hỗ trợ cơ bản. Nhưng ngày
nay nghèo khổ Á châu còn mang một chiều kích mới. Đây là tiến trình toàn cầu
hóa kinh tế với tính chất tân tự do đẻ ra một trật tự thế giới mới mà mọi quốc
gia phải được thích ứng vào, nếu không nó bị bỏ lại phía sau trên đường tới sự
tiến bộ kinh tế được định nghĩa bởi những quốc gia phát triển”.[10]
Bức tranh như cho thấy bộ diện toàn cầu hóa kinh tế như
một thứ “cạnh tranh không thương xót”.[11] Anh sống, tôi chết hoặc ngược lại.
Không thể và không hề có sự khoan dung. Nó khác nào trên một võ đài tỉ thí một
mất một còn. “Những lực lượng đe dọa dẫn tới phá giá những giá trị tích cực”.[12] Các tham dự viên CCA-FABC Joint
Ecumenical Formation (JEF II) nhận định “nỗi đau, nước mắt, tiếng kêu than của
dân chúng… chúng tôi nhận diện các nạn nhân và những người dễ bị là nạn nhân
nhất,đôi khi trên chủng tộc, giai cấp,quốc gia, hệ phái chính trị và trạng
huống kinh tế-xã hội”.[13]
Á châu chứng kiến một thứ xung đột tôn giáo như thể đang
lên ngôi. Điều này rõ ràng đi ngược lại với tính chất hiếu hòa, hiếu khách, đuề
huề của Á châu.[14] Từ thuở xa xưa, dân chúng Á châu đã
từng sống chung bình an mặc dù với những tôn giáo khác nhau. Các tôn giáo đã
góp phần tạo nên một "hồn" Á châu[15] rất bình dị và chất phác, an lành
mà dưới một góc cạnh nào đó được các câu ca dao Việt Nam bộc lộ rất hay:
"Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn", hay "Dẫu xây chín bậc phù đồ, Không bằng làm phước cứu
cho một người" hay " Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho
vừa lòng nhau" hay "Lá lành đùm lá rách". Tâm hồn Á châu đã từng
nêu bật "sự hiếu khách nồng ấm, sự sẵn lòng chân thành để chia sẻ và đối
thoại".[16]
Nguyên nhân của những thảm cảnh này không phải do bởi một
Á châu không có tài nguyên hay tài lực, nhưng do bởi Thần Tài đã ngự trị và chi
phối. Thần Mammon đã lũng đoạn các quyền lực quân sự và chính trị để làm lèo
lái chân lý và tự do.[17] Văn kiện JEF II viết: “Lòng yêu mến
tiền bạc và quyền lực cũng như nhu cầu duy trì địa vị đặc ưu của chính mình và
nguyên trạng dường như ở tận gốc rễ của những sự dữ này”.[18] Đấy là “tác nhân” của mọi bất công
và phân biệt đối xử. Hơn nữa, “có một mối liên hệ gia cố lẫn nhau giữa những vị
lãnh đạo quyền lực chính trị, những người nắm sức mạnh kinh tế, quân sự, đa
phương tiện, và những người xuất sắc (chóp bu) khác mà địa vị của họ tùy vào
việc bảo tồn được nguyên trạng”.[19]
Các tham dự viên trong diễn đàn về học thuyết xã hội của
Giáo Hội trong bối cảnh Á châu xác quyết cùng một điều như thế:
“Chúng tôi nhìn nhận Á châu là một lục địa nghèo khổ cùng
cực và bóc lột với những đòn bẩy của quyền lực và giàu trong tay những người
thống trị xã hội, cả bên trong lẫn bên ngoài, và ở đó hệ thống thống trị tiếp
tục gây ra đau khổ lớn lao trên những kẻ vô quyền lực và những người nghèo
không có tiếng nói”.[20]
Cơ cấu xã hội cũng cản trở thay đổi. Á châu muốn nói nhiều
hơn đến giáo dục. Nhưng chủ trương giáo dục độc quyền và độc chiều vẫn còn ngự
trị nơi Á châu. Đó đúng là một rào cản cho sự biến đổi sâu xa và cơ bản trong
xã hội,[21] vì nó không cổ xúy sự phát triển
toàn diện nhân vị. Trái lại, nó đề cao một lối nhìn duy lợi về con người, biến
con người không hơn gì một hàng hóa, một vật để thỏa mãn, hay một con vật sinh
lợi mà thôi. “Dân chúng trở thành một phần máy móc của tiến trình sản xuất và
như vậy, lao động trở thành bóc lột và khử trừ nhân phẩm”.[22]
Hay:
“Những giá trị tiêu cực của các nền văn hóa được liên kết
với những lực lượng tiêu cực của thời tân tiến đã kiềm chế sự phát triển nhân
bản chân chính. Những chiều kích tích cực và nguồn lực của chúng đã bị lãng
quên bởi những khuôn mẫu thống trị của sự phát triển”.[23]
Câu hỏi rất lớn về xã hội[24] liên đới với câu hỏi về luân lý.[25] Dẫu thế mặc lòng, tôn giáo vẫn đóng
một vai trò quan trọng trên đường các người Á châu nghèo khổ dưới mọi hình thức
đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống. Giữa tất cả vòng xoáy nghiệt ngã đó, Á châu
vẫn không mất hy vọng, vì “những kinh nghiệm và diễn đạt tôn giáo vẫn có thể
đóng một vai trò quan trọng trong việc mang lại một nền văn hóa hài hòa có nền
tảng thật sâu xa”.[26] Chỗ khác, “Sự nhạy cảm trước
điều linh thánh là một điều thuộc về khía cạnh nội tại của văn hóa và dẫn đến
điều ta có thể gọi là ‘kinh nghiệm tôn giáo’… kinh nghiệm tôn giáo, tôn giáo và
triết lý về cuộc đời mang tính nhân bản một cách toàn vẹn và cố hữu”.[27]
Đằng sau những dấu chỉ vừa tiêu cực vừa tích cực đó, ta
khám phá ra Á châu đang luôn khao khát một TÌNH THƯƠNG ĐÍCH THỰC mà không một
cơ chế nhân loại nào có thể cho họ được. Họ tin vào Mầu nhiệm khôn tả, Đấng
Siêu Việt.[28] Họ mong đợi được yêu thương, được
đối xử như một nhân vị và nhờ đó họ cũng trân trọng người khác như những nhân
vị cần được yêu thương. Họ minh chứng điều Đức Gioan XXIII nói về phương dược
của lòng thương xót mới chữa lành con người tân tiến là đúng. Nỗi khao khát này
làm cho họ đối diện với những sự dữ trên không phải như một người phản kháng,
nổi loạn cho bằng với một tâm hồn tôn giáo, kiên nhẫn và dịu hiền. Họ xác định
rõ không độc dược nào độc dữ cho bằng lòng người (Phim Dạ Yến). Họ đối diện với
những thực tại tiêu cực đó với một tâm hồn tôn giáo. “Nhiều tôn giáo cũng phục
vụ một chức năng “hạ nhiệt”: những niềm tin và nghi thức của chúng có thể làm
dịu cơn giận dữ trước bất công”.[29] “Một cấu tố cơ bản nằm ở chính lõi
tủy của những nền văn hóa này, cấu tố đó đảm bảo sự toàn vẹn và hài hòa liên lỉ
trong văn hóa”[30] không gì khác hơn là mối tương giao
úy kính đối với cảnh vực thần linh.
Với nhãn quan này, lối sống Á châu đề cao nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín,tức những tương giao nhân bản hơn là những hận thù và ghen ghét. Đó là
những thái độ thường hằng trong tương quan hơn là một pháo đài cố thủ cho yên
hàn. Các dân tộc Á châu “muốn theo đuổi toàn thể thực tại trong sự đa dạng vô
tận song lại duy nhất triệt để”.[31] Á châu với những tôn giáo luôn đề
cao và tạo cơ hội cho nguyện cầu, chiêm niệm, cho tĩnh lặng tâm linh[32] nhờ đó họ tìm sống hài hòa với
nhau, giữa những khác biệt và đôi khi giữa những chủ trương quá khích
(fundamentalist). Á châu xác tín “ở đâu có sự hài hòa, ở đó có niềm vui”.[33] Với nhãn quan tích cực của Kitô
giáo tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi là CỘNG ĐOÀN, là HIỆP THÔNG vĩnh cửu, ta có thể
khẳng định rằng Á châu vẫn luôn được Thần khí hướng dẫn trong tất cả thực tại
của nó: nơi các tôn giáo, các văn hóa, nơi người trẻ, những người di dân, những
người phụ nữ bị xâm phạm dưới mọi hình thức, giữa những đau khổ và thách đố.
FABC/OTC kết luận như sau khi phân tích và nhận diện hoạt động của Thần khí
trong thực tại muôn mặt của Á châu: “Những sức mạnh thiêng liêng đang hoạt động
trong những thăng trầm này và những phát triển mới chúng mang đến đang thách đố
tất cả mọi người ở Á châu, bất kể họ gắn bó với ý thức hệ hay tôn giáo nào”.[34]Thần khí đang làm cho CÂY TÌNH THƯƠNG
KHÔNG HỀ TÀN TẠ xòe tán mát rợp mọi vùng trời mà có khi dân chúng đang hưởng mà
không rõ. “Hãy tỏ lòng hiền dịu với cha mẹ, người thân, trẻ mồ côi, người thiếu
thốn, cho những người lân cận thân thiết với ngươi cũng như cho người lân cận
là kẻ xa lạ”.[35] “Hãy ban lương thực cho người thiếu
thốn, trẻ mồ côi, người tù nhân, từ tình yêu dành cho Ngài”.[36] Làm sao ta lại không thể thấy được
Thần khí của Đấng Xót Thương cũng hiện diện trong những giáo huấn như thế?
Trong bối cảnh như thế, Giáo Hội tại Á châu cũng phải ra
sức đi tìm căn tính của mình.[37] Bằng không, sẽ không có tương lai.[38] Vậy ra, những thách đố xuất phát từ
một Á châu nghèo khổ, nhưng rất giàu những giá trị tôn giáo, văn hóa, lại trở
thành một KAIROS, thời khắc ân sủng.[39] Đây là lúc Giáo Hội tại Á châu tìm
ra được một cách thức mới để là Giáo Hội, để sống Giáo Hội. Cách thức ấy tóm
gọn vào những thái độ: đi ra, liên đới, nên một, khiêm tốn, can đảm và phục vụ.
Đó là thái độ của một vị ngôn sứ đầy Tin Mừng lân tuất hơn là một người lo “gìn
giữ”, “bảo tồn” và yên ổn một 'ngôi đền'. Thái độ ấy bó buộc toàn Giáo Hội Á
châu phải nhìn đến khuôn mặt dứt khoát và tuyệt đối của Đức Giêsu Kitô, như
Tông huấn Giáo Hội tại Á châu nói đến.
II. Diện mạo Đức
Giêsu Kitô trong FABC
Được tiếp nhận trong đức tin với khát vọng tìm kiếm Thiên
Chúa, những thực tại Á châu lại biến thành Kairos, thời khắc cho Giáo Hội tại
canh tân đức tin vào Đức Giêsu Kitô. Ngài là nguồn mạch của căn tính Giáo Hội.
Nay Giáo Hội tại Á châu được mời gọi canh tân việc chiêm ngắm Đức Giêsu-Sự
Sống. Tình yêu của Giáo Hội tại Á châu dành cho Đức Giêsu mới thức tỉnh Á châu
được.[40] Quả thế, FABC xác tín mạnh mẽ rằng
“Tin Mừng Đức Giêsu mà chúng ta mang lấy là Tặng Phẩm quí giá nhất chúng ta
mang đến cho Á châu. Chỉ Đức Giêsu luôn vĩ đại hơn mới là ý nghĩa của cuộc
sống, khổ đau, niềm vui và hy vọng của con người”.[41] Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, các
Giám mục Á châu đã muốn xoay hướng tới
“Mối quan tâm của Đức Kitô đối với dân chúng được nên hữu
hình trong một mảnh đất Á châu khác; Đức Kitô cũng là Chúa của tương lai nhân
loại. Vì Ngài hiện diện bên cạnh chúng ta và trong chúng ta, nên chúng ta xin
Ngài giúp chúng ta nâng cao thành đô của anh chị em chúng ta – một thành đô sẽ
phản ánh trong hy vọng và hứa hẹn, Vương quốc mà Ngài đã đặt nền móng, khi hòa
giải mọi người trong Ngài, bằng máu Ngài trên thập giá; những đường nét của
Vương quốc ấy Ngài đã mặc khải trong tình yêu vốn là tặng phẩm Ngài ban cho
chúng ta”.[42]
FABC muốn nhìn và gắn bó Đức Kitô sống động, hiện thân
sống động của lòng thương xót mà dân tộc Á châu có thể chạm đến theo phong cách
Á châu. FABC VIII nói rõ đến một Đức Kitô như Giao Ước Tình Yêu giữa Thiên Chúa
và nhân loại, là Sự Sống qua chia sẻ Tình yêu, sự hiệp thông và tình liên đới.[43]
“Tình yêu Thiên Chúa không nơi nào tràn ngập và vượt trội
hơn khi Thiên Chúa sai Con một đến đảm nhận nhân tính chúng ta ngoại trừ tội
lỗi […] Là Chủ tể sự sống, ngài hiến mạng sống vì những người khác để rồi lấy
lại […] Ngài là chính sự sống miêu tả sứ mệnh của mình là ban sự sống cho Vương
quốc Thiên Chúa, một Vương quốc ngài nói đến một cách khác biệt triệt để vì yêu
thương những kẻ thấp hèn và khiêm nhường”.[44]
FABC/OE minh định mãnh liệt như sau:
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, ở tại tâm điểm
của đức tin chúng ta. Nơi Người, sự tỏ lộ chính mình ngàn đời trước qua lịch sử
nhân loại đã đạt đến tột đỉnh. Nơi Đức Giêsu, chính Thiên Chúa đã đi vào lịch
sử nhân loại và trở thành một thành viên của nhân loại. Sự đồng nhất trọn vẹn
này với chúng ta của Con Thiên Chúa được sắp đặt để chia sẻ với chúng ta tư
cách là Con Chúa Cha của Người. Đức Giêsu hoàn thành sứ mệnh này qua cuộc đời
trần thế của ngài, và một cách phi thường (có một không hai) qua mầu nhiệm vượt
qua của cái chết và phục sinh cũng như tuôn đổ Thánh Thần trong lễ Ngũ Tuần”.[45]
Hai trích dẫn trên đủ để xác minh FABC có tương đối hóa
vai trò của Đức Giêsu hay không. Hơn nữa, chúng còn cho thấy cách thức FABC
nhìn đến vai trò độc nhất vô nhị hệ tại điều gì: không phải trong một công thức
chết nào đó, nhưng trong thực tại sống động là TÌNH YÊU HY SINH và ĐẢM NHẬN mọi
thực tại nhân loại cách trọn vẹn và tuyệt đối. Dứt khoát, “Đức tin của các Tông
đồ vào Đức Kitô Phục sinh là đức tin của chúng tôi”.[46] Đúng hơn, FABC cho thấy rằng cần
phải gắn bó và đặt nền trên Đức Kitô, lòng thương xót sống động của Thiên Chúa
trên trần và trong lịch sử, để có thể tiến bước cùng với những tín đồ của các
tôn giáo khác. Khác hẳn với thái độ Kitô hữu chịu ảnh hưởng của thứ “ngoại giáo
La mã”, theo lối nói của Aloysius Pieris, tính duy nhất tuyệt đối của Đức Kitô
như nguồn ơn cứu độ không hề chấp nhận chút nào chủ nghĩa loại trừ
(exclusivism) vốn luôn làm sai lạc một Đức Kitô miệt mài tìm con người lạc lối
cho bằng được (x. Lc 15). “Chúng tôi phải công bố Đức Giêsu là Con Thiên Chúa,
là Đấng Cứu độ duy nhất của thế giới, là Đấng hoàn thành những khát vọng sâu xa
nhất của trái tim Á châu vượt quá những giấc mơ nhân loại”.[47]
Vì thế, FEISA VII xác định rằng “’Cánh Cửa’ của Giáo Hội
tới ‘một tầm nhìn mới về thế giới’ được đặt nền trên lòng thương cảm và xót
thương của Chúa Cha đối với sự tăng trưởng của niềm vui và hy vọng cũng như sự
xóa bỏ ưu sầu và thống khổ”.[48] Làm thế nào để làm cho điều này
được hiện thực? FABC/OE trả lời:
“chúng ta hãy trình bày Đức Kitô như đúng thực là ngài.
Hãy để những người nghe chúng ta nhìn thấy Đức Giêsu như các Tin Mừng trình bày
Ngài, cuộc đời, lời nói, những việc chữa lành, lòng thương xót và tình yêu,
những hành vi tha thứ, những việc ngài đối xử với người khác, cách thức độc
nhất trong đó ngài từ bỏ sự sống mình”.[49]
Còn FEISA VII trả lời vấn nạn trên bằng cách “miêu tả”
thực trạng, “phân tích để hiểu những mãnh lực xâm nhập” vào các quốc gia Á châu
và rồi “tổng hợp cũng như tìm kiếm những câu trả lời đầy trắc ẩn nằm sâu trong
chúng ta như những môn đệ của Đức Kitô và như một Giáo Hội trong hiệp thông”.[50] Cách chiêm ngắm Đức Giêsu rất hiện
thực đó làm cho FABC nhận ra Chúa Giêsu hằng sống. Như vậy, các Giáo Hội Á châu
thấy rất rõ Chúa Giêsu của Tin Mừng mà Giáo Hội công bố cách trung thành và
sáng tạo mới là câu trả lời mà Á châu đang cần.[51] Thật thế, “Chỉ từ Đức Kitô mới có
thể có những câu trả lời không chút lừa dối hay gây thất vọng”.[52]
Ta khẳng quyết FABC không sáng tác ra một Đức Kitô nào
mới. Vẫn chỉ là Đức Giêsu Kitô mà Giáo Hội hằng tuyên xưng “hôm qua, hôm nay và
cho đến muôn đời” (Hr 13:8). Tuy nhiên, Giáo Hội ấy tiếp nhận huấn thị Dominus
Iesus theo cách thức của mình trong bối cảnh đa tôn giáo và văn hóa để tìm ra
“những hàm ý của nó cho đối thoại và những tương giao liên tôn”.[53] Rõ ràng FABC muốn nhìn thấy một Đức
Kitô đối thoại để cứu độ, yêu thương, thuyên chữa, nói tắt, để chạnh lòng xót
thương. Giáo Hội tại Á châu chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ thế giới.
Đấng Cứu độ này không bao giờ loại trừ hay coi nhẹ những vị cứu tinh của các
tôn giáo khác. Trái lại, Đấng Cứu độ ấy hoàn toàn tán thành, trân quí và hậu tạ
bất kỳ ai có thể làm một điều gì đó xoa dịu sự thiếu thốn của các anh chị em
nghèo của ngài, ngay cả một chén nước lã, hay một tấm vải che đậy sự trần
truồng của họ.
“Chúng ta tin vào Đức Giêsu là Đức Kitô, điều đó không đòi
hỏi trục xuất những diện mạo cứu tinh của những tôn giáo khác, cũng như không
chối bỏ giá trị cứuđộ của những tôn giáo khác. Theo chân Đức Giêsu khiêm nhường
và xót thương, chúng ta chia sẻ với những người khác Đức Giêsu muốn gì nơi
chúng ta và vì thế cũng muốn gì nơi người khác”.[54]
Chỗ khác,
“Nơi Đức Kitô, chúng ta nhận biết Thiên Chúa nhập thể dứt
khoát và quyết liệt đi vào thế giới. Đức tin vào Đức Kitô này không phải là một
lời phán xét về những tôn giáo khác”.[55]
Đúng hơn, chính Đức Giêsu ấy lại giúp Giáo Hội Á châu kính
trọng và tìm ra “cách thức mà những diện mạo lịch sử và những yếu tố tích cực
của những tôn giáo khác rơi vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa”.[56] Đức Kitô như thế làm cho Giáo Hội
tại Á châu hoán cải và thú nhận những tội lỗi, thiếu sót và phản chứng mà ta sẽ
nói ở phần sau.[57]
Thật vậy, FABC nhìn đến một Đức Giêsu đối thoại và rộng mở
như là cách thức diễn đạt lòng thương xót vô bờ, một lòng thương xót luôn tiếp
đón mọi người và từng người như là mục đích chứ không phải phương tiện. FEISA I
chiêm ngắm Đức Giêsu khai mở “Bữa Tiệc Bạn Hữu” (Fellowship Table) với những
người thu thuế và tội lỗi để khởi sự cuộc đối thoại cứu độ với họ.[58] Văn phòng Truyền Thông Xã hội của
FABC cũng nhìn đến Đức Giêsu là Đấng Thông Truyền trong đối thoại qua việc làm
và lời nói.[59] FIRA I nói rõ “chúng ta cần đâm rễ
sâu xa nơi Đức Kitô để là những tông đồ của đối thoại”.[60] Đang khi đó diễn đàn về diện mạo Á
châu của Đức Kitô nhấn mạnh đến Đức Kitô với dân chúng và cho dân chúng, nói
không với mọi quyền lực thống trị qua hành động rửa chân các môn đệ. Diễn đàn ấy
nói đến một “Khóe nhìn Thứ Ba” vào Đức Kitô, “từ viễn cảnh của người nghèo và
trong người nghèo và bị áp bức”; cần đến “sự bén nhạy thiêng liêng để thấy diện
mạo Đức Kitô nơi những người nghèo trong những trạng huống khác nhau của họ”.[61]Hội nghị đó liên kết một cách rất tuyệt
vời giữa một Thiên Chúa đối thoại được thể hiện một cách độc đáo và dứt khoát
nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa nhập thể để đối thoại và băng bó một nhân loại bị
thương do hận thù và ghen ghét với một Giáo Hội đối thoại để tìm cách hòa giải
và thông cảm với anh chị em của mình.[62]
Các Giáo Hội tại Á châu gắn bó dứt khoát với một Đức Giêsu
sống vì Vương quốc Thiên Chúa.[63] FIRA II cho chúng ta diện mạo của
Đức Kitô như sau:
- Việc Ngôi Lời thần linh nhập thể nơi Đức Giêsu biểu thị
việc chính Thiên Chúa xen nhập cách triệt để vào lịch sử nhân loại.
- Sứ điệp của Đức Giêsu về Vương quốc Thiên Chúa mang đến
một ý nghĩa cứu độ cho tất cả các lãnh vực của đời sống, đặc biệt cho người
nghèo và bị loại ra lề xã hội, và do vậy bộc lộ chiều kích thần linh của thế
giới.
- Qua Đức Kitô chịu đóng đinh, Thiên Chúa mặc khải chính
mình là Thiên Chúa chịu đau khổ với chúng ta, cách riêng với những người nghèo
đang phấn đấu và đau khổ và với những đau khổ của mẹ trái đất.
- Trong Đức Kitô phục sinh Thiên Chúa mặc khải chính mình
là Thần khí biến đổi đời sống chúng ta thành Tạo dựng mới.[64]
Các Giáo Hội tại Á châu tuyên xưng:
“Đức Kitô chịu đau khổ, Thiên Chúa của những nạn nhân,
muốn chết vì người khác; là Bạn và Đấng Giải phóng của người nghèo; Đấng xây
dựng Vương quốc Thiên Chúa; Đấng giàu lòng trắc ẩn, nhân hậu, tha thứ, khiêm
nhường, tự hiến, hiện diện để chữa lành”.[65]
OTC/FABC cùng một nhãn quan khi chiêm ngắm diện mạo Đức
Giêsu-Chúa trong tình ưu ái dành cho kẻ nghèo đủ loại, phá tan mọi rào cản để
cho Nước tình thương của Thiên Chúa lộ hiện và chạm được:
“Ngài đi xuống những người bị đè bẹp, bước đi với họ, sống
với họ, mang lấy gánh nặng của họ, gọi họ là bạn hữu… Ngài thách đố chủ nghĩa
loại trừ trong tôn giáo vốn mang lại phân rẽ người Do thái và người Samari.
Ngài dám chạm đến những kẻ không thể chạm được, kêu gọi các phụ nữ thành những
môn đệ thân cận của mình. Tình yêu ngài chạm đến cuộc đời đáng thương của những
kẻ bị xã hội ruồng bỏ, tháo bỏ xiềng xích của phi nhân phẩm và bất an và dẫn họ
đi vào sự tự do và niềm vui mà ngài chia sẻ với Chúa Cha… Ngài tuyên bố một
cách thẩm quyền và tin tưởng về Thiên Chúa và sự cai trị của ngài. Nước Thiên
Chúa ở đây giữa anh em. Ngài là đấng xót thương đám đông, khóc cho một người,
khóc cho cả thành. Người vô gia cư, đói nghèo, trần truồng – những kẻ bé nhỏ -
mang lấy bộ mặt của ngài. Không thỏa hiệp trong việc bảo vệ những kẻ bé nhỏ,
việc ngài chạm đến để chữa lành, những lời tha thứ báo hiệu tình xót thương của
Nước Thiên Chúa ùa ngập vào trong không gian và thời gian của chúng ta… Ngài
nói về việc hòa giải với những kẻ thù, cầu nguyện cho họ, yêu mến họ, tha thứ
cho họ. Một tình yêu triệt để vượt xa mọi lời nói!... Ngài kết án sự nô lệ cho
tiền bạc, sự tham lam và ích kỷ vốn đặc trưng hóa việc tôn thờ ngẫu tượng giàu
có… Như một Vị Thầy, ngài phục vụ. Ngài cho thấy quyền lực để làm gì, không
phải để thống trị và đàn áp, nhưng để phục vụ… Việc ngài tự do trao hiến chính
bản ngã mình cho tới chết bởi sự hành hình tàn bạo trên thập giá minh chứng yêu
thương, chia sẻ, phục vụ có nghĩa là gì. Bởi vì ngài yêu thương, ngài chết vì
chúng ta. Bởi vì ngài yêu thương, chúng ta sống”.[66]
Rõ ràng, chúng ta bắt gặp những nghĩ suy rất hợp với cả
truyền thống giáo phụ và của Giáo Hội, song được trình bày với lối nhìn Á châu:
Vì Ngài yêu thương nên chúng ta sống! Chính vì thế, trong bối cảnh của một Á
châu nhiều chia rẽ dù vẫn nỗ lực tìm hài hòa, FABC/OTC chiêm ngắm Đức Kitô hủy
mình ra không dưới lăng kính này một cách thuyết phục:
“Đức Kitô Tôi Tớ đau khổ của sự Hài hòa: Từ nhập thể tới
Phục sinh, đời sống của Đức Kitô được đặc trưng bởi đau khổ và thập gia. Chính
qua sự hủy mình ra không, trở nên vâng phục cho đến chết trên thập giá mà ngài
đồng nhất chính mình trong tình yêu với toàn nhân loại, cách riêng những người
bị chống đối nhất, yếu kém nhất và nghèo nhất. Do đó thập giá là vinh quang của
người Tôi Tớ Đau Khổ và sức mạnh để thiết lập sự hài hòa giữa nhân loại [….]
Nơi Đức Giêsu, tình yêu, lòng xót thương và sự tha thứ của Thiên Chúa tỏ lộ cho
thế giới để các dân tộc, Do thái và dân ngoại được hòa giải với Thiên Chúa Cha
trên trời và với nhau, để trở nên sự hiệp thông của hài hòa và tình yêu”.[67]
FABC/OTC nói đến mầu nhiệm của lòng thương xót được nhập
thể một cách hiện thực và hiện sinh khi liên kết với Thánh Thể. Thánh Thể không
chỉ là biểu tượng của lòng thương xót đã trở thành Tấm Bánh cho mọi người,
nhưng còn là phương thế Đấng xót thương tuyệt đối dùng để xây dựng vương quốc Ngài
hôm nay:
Thánh Thể Ngài cử hành với những môn đệ trong đêm trước
khi Ngài chết một cách bí tích tưởng niệm tình yêu toàn vẹn này (Mc 14:22-25;
Mt 26: 26-29; Lc 22: 14-20. X. Ga 13: 1-5). Đấng được xức dầu, Đức Kitô, Đấng
hiến mạng sống cho nhân loại qua cái chết đã muốn thế. Ngài chấp nhận chén đắng
đau khổ (Mc 14: 36; Mt 26:39, 42). Phi lý, đúng , nhưng trong sự thương tổn tàn
bạo nhất và toàn diện nhất, trong cái kinh nghiệm nhân loại phi lý nhất, là
quyền năng và sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa (1 Cr 1: 14). Bằng đau
khổ và cái chết này, Đức Giêsu chiến thắng sự chết, khôi phục sự sống. Việc
Ngài phục sinh từ kẻ chết làm Ngài thành “Sự Chiến Thắng của Nhân Loại Đau
Khổ”… Ngài là bánh và của uống sự sống, là nước ban sự sống (Ga 6:51; 4: 10-13;
7:37-38). Ngài là sự sống. Ngài hoàn thành những khát vọng sâu xa nhất của nhân
loại tới sự sống sung mãn, một người hoàn toàn cho tha nhân và hoàn toàn cho
Thiên Chúa… Đây là cách thức chúng ta nhìn thấy Đức Giêsu với một diện mạo Á
châu… Vì như Ngài đã là Tin Mừng cho người nghèo trong thời đại Ngài, thì ngày
nay Ngài không thể không là Tin Mừng cho “hàng triệu đông đảo người Á châu”
Hình ảnh nhân bản này của Đức Giêsu, sinh bởi người nữ, là Thiên Chúa đã nên
nghèo khổ, Thiên Chúa ở với chúng ta, sự bình an, bậc thầy và ngôn sứ, người
thuyên chữa, người của hài hòa, người tôi tớ-lãnh đạo đau khổ, đấng giải phóng,
người ban sự sống, là một hình ảnh cộng hưởng mạnh mẽ với tình trạng nô lệ của
Á châu, với sự phấn đấu của Á châu vươn tới công bằng và hài hòa – với sự phấn
đấu của chúng ta để sống.[68]
Chúng ta bắt gặp ở đây, có thể nói, bản tổng kết của những
diện mạo Đức Giêsu mà Á châu muốn chiêm ngắm. Suy nghĩ về diện mạo Đức Giêsu
như thế theo FABC khiến tôi phải trích dẫn nơi đây suy tư đầy tâm tình cầu
nguyện của thánh Anselmô về Đức Giêsu và tình thương của Thiên Chúa, dẫu cách
xa hàng bao thế kỷ:
Phần tôi, điều gì tôi thiếu do lỗi của tôi thì tôi tin
tưởng dựa vào lượng hải hà của Chúa, vì Người chan chứa tình thương, và nơi
Người không thiếu những lỗ hổng cho tình thương ấy trào ra. Bọn lính đóng đinh
chân tay Người và dùng lưỡi đòng mở cạnh sườn Người ra; và qua kẽ hở này tôi
được nếm mật ong từ hốc đá chảy ra, nếm dầu từ tảng đá cứng nhất, nghĩa là nếm
thử và nhìn coi Chúa tốt lành biết mấy… mũi đinh đóng vào Người lại trở thành
chìa khóa mở ra cho tôi, để tôi nhìn ra ý Chúa. Qua lỗ hổng, tôi thấy gì? Mũi
đinh kêu lên, vết thương kêu lên rằng nơi Đức Kitô, Thiên Chúa thực sự hòa giải
thế gian với mình. Lưỡi đòng đã đâm thấu tâm hồn Người và đụng tới trái tim
Người, để Người biết cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta. Qua những vết
thương trên thân thể Người, chúng ta thấy lộ ra điều ẩn giấu nơi trái tim
Người, thấy hiện tỏ mầu nhiệm tình thương lớn lao của Người và lòng trắc ẩn của
Thiên Chúa chúng ta, Đấng tự chốn cao vời đã viếng thăm ta. Làm sao lòng trắc
ẩn ấy lại không hiện tỏ qua những vết thương? Lạy Chúa là Đấng dịu dàng, hiền
lành và giàu lòng trắc ẩn, ở đâu lòng trắc ẩn ấy bừng lên cho bằng nơi các vết
thương của Ngài? Quả vậy, không ai có tình thương cao cả hơn người hy sinh mạng
sống cho những kẻ bị lên án tử. Bởi thế công trạng của tôi là tình thương của
Chúa. Tôi không thiếu công trạng bao lâu Thiên Chúa không thiếu tình thương.
Nếu Chúa giàu lòng trắc ẩn thì tôi càng nhiều công trạng. Vậy nếu tôi biết mình
nhiều tội lỗi thì sao? Thật ra, ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng
chứa chan gấp bội. Và nếu tình thương Chúa trải qua muôn ngàn thế hệ, thì tôi
cũng ca tụng tình thương Chúa cho đến muôn đời. Chẳng lẽ tôi lại ca tụng đức
công chính của tôi sao? Lạy Chúa, tôi sẽ chỉ nhớ đến đức công chính của Ngài mà
thôi. Đó là đức công chính của con, bởi Thiên Chúa đã đặt Ngài làm đức công
chính cho con.
Dường như rằng tình thương tận bên trong Thiên Chúa dư
tràn quá đến độ phải xuất ra. Hình ảnh được Anselmô dùng thật độc đáo: Những lỗ
đinh trên thân thể Đức Kitô tuôn trào lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài
không thể không xót thương, không thể không ban phát cách hào phóng tình thương
ấy. Ngài không khi nào mệt mỏi để tha thứ, như Đức Phanxicô thường nói. Nếu ta
thường nói “hữu xạ tự nhiên hương”, và nếu Trung cổ khẳng định “sự thiện tự lan
tỏa”,[69] thì thật đúng cho lòng xót thương
của Thiên Chúa. Thật vậy, lòng thương xót luôn hoạt động và sẽ là tiếng nói
chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa. Và đời sống con người chỉ để ca tụng tôn
thờ tình thương Thiên Chúa, một tình thương trở thành đức công chính cho con
người tội lỗi và yếu đuối. Vì thế, FABC III mong muốn các Kitô hữu tại Á châu
nguyện cầu:
“Lạy Chúa, xin là ánh sáng của thế gian cho các tín hữu
Chúa, và là ánh sáng của thế gian cho những người đang mong đợi lòng
thương xót và tình thương mến của ngài tỏa sáng trên nhân loại. Xin là ngọn đèn
soi lối chúng con, thắp sáng con đường dẫn tới Chúa Cha và tới Thành Đô nơi
Ngài cư ngụ trong ánh sáng”.[70]
III. Giáo Hội của
lòng thương xót
Chiêm ngắm Đức Giêsu là lòng thương xót đã nhập thể, FABC
nhận ra vai trò của Giáo Hội: bí tích của lòng xót thương mang danh Giêsu Kitô
cho con người hôm nay. “Diện mạo này sẽ thu hút dân tộc Á châu trong và qua
khuôn mặt của Giáo Hội”. Đứng trước sứ mệnh này, Giáo Hội tại Á châu thấy mình
đã sai lỗi nặng nề:
“Giáo Hội thường bày ra những phản chứng đối với việc loan
báo Tin Mừng cho người nghèo, thiếu can dự cụ thể vào việc đối thoại liên niềm
tin và thiếu quan tâm thực sự đến hội nhập văn hóa. Trong nhiều trường hợp,
Giáo Hội không lên tiếng nói ngôn sứ trong những vấn đề bất công bởi vì tình
trạng thiểu số của mình xét như cộng đoàn”.[71]
Hay,
Chúng tôi khiêm nhường thừa nhận rằng trong quá khứ chúng
tôi đã gây ra đau khổ không chỉ cho chính mình song cả cho những người có những
niềm tin khác bởi vì sự ngu dốt, sự không khoan nhượng, tâm trí nông cạn, thái
độ cực đoan, sự loại trừ và cảm thức tự tôn của mình.[72]
Theo ánh sáng đó, FABC/OTC chỉ ra rằng ý nghĩa của người
môn đệ Đức Giêsu: Đó là cộng đoàn môn đệ của Chúa Giêsu mà “chủ nghĩa bách
thắng, sự phân biệt đối xử, giáo sĩ trị, thống trị, chủ thuyết loại trừ, sự
thích nghi làm phí mất sự thật và sự công bằng chỉ là một số thái độ có thể đã
được xây dựng trong các cấu trúc của chúng ta”. Đó là cộng đoàn môn đệ của Đức
Giêsu nghèo hèn. “Cộng đoàn Giáo Hội được gọi để đảm nhận một diện mạo thật sự
nhân bản: một giáo hội không chống đối việc được nhập thể trong nhân loại yếu đuối;
một Giáo Hội không quay mặt khỏi những khó khăn của lịch sử; một Giáo Hội không
giữ lại trong việc làm rỗng chính mình”; đó là một cộng đoàn của Đức Giêsu của
cộng đoàn và hài hòa. “Chúng ta không chỉ được gọi tới hiệp thông như những cá
nhân. Chúng ta cũng được gọi tới sự hiệp thông của các dân tộc và của các cộng
đoàn Giáo Hội và vượt thắng những chia rẽ của các Giáo Hội Chúa Kitô”. Đó là
cộng đoàn môn đệ của Đức Giêsu là Tôi tớ của vương quốc Thiên Chúa. “Nó thúc
đẩy chúng ta tới vinh quang chỉ trong việc trở nên tôi tớ khiêm nhường của
Vương quốc, vì tách khỏi đó, chúng ta đánh mất ý nghĩa của cộng đoàn chúng ta…
vì giá trị của vương quốc xét cho cùng mới hiệp nhất chúng ta với Chúa”. Đó là
cộng đoàn môn đệ của Đức Giêsu như vị Ngôn sứ và Dấu chống báng. “Qua lời loan
báo, phong thái sống và sự hiện diện, chúng ta phải phơi bày ra những giá trị
ngụy tạo (sai lầm) dễ dàng được những người Á châu ngày nay ôm ấp và những hiệu
quả làm suy giảm nhân phẩm của họ, cách riêng những người nghèo”. Đó là cộng đoàn
môn đệ của Chúa chịu đóng đinh. “Diện mạo của Chúa chịu đóng đinh có nghĩa là
yêu mến Thiên Chúa và tha nhân cách toàn vẹn và không ích kỷ. Diện mạo của Giáo
Hội phải là diện mạo của tình yêu tinh ròng, cách riêng trong bóng đêm của
không thương mến”.[73]
Đối với FABC, chiêm ngắm Thiên Chúa sẽ thúc đẩy tới một sự
hoán cải thật sự của Giáo Hội. Thiên Chúa, chủ tể của lịch sử, cai trị bằng
thương mến, tha thứ qua Giáo Hội tha thứ và liên đới[74] vì xét cho cùng chính Đức Giêsu là
Người Phục Vụ (Tác Viên) Duy Nhất của nhân loại.[75]
Nhưng diện mạo một Giáo Hội như thế không phải là một Giáo
Hội chung chung. FABC muốn nói đến một Giáo Hội địa phương thật sự sống động
theo tâm trí của Đức Giêsu.[76] FABC nhận ra có một sự đồng nhất
phong phú: Giáo Hội với nguyên lý của địa phương hóa (indigenization and
inculturation) cũng là Giáo Hội của nguyên lý của lòng thương xót và trắc ẩn
thần linh, lòng thương mến dịu hiền, sứ mệnh yêu thương và phục vụ.[77]Asian Bishops' Meeting (ABM) viết rằng
“Giáo Hội địa phương đích thực sẽ vun trồng liên tục và ngày một hơn “cảm thức
sâu xa của tình liên đới”. Nó thúc đẩy các Giáo Hội tại Á châu nhất quyết là
một “Giáo Hội của người nghèo” một cách chân thật hơn.
“Nếu chúng ta phải đặt mình bên cạnh đám đông dân chúng
trong lục địa này, trong lối sống chúng ta, chúng ta phải chia sẻ một điều gì
của sự nghèo khổ của họ. Giáo Hội không thể thiết lập những hòn đảo giàu có
giữa biển cả thiếu thốn và khổ cực. Đời sống cá nhân của chúng ta phải làm
chứng cho tính đơn giản của Tin Mừng, và không ai, bất kể thấp hèn hay nghèo
khổ thế nào, thấy khó khăn đến với chúng ta và tìm thấy nơi chúng ta những
người anh em của họ”.[78]
"Chúng tôi mơ đến một Giáo Hội tôi tớ: tôi tớ của
Thiên Chúa, tôi tớ của Đức Kitô, tôi tớ của kế hoạch cứu độ của Ngài; cũng là
Giáo Hội tôi tớ của các dân tộc Á châu, của những niềm hy vọng, mong đợi và
khát khao sâu xa của họ; tôi tớ của những tín đồ của các tôn giáo khác của
những người nam nữ, một cách đơn giản và toàn vẹn, tôi tớ của tha nhân. Một
Giáo Hội tôi tớ không có sự khoe khoang và yêu sách. Một Giáo Hội tôi tới không
nhấn mạnh trên quyền lợi của mình; Giáo Hội cống hiến những sự phục vụ, không
bị xúc phạm khi không được chấp nhận. Một Giáo Hội tôi tớ giữ im lặng khi
bị phớt lờ, bị lãng quên hay bị đối xử không công bằng".[79]
Như thế, một Giáo Hội có lối sống đơn giản, sẽ bộc lộ một
cảm thức mạnh mẽ về tình liên đới và diễn đạt được diện mạo của Thiên Chúa xót
thương, vốn tiên vàn không hệ tại ở việc chúng ta cho họ cái gì, nhưng ở chỗ
cách thức chúng ta trao ban. Trên hết họ cần tình yêu, cần được yêu thương,
được kính trọng, nói tắt, được xót thương.[80]
Chính theo ánh sáng này, FABC nói đến Giáo Hội đối thoại.
Không phải Giáo Hội tại Á châu chỉ thực hiện cuộc đối thoại tam diện: với người
nghèo, với văn hóa, với tôn giáo. Nhưng Giáo Hội ấy muốn là Giáo Hội đối thoại.
Nói khác đi, đối thoại thuộc về căn tính và bản chất và mục tiêu của Giáo Hội
tại Á châu. Giáo Hội ấy có cách đọc Lời Chúa với một cách thức đối thoại: đối
thoại với những nguồn phong phú của các nền văn hóa và tôn giáo tại Á
châu.[81] FABC quan niệm
“Giáo Hội, cam kết cho Tin Mừng về Vương quốc Thiên Chúa
phải thừa nhận cùng một Vương quốc ấy đang hoạt động trong những tình trạng xã
hội-chính trị và trong những truyền thống văn hóa và tôn giáo và đi vào đối
thoại với chúng… Sự cam kết cho đối thoại như thế không chỉ mang tính chất nhân
học, nhưng tiên vàn có tính chất thần học. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đối thoại
với con người, ban cho họ ơn cứu độ. Chính trong sự trung thành với sáng kiến
này của Thiên Chúa mà Giáo Hội phải cam kết để đối thoại ơn cứu độ với tất cả
mọi người nam nữ… Giáo Hội địa phương của Á châu phải cam kết đối thoại với
những phong trào và lực lượng xã hội-chính trị đang làm việc hướng đến sự phát
triển toàn diện, công bằng xã hội và hòa bình… Vai trò ngôn sứ của Giáo Hội địa
phương tại Á châu thúc đẩy họ cũng đóng vai trò kích thích tố trong việc làm
cho đối thoại nên dễ dàng giữa các lực lượng xã hội-chính trị, tôn giáo và văn
hóa khác nhau… Đối thoại dẫn những người đối tác đến sự thanh luyện nội tâm và
sự hoán cải toàn diện nếu được theo đuổi với sự dễ dạy (thuần thục) đối với
Thần khí”.[82]
Chỗ khác,
“Liều bị thương trong hành vi yêu thương, tìm cách cảm
thông trong một bầu khí hiểu lầm - đấy là những gánh nặng không nhẹ chút nào để
mang vác. Đối thoại đòi hỏi một linh đạo sâu xa vốn làm cho con người, như Đức
Giêsu, có thể lệ thuộc vào đức tin của mình vào tình yêu của Thiên Chúa, ngay
cả khi mọi sự dường như tan rã. Cuối cùng, đối thoại đòi hỏi một sự hủy bỏ
chính mình toàn vẹn như Đức Kitô vậy, để, một khi được Thần khí dẫn dắt, chúng
ta nên những dụng cụ ngày một hữu hiệu hơn để xây dựng vương quốc Thiên
Chúa".[83]
Chẳng lạ gì mà FABC nói đến việc truyền giáo, loan báo Tin
Mừng tại Á châu không thể không đi với sự đối thoại mà hội nhập văn hóa vừa là
dấu hiệu vừa là hiệu quả và đích tới của nó. Hình thức bình dân của sứ mệnh
truyền giáo mang tính đối thoại là kể chuyện Đức Giêsu, là chia sẻ đức tin.
Asian Mission Congress 2006 viết: “Truyền giáo có nghĩa là giữ cho câu chuyện
về Đức Giêsu sống động, hình thành cộng đoàn, tỏ lộ lòng thương xót, làm bạn
với ‘người khác’, mang vác thập giá, làm chứng cho ngôi vị Giêsu sống động”.[84] Giáo Hội ấy biết điều gì là quan
trọng cần phải làm, chứ không thể theo chủ nghĩa cầu toàn.
“Vì làm sự thật đến trước việc trình bày giáo lý, các Giáo
Hội tại Á châu không đợi một câu trả lời thần học thỏa đáng trước khi đi xa hơn
nữa trong thực hành đối thoại và loan báo… chúng tôi ý thức rằng việc làm hùng
biện hơn lời nói và yêu thương thì tốt hơn là giảng về yêu thương, đối
thoại thì tốt hơn viết về đối thoại. Cả hai đều cần thiết, nhưng tình yêu là
tặng phẩm lớn hơn hết, là đặc sủng tồn tại đến sau cùng”.[85]
Asian Mission Congress đề nghị kể chuyện Đức Giêsu trong
đời sống chúng ta, trong những dân tộc có những niềm tin khác, cũng như trong
những nền văn hóa của Á châu. Mục đích chính yếu là để cổ xúy “một văn hóa của
phục vụ, thương xót, đời sống có kỷ luật, suy niệm, thinh lặng, đơn giản, hòa
giải và hài hòa”.[86]
Trực giác này khiến FABC ký thác một vai trò không thể
thiếu được trong việc thực thi lòng xót thương cho anh chị em giáo dân. Họ
không chỉ trình bày một Giáo Hội hiệp thông được làm thành cụ thể bằng cách cổ
xúy một Giáo Hội tham gia.[87] Họ có một chỗ đứng độc đáo: là Giáo
Hội cho thế giới và là thế giới cho Giáo Hội. (x. CELAM). Họ có vai trò thiên
sai mà linh mục thừa tác không thể làm suy giảm được.[88] Chức năng đó cho thấy vai trò của
giáo dân phải liên kết với bình an, hy vọng do yêu thương, để vươn ra và vươn
tới, trình bày việc tông đồ mang đặc tính hướng tới thế giới và hướng tới Vương
quốc.[89] Chính vì thế, “Tư cách môn đệ Chúa Giêsu
tại Á châu được đâm rễ trong các thực tại của Á châu. Linh đạo Kitô giáo phải
được nhập thể… mang tính quy về Đức Kitô và được khởi hứng bởi Thần khí”.[90] Mà sống theo Thần khí của Đức Giêsu
là gì nếu không phải là Thần khí của xót thương và chiêm niệm? FABC viết như
sau về lối sống của giáo dân:
“Mang đặc tính nhập thể, qui về Đức Kitô, Kinh thánh, bí
tích, Giáo Hội và cộng đoàn, linh đạo của Dân Thiên Chúa là một hành trình
trong Thần khí của Đức Kitô đi vào Vương quốc của Cha. Nó là một hành trình của
tư cách môn đệ, của yêu thương và phục vụ, theo khuôn mẫu của chính Đức Giêsu
chết và phục sinh. Từ trên cao, rõ ràng tận cơ bản chỉ có một linh đạo Kitô
hữu, nghĩa là điều là chung cho tất cả các môn đệ của Đức Kitô trong Giáo Hội…
nếu một linh đạo biệt loại cho giáo dân có thể được nhận diện, thì chính theo
nghĩa rằng giáo dân được gọi để sống tư cách môn đệ của Đức Giêsu và chia sẻ sứ
mệnh của ngài theo phận trần thế riêng của họ trong Giáo Hội…. Giáo dân được
chính Đức Giêsu sai phái để truyền những giá trị Tin Mừng vào các thực tại trần
thế và xã hội nhân loại”.[91]
Vì thế, theo FABC, giáo dân trình bày một cách thuyết phục
bằng đời sống hai chiều kích, thần linh và nhân bản, dầu không đồng nhất với
nhau, lại liên hệ với nhau, theo ánh sáng của mầu nhiệm Vượt qua, thập giá và
sự phục sinh của Đức Kitô, là khung hệ cơ bản của đời sống Kitô hữu và cuộc đấu
tranh hướng tới Vương quốc Thiên Chúa.[92] FABC tiếp thu cách xác tín hướng đi
rất mới song lại rất Tin Mừng của Vatican II: sự liên kết bất khả phân chia
giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa điều thần linh và điều nhân bản, giữa loan
báo Tin Mừng và phát triển toàn diện nhân vị. Nói tắt, họ có sứ mệnh trình bày
một lòng xót thương cảm nhận được theo cách nhân bản của vị Thiên Chúa làm
người. Họ nên như dụng cụ và bí tích của Đức Giêsu, vị Thiên
Chúa-của-con-người-theo-cách-con-người (Schillebeechx).
Nhằm tạo ra một ý thức về “cách thức mới là Giáo Hội”[93] FABC cổ xúy những cộng đoàn Kitô
hữu nhỏ (Small Christian Communities) và Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản (Basic
Ecclesial Communities) cũng như những cộng đoàn nhân loại cơ bản (Basic human
Communities). Tại đó, yếu tố thông phần, chia sẻ, liên đới trở thành con đường
và đích tới. FABC xác định mạnh mẽ truyền giáo không phải là chiêu mộ tín đồ
(proselytism) hay một kiểu “ăn cắp con chiên” (sheep stealing),[94] nhưng “chia sẻ Đức Giêsu với tha
nhân là lý lẽ tối hậu của tất cả hoạt động mục vụ của chúng ta”.[95] Theo ánh sáng đó, 1986 với BISA
VII, FABC đã thao thức tìm ra Chu kỳ mục vụ (Pastoral Cycle) mà nổi bật với
thái độ exposure/immersion (tỏ lộ và chìm ngập) mà không gì khác hơn là bộc lộ
một tình xót thương dám dấn thân chia sẻ mọi sự với những người đau khổ.[96] Theo đó, từ năm 1990, với FABC V
tại Bandung, tìm ra lối mục vụ ASIPA, có cội rễ từ các Giáo Hội Phi châu, để
trình bày lối mục vụ của tình yêu có thể chạm được.[97] Nó nhắm “cam kết xây dựng một xã
hội công bằng và trắc ẩn hơn”.[98] Nó trình bày một tư cách lãnh
đạo-tôi tớ, theo mẫu gương của Đức Giêsu, và trao quyền cho giáo dân trong
những tác vụ khác nhau, để đức ái lên ngôi. JEF II suy tư về hai lần “chịu”
phép rửa của Chúa Giêsu như sau:
“Chúng tôi bắt đầu bằng cách suy tư trên hai lần Đức Giêsu
chịu phép rửa… Phép Rửa tại sông Giordan là sự chìm ngập và chấp nhận của Đức
Giêsu đối với giao ước của Thiên Chúa với người nghèo. Phép Rửa tại Calvê là sự
chìm ngập của chính Đức Giêsu vào những cuộc đấu tranh và đau khổ của người
nghèo. Vì thế, nó là cuộc đấu tranh của ngài chống lại mọi ảnh hưởng khử trừ
nhân vị trong thời đại ngài, bao gồm cả những cơ cấu xã hội-tôn giáo và chính
trị đàn áp dân chúng bình dân. Qua tác vụ chữa lành và bữa ăn hay tình bạn đồng
bàn với mọi người không phân biệt, Đức Giêsu mặc khải vương quốc Thiên Chúa như
một vương quốc quan tâm đến giải phóng mọi người, cách riêng người nghèo. Do
vậy, Calvê là giao ước của Thiên Chúa chống lại Thần Tài Mammon, mà là bất kỳ
ai, bất kỳ cái gì, hay bất kỳ cơ cấu nào xói mòn con người và khử nhân vị của
họ”.[99]
Việc đối thoại liên tôn của FABC, xét cho cùng, luôn được
nhìn trong ánh sáng của “sự liêm khiết, kính trọng, thông cảm và tình yêu”.[100]
Kết luận
Trong bối cảnh của những thăng trầm và xáo trộn xã
hội-chính trị do muôn vàn hình thức được thúc đẩy bởi Thần Tài, Á Châu luôn
khát mong một lòng thương xót của Đấng Siêu Tôn. Những bậc thánh hiền và Tôn sư
của các tôn giáo tại Á châu đã đóng góp phần quan trọng vào hành trình xây dựng
Vương quốc Thiên Chúa mà đã được Thiên Chúa định liệu từ nguyên thủy và được
Đức Giêsu hiện thực như Đấng Tuyệt Hảo cũng như Nguồn Mạch và Cứu Cánh (Alpha
và Omega). Họ không trình bày một thứ cảm thức thiêng liêng ru ngủ, nhưng mang
đến những trực giác để tìm gặp được niềm vui đích thực và chân chính giữa những
khốn cùng nhân loại. Các tôn giáo ấy đã sống lòng thương xót của Đấng Siêu Tôn
theo cách của mình rồi, ngay cả trước khi Đức Giêsu đến.
Nhưng FABC cũng luôn tin vững vai trò tuyệt đối của Đức
Giêsu, Lòng Thương Xót đã nhập thể. Chính Ngài là hiện thân của lòng thương xót
để cho thấy Thiên Chúa không chút hủy bỏ những gì trước kia song đem chúng đến
chỗ thiện toàn. Không một sự thiện hảo của lòng xót thương nào mà không nói lên
Đức Giêsu, ít là cách tiềm mặc, vì Thiên Chúa đã quyết định như thế.
Và nay FABC cho thấy Giáo Hội xét như cộng đoàn môn đệ của
Đức Kitô, trong đó mỗi người có chỗ đứng, đều thấy phải nên như dấu chỉ và
phương thế của lòng thương xót ấy. Bằng không, Giáo Hội tại Á châu đánh mất căn
tính của mình. Trong nỗ lực ấy, Giáo Hội tại Á châu không dựa vào mình, nhưng
dựa vào Thiên Chúa, Đấng ban ơn cho những ai cầu khẩn. Vì thế, Giáo Hội tại Á
châu thốt lên
Lạy Thiên Chúa yêu thương và ban sự sống, tự ban đầu ngài
đã kêu gọi chúng con tại Á châu vào đời sống, làm giàu chúng con bằng những văn
hóa đa dạng và gây ngạc nhiên, những cách sống và tin tưởng. Như tội nhân và
anh em trong một gia đình Á châu của ngài, chúng con tạ ơn và ca ngợi ngài vì
những tặng phẩm của ngài.
Giữa chúng con là những người nghèo nhất trong những người
nghèo, hàng triệu người không chỉ tìm kiếm một đời sống tốt đẹp hơn, nhưng tìm
sự sống sung mãn mà chỉ mình ngài có thể ban tặng. Chúng con nghe Con Ngài Đức
Giêsu, phục vụ mọi người trong tình yêu toàn vẹn, trong sự vô vị lời hoàn toàn,
một cách tạ ơn (Thánh Thể).
Rõ ràng đây là Giáo Hội đang được xót thương và đang yêu
thương mới có thể hát bài ca mới (x. Thánh Augustinô). Giáo Hội tại Á châu muốn
làm chứng cho thực tại này trong căn tính của mình vậy.
Trích Tập san
Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 94 (Tháng 05 & 06 năm 2016)
[1] Tao Te Ching, 67.
[2] For
All the Peoples of Asia, vol. 2, tr. 151.For All the Peoples of Asia là
tựa đề của bộ sưu tập, có thể nói như thế, gồm những văn kiện và tài liệu của
chính FABC hoặc của những văn phòng trực thuộc FABC. Bộ sách này khởi sự
(volume 1) với hai nhà biên soạn Gaudencio B. Rosales và C.G. Arevalo, rồi sau
đó được nhà biên soạn Franz-Josef Eilers tiếp nối. Theo như tôi biết, nhà
xuất bản Claretian Publications , từ năm 1992 cho đến lúc này, đã phát hành
được 4 volumes (1992; 1997; 2002; 2007). Để gọn gàng cho việc ghi chú, từ đây,
xin cho phép tôi chỉ ghi vắn tắt tựa đề, số thứ tự bộ sách và số trang như
sau: For All ..., vol. 2, tr. 151.
[3] For
All..., vol. 1, tr. 70.
[4] x. For
All..., vol. 4, tr. 224.
[5] x. For
All..., vol. 4, tr. 8-9.
[6] x. For
All..., vol. 4, tr. 190.
[7] x. For
All..., vol. 3, tr. 66-68
[8] x. For
All..., vol. 4, 89-128
[9] FABC IX về
Thánh Thế.
[10] For All...,
vol. 4, tr. 5.
[11] x. Hội
đồng Giám mục Việt Nam, Đề Cương Giáo Hội tại Việt Nam: Mầu nhiệm - Hiệp thông
- Sứ vụ, Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo Phận TP. Hồ Chí Minh, tháng 10, 2008, tr.
11-15.
[12] For All...,
vol. 4, tr. 17) (cũng x. Đại hội dân Chúa 2011.
[13] For All...,
vol. 4, tr. 191.
[14] x. For
All..., vol. 2, tr. 232-265
[15] x. For
All..., vol. 2, tr. 255-266; cũng x.
http://vovworld.vn/vi-VN/Tap-chi-van-nghe/Trien-lam-anh-Tam-hon-Viet-Nam/384297.vov
[16] For
All..., vol. 2, tr. 58.
[17] x.
A.Pieris, God's Kingdom for God's Poor, Tulana Jubilee
Publications, Kelaniya,1999; MYSTICISM OF SERVICE
A short course on Christian Spirituality, Tulana Publications, Kelaniya, 2000.
[18] For All...,
vol. 4, tr. 191.
[19] For All...,
vol. 4, tr. 191.
[20] For All...,
vol. 2, tr. 42)
[21] x. Đại hội
dân Chúa 2011.
[22] For All..., vol.
2, tr. 235.
[23] For All...,
vol. 2, tr. 42.
[24] For All...,
vol. 1, tr. 70.
[25] Đại hội dân
Chúa 2011.
[26] For All..., vol.2, tr. 156.
[27] For All..., vol. 2, tr. 256.
[28] x. For
All..., vol. 2, tr. 186-187.
[29] For All..., vol. 2, 254.
[30] For All..., vol. 2, 257.
[31] For All..., vol. 2, tr. 157.
[32] x. FABC 3, For
All People, tr. 59.
[33] For All..., vol. 2, tr. 263.
[34] For All..., vol. 3, tr. 281; vol. 4, tr. 274.
[35] Qr 4: 36
[36] Qr 76: 8-9
[37] x. For
All..., vol. 1, tr. 69
[38] For All..., vol. 1, tr. 70; vol. 4, tr. 260.
[39] For All..., vol. I, tr. 69.
[40] x. For
All..., vol. 4, tr. 257.
[41] For All..., vol. 4, tr. 250.
[42] For All..., vol. 1, tr. 7.
[43] x. For
All..., vol. 4, tr. 20-21.
[44] For All..., vol. 4, tr. 20-22.
[45] For All..., vol. 2, tr. 199.
[46] For All..., vol. 2, tr. 222.
[47] For All..., vol. 4, tr. 250.
[48] For All..., vol. 4, tr. 141.
[49] For All..., vol. 4, tr. 250.
[50] For All..., vol. 4, tr. 142.
[51] x. Gioan
Phaolô II, Giáo Hội tại Á châu; những trả lời của các Giáo Hội tại Á châu trong
Thượng Hội Đồng Á châu.
[52] For All..., vol. 3, tr. 105.
[53] For All..., vol. 3, tr. 143.
[54] For All..., vol. 2, tr. 120.
[55] For All..., vol. 2, tr. 143.
[56] x. For
All..., vol. 2, tr. 144.
[57] x. For
All..., vol. 2, tr. 144-147; For All..., vol. 2,tr. 196,
240; For All..., vol. 3, tr. 121.
[58] x. For
All..., vol. 2, tr. 61; cũng x. tr. 202.
[59] x. For
All..., vol. 2, tr. 186.
[60] For All...,
vol. 3, tr. 119.
[61] x. For
All..., vol. 4, tr. 287.
[62] x. For
All..., vol. 3, tr. 120-122.
[63] x. For
All..., vol. 2, tr. 120.
[64] For All...,
vol. 2, tr. 127.
[65] For All...,
vol. 2, tr. 130.
[66] For All...,
vol. 2, tr. 223.
[67] For All...,
vol. 2, tr. 270-271.
[68] For All...,
vol. 2, tr. 224.
[69] Bonum
diffusivum est sui.
[70] For All...vol.
1, tr. 61.
[71] For All...,
vol. 2,tr. 196.
[72] For All...,
vol. 3, tr. 121.
[73] For All...,
vol. 2, tr. 224-226.
[74] For All...,
vol. 1, tr. 71.
[75] For All...,
vol. 1, 72; cũng x. Lc 22:27; Ga 13:4tt.
[76] x. For
All..., vol. 1, tr. 4-10.
[77] For All...,
vol. 1, tr. 72 và FABC 8; cũng x. Đại hội dân Chúa 2010); Jon Sobrino,
"Principle of Mercy".
[78] For All...,
vol. 1, tr. 5.
[79] For All...,
vol. 2, tr. 198.
[80] x.
Bênêđictô XVI, Deus caritas est; cũng x. Đức Phanxicô, bài giảng tại Koševo
Stadium,Saturday, 6 June 2015.
[81] x. For
All...vol. 4, tr. 267-268; cũng x. Đại hội Dân Chúa 2010.
[82] For All...,
vol. 2, tr. 203-203.
[83] For All...,
vol. 1, tr. 311.
[84] For All...,
vol. 4, tr. 275.
[85] For All...,
vol. 2, tr. 205.
[86] For All...,
vol. 4, 279-281.
[87] x. For
All..., vol. 2; 3; cũng x. Đại hội Dân Chúa 2010.
[88] x. For
All..., vol. 1, tr. 192-193.
[89] x. For
All..., vol. 1, tr. 194.
[90] For All...,
vol. 1, tr. 195.
[91] For All...,
vol. 1, tr. 197.
[92] For All...,
Vol. 1, tr. 197.
[93] Hay: sống
Giáo Hội cách mới mẻ (A new way of being Church).
[94] For All...,
vol. 4, tr. 217.
[95] For All...,
vol. 4, tr. 250.
[96] x. For
All..., vol. 1, tr. 231-232.
[97] x. For
All..., vol. 2, tr. 107-111.
[98] For All...,
vol. 4, tr. 181.
[99] For All...,
vol. 4, tr. 193.
[100] For All...,
vol. 4, tr. 255.