VIỆC HỘI NHẬP VĂN HÓA
CỦA KITÔ GIÁO
VÀO TRUNG HOA (1)
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
Việc truyền bá Kitô giáo tại Trung Hoa
vừa gặp nhiều khó khăn vừa không
được may mắn. Cho tới nay, Kitô giáo tại
Trung Hoa chỉ là một thiểu số rất nhỏ,
mặc dù Kitô giáo đă tới Trung Hoa từ thế kỷ
VI, dù có rất nhiều nỗ lực phúc âm hóa và hội
nhập văn hóa của các thừa sai. Chúng ta hăy lội
ngược ḍng thời gian để t́m hiểu việc
việc phúc âm hóa và hội nhập văn hóa Kitô giáo tại
Trung Hoa để biết được những nguyên nhân
khiến cho cuộc phúc âm hóa tại đây đi
đến thất bại. Đọc lịch sử phúc âm
hóa tại Trung Hoa, ta sẽ rút được rất
nhiều bài học về hội nhập văn hóa.
Việc phúc âm hóa tại Trung Hoa
Giáo phái Nestorius
Những người đầu tiên tới
phúc âm hóa tại Trung Hoa không phải là các thừa sai công
giáo Rôma mà là những người thuộc giáo phái Nestorius (2)
từ Syria và Ba Tư sang. Giáo phái này đă tới Á châu
rất sớm theo đường buôn bán. Họ loan báo Tin
Mừng tại Ấn Độ, Nam Dương, Java, Tây
Tạng, Trung Á, và vào Trung Hoa năm 578 do giáo sĩ Alopen
dẫn đầu. Họ tới Trường An (hiện
là Tây An) được vua Đường Thái Tôn tiếp
đón nồng hậu và được nhà vua ra chiếu
chỉ cho phép truyền đạo.
Ḥa nhập với Phật giáo
Tới thế kỷ VIII, đạo phát
triển mạnh. Để ḥa nhập, họ đă
hợp tác với các nhà sư Phật giáo để cùng
dịch một số kinh kệ và giáo lư của cả hai
tôn giáo. Chẳng hạn giám mục Ađam và sư Bát Nhă
đă hợp tác với nhau dịch sang tiếng Trung Hoa 35
văn bản Thánh Kinh và giáo lư của giáo phái, cùng với
nhiều kinh kệ Phật giáo nữa. V́ thế,
người Trung Hoa coi họ là
một giáo phái Phật giáo. Nhờ vậy, Kitô giáo được dân chúng đón
nhận dễ dàng và phát triển mạnh.
Nhưng vẫn luôn luôn giữ vững
cốt tủy
Những văn bản giáo lư của họ
mang nặng h́nh thức Phật giáo, nhưng cốt tủy
của sứ điệp Kitô giáo vẫn luôn luôn nổi
bật một cách rơ nét. Họ luôn luôn cố gắng thích ứng sứ điệp Kitô giáo
với những quan điểm Phật-Lăo đă có sẵn
trong dân chúng, dù có nhiều điểm cốt tủy khác
biệt hẳn với Phật-Lăo. Về sau, chủ
trương thích ứng này đă bị các Kitô hữu cùng
giáo phái ở Tây Phương khiển trách.
Thập giá trên Bông Sen
Một thích ứng đầy tính hội
nhập văn hóa của họ là biểu tượng Thập Giá trên Bông Sen không có
h́nh Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Bông sen là một
biểu tượng đầy ư nghĩa của Phật
giáo nói lên sự tinh khiết, trong sạch, cho dù mọc lên
từ những ô uế dơ bẩn của trần gian.
Dùng biểu tượng đó cho Kitô giáo vừa xứng
hợp vừa giúp cho Kitô giáo dễ hội nhập văn
hóa vào xă hội Trung Hoa lúc đó đang ưa chuộng
Phật giáo. Xứng hợp v́ người Kitô hữu
cũng phát xuất từ thế gian, ở giữa thế
gian nhưng không thuộc về thế gian. Thánh Giá không có
h́nh Chúa chịu đóng đinh v́ người Trung Hoa
trọng lễ giáo, nên không chưa hiểu Kitô giáo, làm sao
họ thiện cảm được với một tôn
giáo thờ người trần truồng chịu đóng
đinh như một tội nhân? Hy sinh một chút h́nh
thức bên ngoài để thích ứng với năo trạng
người dân chẳng phải là khôn ngoan sao?
Sự thích ứng của giáo phái Nestorius vào
xă hội Trung Hoa chỉ là thích ứng bên ngoài có tính cách h́nh
thức thôi. Không có sự thích ứng về nội dung giáo
thuyết, nghĩa là không có ǵ thay đổi về mặt
giáo lư hay thần học cả.
Giáo phái Manikêô
Cùng đi loan báo Tin Mừng vào Trung Hoa
thời đó c̣n có giáo phái Manikêô (tới Trung Hoa khoảng
thế kỷ VI hoặc VII). Các tu sĩ giáo phái này cũng
ăn chay như các nhà sư Phật giáo, bận áo trắng
như các cư sĩ Phật giáo. Khi Hoàng Đế
thời đó yêu cầu một «giám
mục» giáo phái này soạn cuốn giáo lư của họ,
«giám mục» đó đă
tŕnh bày giáo thuyết Manikêô nguyên thủy một cách thích
ứng với các tín đồ Phật giáo và Khổng giáo.
Nhờ thích ứng sâu xa với xă hội và văn hóa Trung
Hoa mà họ đă qua được những tai họa
trầm trọng về mặt chính trị.
Năm 1294, giám mục Montecervino, thuộc
ḍng Phan-sinh, là khâm sứ Ṭa Thánh Rôma đă tới Bắc
Kinh. Ông lập hàng giáo sĩ địa phương, đào
tạo chủng sinh, dịch một phần Tân Ước
và Thánh Vịnh sang tiếng Mông Cổ và xây nhà thờ.
Nhưng mối bận tâm đầu tiên của ông không
phải là phúc âm hóa cho dân bản xứ cho bằng làm cho
những tín hữu thuộc hai giáo phái lạc giáo kia
trở lại công giáo!
Không may cho các giáo phái Kitô giáo tại Trung Hoa
thời đó: họ bị Hồi giáo Mông Cổ và Thổ
Nhĩ Kỳ tàn sát và tiêu diệt, nhất là do Tamerlan
(năm 1380).
Giáo Hội công giáo
Gương mặt nổi bật: Cha Matteo
Ricci
Giáo Hội công giáo chỉ chính thức phúc
âm hóa đất nước Trung Hoa từ cuối thế
kỷ XVI. Người hùng của cuộc phúc âm hóa tại
Trung Hoa là linh mục Matteo Ricci, ḍng Tên, người Ư, là nhà
phúc âm hóa nổi bật nhất ở Trung Hoa. Năm 1583,
ngài tới loan báo Tin Mừng tại miền Nam Trung Hoa, lúc
đó Ngài đă 50 tuổi. Việc phúc âm hóa của ngài
rất có qui mô và kế hoạch, mang tính hội nhập
văn hóa rất cao.
Nhưng... tiếc thay!
Nhưng rất tiếc các cấp lănh
đạo trong Giáo Hội thời đó đă không hiểu
được phương pháp loan báo Tin Mừng của
ngài, đồng thời tỏ ra quá cứng rắn, cố
chấp vào nguyên tắc. Nên đă vô t́nh phá hỏng toàn
bộ công tŕnh và kế hoạch loan báo Tin Mừng mà ngài
đă dành trọn cuộc đời để thực
hiện tại Trung Hoa. T́m hiểu cách phúc âm hóa của cha
Ricci sẽ giúp ta hiểu được sâu sắc về
hội nhập văn hóa.
Thích ứng và hội nhập văn hóa
của linh mục Matteo Ricci
Cha Matteo Ricci
Phong cách của cha Ricci
Khi đến loan báo Tin Mừng tại Trung
Hoa, ngài không có vẻ là một nhà truyền giáo chút nào, mà có
vẻ là một triết gia, một nhà luân lư, một nhà
nghiên cứu toán học và thiên văn học. Ngài sử
dụng thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa, cả nói lẫn
viết. Chủ trương của ngài là xâm nhập vào
hàng ngũ trí thức nhất của đạo Nho, nên ngài
đă dùng sách vở loại trí thức nhất và những
dụng cụ tối tân nhất để ḥa ḿnh với
họ, trở nên những người như họ. V́
thế, ngài ăn mặc y như họ. Nhưng khi
phải giao tiếp với các tín đồ Phật giáo b́nh
dân, người bận đồ giống như các sư
săi Phật giáo.
Phương pháp «gián tiếp truyền
đạo từ trên cao»
Kế hoạch phúc âm hóa của ngài rất
qui mô, dài hạn. V́ thế, trước tiên ngài không
nhắm phúc âm hóa đại đa số quần chúng, mà
nhằm giới trí thức, những thành phần ưu tú
trong xă hội, giới lănh đạo chính trị và xă
hội, các viên chức chính quyền, các nho sĩ, tăng
ni, và nếu có thể th́ cả hoàng đế nữa.
Chắc hẳn ngài đă suy gẫm rất
nhiều về sự kiện vua Constantinus Cả theo
đạo, nhờ đó tạo điều kiện dễ
dàng cho Kitô giáo lan tràn khắp đế quốc Rôma. V́
nếu giới nắm quyền cai trị không theo
đạo hay không có cảm t́nh với đạo, th́ dân
chúng càng theo đông càng có nguy cơ bị cấm
đạo và bách hại. Đó là phương pháp «gián tiếp truyền đạo
từ trên cao». Thành quả có thể chậm lúc ban
đầu, nhưng rất vững chắc, hữu
hiệu và rất nhanh về sau.
V́ thế, ngài chủ trương thích
ứng hết sức có thể với môi trường trí
thức Trung Hoa, với những nghi thức rất
phức tạp của lễ giáo Trung Hoa «để rao giảng sứ điệp của Thiên
Chúa duy nhất chân thật một cách tốt đẹp
nhất có thể... dưới h́nh thức dễ chấp
nhận nhất đối với năo trạng của
người Trung Hoa».
Dùng những ư niệm của Khổng giáo
để nói về Thiên Chúa
Để nói về Thiên Chúa bằng
những ư niệm có sẵn trong dân chúng, cha Ricci nhận
nhận ra rằng những ư niệm của Khổng giáo
thích hợp để diễn tả sứ điệp Kitô
giáo hơn những ư niệm của Phật giáo. Vả
lại, dân Trung Hoa không thích thế giới quan của
Phật giáo cho bằng của Khổng giáo, v́ dẫu sao
đạo Phật cũng là một tôn giáo ngoại lai,
không có nền tảng Trung Hoa bằng Khổng giáo. Giới
b́nh dân khó hấp thụ được giáo lư cao siêu
của Phật giáo, nên dù theo Phật giáo, họ vẫn
thờ kính thần tượng Trung Hoa. C̣n Khổng giáo
cởi mở hơn, không có tính giáo điều, đạo
đức cá nhân và xă hội cũng rất siêu việt,
rất mực kính trọng cha mẹ tổ tiên, và biết
tôn thờ Trời như một hữu thể tối
thượng. Đặc biệt Khổng giáo không
đưa ra một h́nh ảnh cụ thể về Thiên
Đàng, cũng không có các huyền thoại về các vị
thần. V́ thế, Khổng giáo gần gũi Kitô giáo
hơn Phật giáo, nên có thể dùng những ư niệm
của Khổng giáo để dẫn người ta đi
vào Kitô giáo.
Trong cuốn «Thiên
Chúa thực nghĩa» viết bằng tiếng Trung Hoa,
cha Ricci chứng minh rằng: những văn bản nguyên
thủy của Khổng giáo chưa bị ảnh
hưởng của Phật giáo có những ư niệm về
Trời, Thượng
Đế và về cuộc sống sau khi chết
rất gần với những ư niệm Thiên Chúa và
đời sau của Kitô giáo. Chỉ có Khổng giáo của
phái Tống Nho (thế kỷ XI-XII), do bị ảnh
hưởng của Phật giáo, mới biến Trời thành một nguyên lư
trừu tượng đi cùng một cặp với Đất. Trung Hoa Cổ
cũng quan niệm Thượng Đế hữu ngă (có
ngôi vị) như Kitô giáo, quan niệm «Thái Cực» hay «Nguyên
Lư Siêu Ngă» chỉ phát sinh ra sau này thôi.
Chuẩn bị người nghe đón
nhận sứ điệp
V́ thế, các thừa sai ḍng Tên của cha
Ricc đă giải thích lại những bản văn cổ
của Trung Hoa theo chiều hướng phù hợp với
Kitô giáo, và áp dụng luận lư học của triết
học Kinh Viện để lư giải mọi vấn
đề. Cha chủ trương đứng trên lập
trường Khổng giáo để giải thích về
Thiên Chúa.
Giai đoạn đầu của công
cuộc phúc âm hóa không nên đưa người ta vào
mầu nhiệm của đức tin Kitô giáo vội
(như mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Nhập
Thể, v.v...), mà trước hết hăy giúp họ cảm
nhận được sự hợp lư và chân thực
của Kitô giáo. Do đó, điều ḿnh rao giảng ban
đầu phải mang tính triết lư hơn thần
học, thần học tự nhiên hơn là thần học
về mặc khải, dẫn người ta tới đức
tin hơn là tŕnh bày chính đức tin đó. V́ thế, trong
sách giáo lư của cha Ricci, tên của Chúa Giêsu chỉ
được nhắc đến có một lần, không
phải một cách chính thức mà chính do t́nh cờ thôi.
Phương pháp tiệm tiến
Phương pháp giảng đạo của
cha Ricci rất tiệm tiến, đi từng bước
một. Người ta có chấp nhận bước
trước th́ mới tŕnh bày bước sau. Cái dễ
chấp nhận mà họ c̣n chưa chấp nhận
được th́ đưa ra cái khó chấp nhận làm sao
thành công?
Ngài không muốn đưa ra một thứ
Kitô giáo mâu thuẫn hay chống lại Khổng giáo hay
Phật giáo. V́ thế, tuy rất khoan dung trên b́nh diện «tự nhiên», nhưng cha Ricci
tỏ ra rất khó chịu khi có một người công
giáo nào đó dựa vào Công Đồng Tridentinô mà đ̣i
hỏi người dân nếu muốn rửa tội th́
phải đoạn tuyệt với đạo cũ
của ḿnh (Khổng, Lăo hay Phật), hoặc phải
đốt hết các ảnh tượng của các giáo
chủ ấy.
Thành phần trí thức trở lại Kitô
giáo
Chủ trương của cha Ricci như
vậy, nên sau khi ngài đến Trung Hoa đă 20 năm,
tức năm 1600, mà số người trở lại không
quá 1.000 người. Nhưng những người này
hầu hết thuộc thành phần trí thức hoặc cao
cấp trong xă hội, chẳng hạn như Từ Quang
Khải là một đại quan sắp lên chức tể
tướng.
Đang khi đó, số người trở
lại tại Nhật Bản lên tới 300.000. V́ thế,
các bề trên ở Macao chỉ huy công cuộc phúc âm hóa không
thể kiên nhẫn chờ đợi lâu hơn, đă
điều các giáo sĩ khác -
như cha Niccolo Longobardi -
đến Trung Hoa loan báo Tin Mừng với chủ
trương ngược lại: nhắm vào đại
chúng, vào giới b́nh dân.
Những cản trở phá hoại công
cuộc phúc âm hóa của cha Ricci
Hai thứ Kitô giáo ngược nhau
V́ thế, các thừa sai tại Trung Hoa có
nguy cơ mâu thuẫn nhau. Giới trí thức nhận
sứ điệp từ cha Ricci th́ thấy Kitô giáo
đưa ra một triết lư, luân lư và khoa học rất
phù hợp với Khổng giáo. C̣n đại chúng nhận
sứ điệp từ cha Longobardi th́ thấy Kitô giáo
đi ngược lại Khổng giáo, v́ đạo này
đưa ra những tín điều và những phép rất
xa lạ với Khổng giáo, nhất là lại cấm
thờ kính Khổng Tử và tổ tiên, một điều
cấm thật khó hiểu thậm chí không thể chấp
nhận được đối với năo trạng dân
Trung Hoa.
Quan trọng nhất là trong dân chúng bắt
đầu phát sinh ra những hội, những nhóm bất
hợp pháp của các Kitô hữu sinh hoạt bí mật
với nhau. Khi phát hiện ra, chính quyền đă ra lệnh
trục xuất các thừa sai ra khỏi Trung Hoa lần
đầu tiên vào năm 1617, sau khi cha Ricci qua đời
được 7 năm. Lệnh cấm không gắt gao, nên
các thừa sai vẫn ở lại một cách bí mật và
càng ngày càng đến Trung Hoa đông đảo hơn.
Nhưng sự xung đột giữa các thừa sai ngày càng
tăng và càng trầm trọng hơn.
Vấn đề danh từ chỉ Thiên Chúa
Cha Ricci đă dùng chính những danh từ
Trung Hoa để chỉ Thiên Chúa của Kitô giáo, như «Thượng Đế», «Thiên». Chính cha Ricci cũng sáng
tạo một từ mới là «Thiên
Chủ».
Nhưng đến thời cha Longobardi, có
nhiều người Nhật trở lại đạo
đă phản bác việc sử dụng đó, nên ngài ra
lệnh cấm dùng những danh từ Trung Hoa để
gọi Thiên Chúa hầu tránh những giải thích sai lạc
và những hiểu lầm do từ ngữ. Đồng
thời ngài cho chuyển những ư niệm thần học
của Rôma về Thiên Chúa sang tiếng Trung Hoa. Vấn
đề từ ngữ này ngài cho áp dụng như ở
bên Nhật.
Tại Nhật, linh mục Phanxicô Xaviê
đă chuyển từ ngữ Deus
của Latinh sang tiếng Nhật là Deusu cho thích hợp với lỗ tai người Nhật
(3). Các ư niệm căn bản của thần
học cũng được phiên âm sang tiếng Việt
đại loại như thế. Có khoảng 50 từ
như persona (= personne - ngôi vị), susutanshija
(= substance - bản chất), garasa (= grâce - ân sủng), v.v...
V́ thế, dưới con mắt dân chúng Á châu,
sứ điệp Kitô giáo có vẻ là một sản
phẩm nhập cảng hoàn toàn ngoại lai, của Rôma và
của châu Âu. Đó là điều hết sức trái
ngược với phương pháp phúc âm hóa của cha
Ricci. Đúng ra, nếu đă phiên âm như thế th́
phải phiên âm từ những danh từ Do Thái mới chính
xác. Để chỉ về Thiên Chúa, từ Deus nguyên thủy của Rôma có hay hơn ǵ - nếu không muốn nói là kém hơn - từ Thượng
Đế, hay Thiên
của người Trung Hoa! (4) Ngày xưa, các
giáo phụ «rửa tội»
cho từ Deus của Rôma th́
nào có ai đặt vấn đề khắt khe như
thế đâu?
Cuộc tranh chấp giữa các thừa sai
V́ thế, các giáo sĩ ḍng Tên tại Trung
Hoa không chịu theo lệnh của cha Longobardi mà cứ dùng
theo cách của cha Ricci. Cho đến năm 1634, sự tranh
chấp mới bùng nổ: tranh chấp về việc
thờ kính Khổng Tử và tổ tiên, và danh từ
để chỉ Thiên Chúa. Sau đây là diễn tiến
khiến cho cuộc tranh chấp đi đến bùng
nổ.
Các ḍng khác chống lại ḍng Tên
Năm 1634, các thừa sai ḍng Đa-minh và
Phan-sinh người Tây Ban Nha đến Trung Nguyên truyền
đạo. Họ rất bực bội về việc
người Kitô hữu Trung Hoa thờ kính tổ tiên và
Đức Khổng Tử, và việc sử dụng
những danh từ truyền thống Trung Hoa để
gọi Thiên Chúa. V́ thế, một cuộc tranh chấp
lớn đă xảy ra giữa các ḍng thừa sai và giữa
các quốc tịch thừa sai: ḍng Phan-sinh và Đa-minh
chống lại ḍng Tên, các thừa sai Tây Ban Nha và Pháp
chống lại các thừa sai Bồ Đào Nha.
Trong cuộc tranh chấp này sự cạnh
tranh hơn thua giữa các ḍng và các quốc tịch đóng
vai tṛ quan trọng hơn là những lập luận
thần học. Các đặc phái viên của Ṭa Thánh
chưa t́m hiểu đến nơi đến chốn mà
đă dùng quyền can thiệp. Các thừa sai ḍng Tên bị
tố cáo tơi bời ở Rôma. Cả Âu Châu bị lôi
cuốn vào cuộc tranh chấp này.
Ḍng Tên bị tố cáo là rối đạo
Năm 1633, cha Morales và Antoine de Sainte Marie
tuyên bố rằng thờ kính tổ tiên là thờ tà
thần và dị đoan. Năm 1637, hai cha bị tù v́ lư do
ấy. Năm 1639, cha Morales được trả tự
do, sau đó, cha gửi thư về ḍng Tên ở Macao
để phản đối việc các cha ḍng Tên chấp
nhận việc thờ kính này. Cha Morales cũng đă
đích thân về Rôma báo cáo 17 điều rối đạo
của các cha ḍng Tên tại Trung Hoa. V́ thế, ngày 12-9-1645,
Đức Thánh Cha Innocent X ra sắc lệnh cấm thờ
kính tổ tiên tại 3 nơi: Manilla (Philippines), Goa (Nam
Ấn Độ), Macao (Trung Hoa).
Năm 1656, Cha Martini, ḍng Tên, về Rôma tŕnh
bày lại về vấn đề này: thờ kính tổ
tiên không trái với giáo lư Công giáo, mà chỉ là nghi thức
dân sự. Đức Giáo Hoàng Alexandre VII thông cảm và
lại cho phép ngược lại. Thế nhưng các thừa
sai khác không chịu, nên năm 1669, Đức Giáo Hoàng
Clêmentê IX tuyên bố cả hai sắc lệnh ngược
nhau của hai vị tiền nhiệm vẫn có giá trị.
Năm 1693, Đức Giám Mục Maigret (MEP) ở Trung Hoa
cấm một số điều ở trong giáo phận của
ngài: cấm dùng bài vị, cấm thờ kính Khổng
Tử, cấm đọc các sách triết học Trung Hoa,
cấm đọc sách Kinh Dịch... T́nh trạng tranh
chấp giữa các thừa sai kéo dài nhiều năm.
Năm 1704, Đức Thánh Cha Clêmentê XI ra
tông hiến cấm đoán 12 điều rơ rệt, trong
đó có cấm thờ lạy Đức Khổng Tử.
Sự bất b́nh của hoàng đế
Trung Hoa
Năm 1705, sứ thần Maillard de Tournon
tới Bắc Kinh được vào tiếp kiến hoàng
đế Khang Hy, cho biết Đức Giáo Hoàng có quyền
trên giáo hữu Trung Hoa. Lời nói sơ xuất này khiến
Khang Hy tức giận và đuổi Tournon về Macao giam
lỏng. Về sau, Đức Giám Mục Maigret cũng
bị nhà cầm quyền Trung Hoa đuổi về, và
họ chỉ cho những ai theo lập trường
của cha Matteo Ricci mới được ở lại.
Ngày 19-3-1715, Đức Clêmentê XI công bố
tông hiến Ex illa die cấm
triệt để việc thờ kính tổ tiên.
Năm 1721, sứ thần Mezzabara
đến Macao t́m hiểu, và ngày 4-11-1721 công bố cho phép 8
điều: giữ bài vị trong nhà và tôn kính tổ tiên,
cho phép lạy và đốt hương trước bài
vị hay người chết, được phép cúng
với điều kiện viết giấy giải thích
ḿnh làm là v́ ḷng hiếu thảo.
Các thừa sai vẫn không đồng ư và
các vị nhờ đại học Sorbonne nghiên cứu
vấn đề. Và đại học này cho rằng đó
là việc dị đoan. V́ thế, ngày 26-9-1735 Đức
Giáo Hoàng Clêmentê XII lên án giám mục Băc Kinh phổ
biến 8 điều trên.
Quyết định dứt khoát của Ṭa
Thánh
Ngày 11-7-1742, Đức Giáo Hoàng Benedictus XIV
công bố hiến chế Ex quo
singulari cấm đoán quyết liệt, cấm ngặt
không ai được bàn căi về việc này, và các
thừa sai phải thề tuân hành hiến chế này
mới được đi Trung Hoa.
Thái độ thiện chí của hoàng
đế Trung Hoa
Tuy nhiên, vào thời gian ấy, việc phúc
âm hóa tại Trung Hoa vẫn tiến triển. Năm 1670,
tức 100 năm sau khi cha Ricci đến, có tới 273.780
người trở lại công giáo, và tương lai
cũng rất hứa hẹn.
Vua Khang Hy, Hoàng Đế Trung Hoa, rất có
cảm t́nh với Kitô giáo, đến nỗi các cha ḍng Tên
hy vọng Hoàng Đế sẽ trở lại đạo.
Năm 1692, Hoàng Đế đă ra chiếu chỉ cho phép
Kitô giáo được tự do truyền đạo trên
toàn quốc.
Khi cuộc tranh chấp giữa các ḍng
xảy ra, vua Khang Hy đă đích thân gửi cho Đức
Giáo Hoàng một lá thư, với sự chứng nhận
của chín ṭa án tối cao Trung Hoa, nói về những
vấn đề lie6n quan đến cuộc tranh chấp
ấy. Thư đă tới Rôma năm 1701, trong đó Hoàng
Đế Trung Hoa xác nhận rằng tại Trung Hoa,
Khổng Tử chỉ được tôn kính như một
vị Thầy, một Minh Sư, chứ không
được tôn thờ như một Thượng
Đế. C̣n việc thờ kính tổ tiên th́ chỉ là
để tưởng nhớ. Và danh từ Thiên và Thượng
Đế không phải dùng để chỉ bầu
trời, mà để chỉ Chúa Tể của trời
đất vạn vật.
Thái độ cứng rắn của Ṭa
Thánh
Cấm triệt để thờ kính
tổ tiên
Nhưng bất chấp uy tín của Hoàng
Đế một dân tộc đông nhất thế giới
ấy, năm 1704, Đức Giáo Hoàng Clêmentê XI ra lệnh
cấm các Kitô hữu Trung Hoa không được thờ
kính tổ tiên và Đức Khổng, cũng không
được dùng những danh từ địa
phương trên để chỉ Thiên Chúa, chỉ có từ
Thiên Chủ - do cha Ricci sáng tạo ra - là được sử dụng. Ai bất
tuân sẽ bị dứt phép thông công.
Lệnh cấm này đă dồn
người Kitô hữu Trung Hoa vào thế kẹt, v́
việc cúng tổ tiên và Khổng Tử là những giá
trị truyền thống không thể bỏ được
của dân Trung Hoa. Do đó, ai muốn theo đạo
hoặc giữ đạo th́ dường như không c̣n là
người Trung Hoa nữa. Các vị lănh đạo Giáo
Hội có vẻ như muốn các Kitô hữu Trung Hoa
phải sẵn sàng hy sinh tính chủng tộc hơn là
đánh mất chân tính tôn giáo. Đương nhiên, rất
nhiều người không thể hy sinh như thế. V́
thế, lệnh cấm của Đức Giáo Hoàng trở
thành một hàng rào kiên cố ngăn cản nhiều
người Trung Hoa vào Giáo Hội.
Trước lệnh cấm này, các
đại diện Tông Ṭa và các linh mục ḍng Tên khiếu
nại lên Ṭa Thánh, và để đáp lại những
khiếu nại ấy, năm 1710, Ṭa Thánh c̣n ra lệnh
cấm ngặt hơn nữa.
Phản ứng của chính quyền Trung Hoa
Trước sự «thách thức» của Rôma, năm 1717, chín ṭa án
tối cao của Trung Hoa lên án Kitô giáo, đ̣i trục
xuất các thừa sai, đ̣i cấm đạo, phá hủy
các nhà thờ, và cưỡng bức dân chúng bỏ
đạo. V́ thế, số người công giáo giảm
xuống nhanh chóng. Tuy nhiên, việc cấm đạo
chỉ thật sự được phát động sau khi
Vua Khang Hy chết năm năm.
Dầu vậy, Rôma vẫn cương
quyết không lùi bước. Năm 1742, Đức Giáo Hoàng
Bênêđictô XIV lại cứng rắn xác định lại
những quyết định đă có trước trong tông
huấn «Ex qui singulari»,
cấm tuyệt đối những điều đă
cấm.
Năm 1744, Đức Giáo Hoàng này lại
kết án phương pháp phúc âm hóa của linh mục Roberto
de Nobili thuộc ḍng Tên ở Ấn Độ. Phương
pháp này tương tự như phương pháp phúc âm hóa
của cha Matteo Ricci tại Trung Hoa.
Công tŕnh của cha Ricci bị phá hủy
Thế là sự cứng rắn một cách
quá đáng, phản hội nhập văn hóa của Ṭa Thánh
Rôma đă phá hủy công tŕnh phúc âm hóa hàng trăm năm
của các linh mục ḍng Tên, đặc biệt công tŕnh mà
cha Matteo Ricci đă dành trọn cuộc đời
để làm. Những quyết định cứng rắn
đó đă làm cho bối cảnh phúc âm hóa tại Trung Hoa
thay đổi hoàn toàn theo chiều hướng hết
sức bất lợi.
Như vậy, trong hai thế kỷ XVII và
XVIII, việc phúc âm hóa tại Trung Hoa có hai khuynh
hướng hoàn toàn ngược lại nhau. Khuynh
hướng của các thừa sai ḍng Tên, tức của cha
Metteo Ricci, là mềm dẻo thích ứng với đối
tượng phúc âm hóa, hay khuynh hướng hội nhập
văn hóa, và khuynh hướng của các thừa sai ḍng
Phan-sinh và Đa-minh là trung thành với truyền thống hay
với những ǵ đă có sẵn một cách cứng
rắn, không chịu thích ứng với đối
tượng phúc âm hóa. Giới lănh đạo cao cấp
nhất của Giáo Hội đă theo khuynh hướng sau.
Và mộng của các thừa sai ḍng Tên - là cố gắng biến vua Khang Hy trở
thành một Constantinus ở Trung Hoa - v́
thế đă sụp đổ.
Công cuộc phúc âm hóa thời thực dân
Công cuộc phúc âm hóa tại Trung Hoa bắt
đầu chuyển qua một giai đoạn khác: vừa
là thành công vừa là khởi đầu cho sự thất
bại.
Phúc âm hóa đợt hai
Cưỡng bức văn hóa thay v́ hội
nhập văn hóa
Lịch sử công cuộc phúc âm hóa tại
Trung Hoa đă thay đổi hoàn toàn. Cách thức phúc âm hóa
thay v́ hội nhập văn hóa th́ trở thành cưỡng
bức văn hóa, hay xâm lăng văn hóa như trong thế
kỷ XIX.
Việc phúc âm hóa tại Trung Hoa thế
kỷ XIX diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa
thực dân và đế quốc cực thịnh tại châu
Âu. Đó là cuộc phúc âm hóa đợt hai có thêm các thừa
sai Tin Lành - đa số
thuộc giáo phái Pietism và Fondamentalism (Kiên Tín và Chấp Kinh).
Bối cảnh lịch sử
Năm 1842, năm quốc nhục của
Trung Hoa, Anh quốc nhập cảng thuốc phiện
của Ấn Độ vào Trung Hoa. Việc đó khiến
cho Anh có một mối lợi lớn, nhưng dân Trung Hoa
lănh đủ những hậu quả rất tai hại.
Cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia lúc đó - lịch sử gọi là cuộc chiến
tranh bạch phiến - đă
dẫn tới hiệp ước Nam Kinh năm 1842: Trung Hoa
phải nhường Hồng Kông cho Anh, đồng
thời phải mở cửa năm hải cảng cho các
thừa sai Kitô giáo tới truyền đạo.
Đúng là một cái nhục không tên xảy
ra 150 năm sau chiếu chỉ của vua Khang Hy cho phép
truyền đạo. Dân Trung Hoa phải chấp nhận
những hiệp ước đơn phương cho phéùp
người ngoại quốc bán á phiện đầu
độc dân chúng trên khắp đất nước ḿnh,
đồng thời cho phép các thừa sai Kitô giáo truyền
đạo khắp nơi.
Phúc âm hóa và thực dân hóa
Kể từ nay, công cuộc phúc âm hóa
của Công giáo cũng như của Tin Lành phải đi
đôi với các tính toán của các cường quốc
thực dân Âu Châu. Việc phúc âm hóa v́ thế bị
đồng hóa với việc thực dân hóa, dường
như có sự ích lợi hỗ tương giữa hai công
việc đó.
Năo trạng của các thừa sai cũng
giống như của mọi người da trắng khác
là tin tưởng vào sự ưu việt và quyền ưu
tiên của ḍng giống da trắng trên những dân bản
xứ da màu. Và họ chủ trương dùng văn minh và
văn hóa Tây Phương để thống trị về
mặt văn hóa. V́ thế, họ rất coi thường
các truyền thống văn hóa địa phương. Có
thể nói, xét về mặt văn hóa, họ cũng là
những người thực dân.
Lợi hại của thực dân và công
cuộc phúc âm hóa đối với Trung Hoa
Không thể phủ nhận rằng thực
dân Tây Phương đă đem lại cho dân Trung Hoa rất
nhiều lợi ích thực tế: đă làm thức dậy
một nước Trung Hoa đang ngủ, một
nước lạc hậu, bảo thủ, nặng về
nông nghiệp, đầy tính quan liêu, chậm tiến
về khoa học, kỹ thuật, kinh tế và quân sự.
Các thừa sai cũng đem lại cho nhân
dân Trung Hoa một đời sống tốt đẹp
hơn rất nhiều, cả về tinh thần lẫn
vật chất, nhất là về mặt giáo dục, y
tế. Các linh mục, tu sĩ nam nữ với một
lực lượng rất đông hết ḿnh phục
vụ dân chúng trong các trường học, bệnh
viện, các giáo đường. Đời sống nông dân
thợ thuyền được cải thiện và nâng
đỡ rất nhiều. Dân Trung Hoa không nên quên và cũng
không thể nào quên được những việc làm
tốt đẹp của Giáo Hội Công giáo cũng như
Tin Lành đă thực hiện với tất cả ḷng yêu
thương bác ái vô vị lợi cho họ. Trong thập
niên 1930, 33% thành phần ưu tú của Trung Hoa
được hưởng nền giáo dục Kitô giáo, 90%
các y tá và 70% các bệnh viện đều là của Kitô
giáo.
Nhưng tất cả những điều
tốt đẹp ấy không làm cho họ quên
được cái thực tế căn bản này:
đến đầu thế kỷ XX, dân Trung Hoa đă
nhận ra nền kinh tế của họ bị bóc
lột, nền độc lập quốc gia bị
khống chế, và nền văn hóa bản quốc bị
đe dọa mất gốc. Thực tế căn bản
này đă khiến cho nhiều người Trung Hoa quên đi
tất cả những ǵ tốt đẹp mà các thừa
sai cũng như chế độ thực dân đă đem
lại cho họ.
Năm cuộc cách mạng tại Trung Hoa
V́ thế, trong dân chúng, khuynh hướng bài
ngoại và chống thừa sai vẫn ngấm ngầm phát
triển chờ ngày bùng nổ. Và đă có năm cuộc
cách mạng bùng lên trong chỉ một thế kỷ (từ
1850 đến 1966):
1) Phong trào Thái B́nh Thiên Quốc (1850-1866)
2) Phong trào Nghĩa Ḥa Đoàn (1900)
3) Cách Mạng Quốc Gia Giới Trẻ
(1911) do Tôn Dật Tiên và Tưởng Giớùi Thạch lănh
đạo.
4) Cách mạng của Đảng Cộng
Sản (1924-1934, 1947-1949) do Mao Trạch Đông lănh
đạo.
5) Đại Cách Mạng Văn Hóa Vô
Sản (1966) của Vệ Binh Đỏ do Mao Trạch
Đông phát động.
Hai phong trào đầu bị thất
bại v́ bị quân đội các cường quốc Âu
Châu chiến đấu cho chính quyền Trung Hoa đè
bẹp. Ba cuộc cách mạng sau thành công. Và hai cuộc cách
mạng do Mao Trạch Đông lănh đạo hoặc phát
động đă đem lại độc lập cho Trung
Hoa, nhưng cũng chấm dứt sự có mặt của
các thừa sai trên đất nước rộng lớn
này.
Sự thiếu ư thức về chính trị
của các thừa sai
Trong đợt phúc âm hóa thứ hai xảy
ra đồng bộ với việc thực dân hóa
đất nước Trung Hoa này, các thừa sai không
nhận ra được ư nghĩa việc thay đổi
năo trạng của cả nước Trung Hoa đối
với công việc phúc âm hóa của họ như thế
nào. Đang khi nhân dân Trung Hoa hướng về cải cách,
canh tân, đổi mới khoa học, kỹ thuật,
kỹ nghệ và yêu thương dân chủ để
bắt kịp đà tiến của thế giới,
đang khi những tư tưởng chống tôn giáo,
chống Kitô giáo đang phổ biến khắp nơi, th́
các nhà phúc âm hóa Công giáo cũng như Tin Lành không thể
đồng ư với nhau về những danh xưng
để chỉ Thiên Chúa v́ những lư do chẳng đáng
vào đâu.
Người Công giáo th́ cứ nhất
định giữ cho bằng được hai chữ «Thiên Chủ» do cha Ricci sáng
tạo ra, c̣n người Tin Lành th́ chỉ chấp nhận
hai chữ «Thượng
Đế». Hai bên dùng hai cuốn Kinh Thánh «khác nhau» (5). V́
thế, dưới mắt người Trung Hoa lúc đó,
kể cả các Kitô hữu, th́ Công giáo và Tin Lành là hai tôn giáo
khác nhau, thờ hai vị thần khác nhau: một bên thờ
«Thiên Chủ» một bên
thờ «Thượng
Đế». Lúc đó, tiếng Trung Hoa chưa có danh
từ nào để chỉ chung hai tôn giáo ấy hay
những người theo hai tôn giáo ấy. Đối
với chúng ta ngày nay, sự chấp nhất như thế
thật là ngộ nghĩnh và tức cười!
Trong chủ nghĩa Cộng Sản
Trong bối cảnh Kitô giáo và chủ
nghĩa thực dân có vẻ như đi đôi với nhau
như thế, việc đồng hóa một cách lầm
lẫn giữa hai thực tại đó, dù là vô t́nh hay ác ư,
là một điều rất dễ hiểu. V́ thế, thái
độ của Cộng Sản Trung Hoa là chống lại
Kitô giáo, và coi Kitô giáo như
một công cụ của thực dân.
Năm 1950-1951, tất cả các thừa sai
ngoại quốc đều bị trục xuất trong
những hoàn cảnh thường là thảm hại. Riêng
Công giáo, có trên 5.000 linh mục, nam nữ tu sĩ bị
trục xuất. Báo chí tôn giáo bị cấm. Các
trường học, bệnh viện, các cơ sở
từ thiện và tất cả các tài sản của Giáo
Hội đều bị tịch thu. Công sứ Ṭa Thánh
bị trục xuất.
Mọi linh mục và giáo dân Trung Hoa phải
tuyên bố chống chủ nghĩa đế quốc, phong
kiến, đồng thời ủng hộ và tham gia phong
trào «tam tự»: tự túc, tự quản, tự
truyền bá của các Giáo Hội. Các tín đồ Tin Lành
(khoảng 1.300.000 người) không có ǵ trở ngại khi
tham gia phong trào này từ năm 1951. Nhưng người
Công giáo bị lâm vào thế kẹt v́ lập trường
rất cứng rắn của Ṭa Thánh Rôma.
Cả thần quyền lẫn thế
quyền đều cứng rắn
Thái độ của nhà cầm quyền
Trung Quốc quả là quá khích và quá đáng, c̣n thái
độ của Ṭa Thánh dường như là sẵn sàng «lấy đá chọi đá»,
không khoan nhượng. Năm 1952-1954, Ṭa Thánh long trọng
kết án phong trào «tam tự» và nghiêm cấm mọi
người Công giáo Trung Hoa (3.250.000 người) không
được hợp tác với chế độ, không
được gia nhập các công đoàn hay hội đoàn
của chế độ, thậm chí không được
đọc báo, tạp chí hay sách vở của chế
độ.
Sau khi trục xuất hoặc bỏ tù
tất cả các thừa sai (6), Nhà
Nước Trung Quốc yêu cầu các Kitô hữu trong
nước lập ra Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu
Nước năm 1957, đề nghị họ bầu các
giám mục theo truyền thống xưa của Giáo Hội
và báo cho Ṭa Thánh biết. Nhưng Ṭa Thánh đă «dứt phép
thông công» tất cả các giám mục mới này dù họ
đă được thụ phong thành sự.
Chỉ có người công giáo lâm vào thế
kẹt
Đường lối của Ṭa Thánh
cứng rắn như vậy, nên đă tạo ra t́nh
trạng ly khai trong ḷng Giáo Hội Công giáo, giữa «Giáo
Hội Yêu Nước» và «Giáo Hội Thầm Lặng» không
chính thức (7). V́ thế, Giáo
Hội Trung Hoa phải chịu biết bao nhiêu đau
khổ, do chế độ gây ra đă đành, mà c̣n do
sự cứng rắn của Ṭa Thánh nữa!
Giữa Ṭa Thánh và chính quyền Trung Quốc
có một sự thù nghịch rơ rệt và trầm trọng,
không bên nào nhượng bộ bên nào, chỉ có các Kitô
hữu trong nước là nạn nhân không lối thoát. Chính
quyền th́ bách hại và bạc đăi Kitô hữu một
cách dă man, c̣n Ṭa Thánh th́ sẵn sàng kết án những Kitô
hữu nào nghiêng theo chế độ. Đương nhiên
có rất nhiều Kitô hữu phải bỏ đạo v́
không chịu đựng nổi giữa hai thế lực,
thần quyền và thế quyền, chống báng nhau
kịch liệt như thế! Cả thần quyền
lẫn thế quyền đă dồn người Kitô
hữu Trung Hoa vào một thế kẹt: không thể vừa
là người Trung Hoa vừa là Kitô hữu được!
Sự mềm dẻo và thích ứng của
Giáo Hội nguyên thủy
Giáo Hội sau này đă tỏ ra quá cứng
rắn không thích ứng với những t́nh huống cụ
thể
Qua những sự kiện lịch sử
đă xảy ra suốt gần 20 thế kỷ, ta thấy
khởi đầu Giáo Hội tỏ ra hết sứùc
mềm dẻo thích ứng với mọi t́nh huống
của thế giới, của mọi dân tộc. Nhờ
vậy, Giáo Hội đă phúc âm hóa cả Âu Châu. Nhưng
về sau, nhất là từ thời Trung Cổ, những
người lănh đạo Giáo Hội càng ngày càng tỏ ra
cứng rắn, thiếu khả năng thích ứng với
những t́nh huống thay đổi của thế
giới, của các dân tộc. Cụ thể nhất là trong
cuộc phúc âm hóa tại Trung Hoa, các cấp lănh đạo
Giáo Hội đă tỏ ra hết sức cứng rắn,
một thứ cứng rắn không bao giờ có trong
những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội.
Giáo Hội nguyên thủy rất mềm
dẻo trong việc thích ứng và hội nhập văn hóa
Ta thấy, trong thế kỷ đầu,
khi sách Tân Ước chưa thành h́nh, Cựu Ước luôn
luôn được coi là Lời Chúa, thế mà để
thích ứng với người ngoại giáo trở lại
Kitô giáo, các Tông Đồ đă sẵn sàng dẹp bỏ Luật
Môsê, thậm chí cả phép Cắt B́, một nghi thức
tối quan trọng, tượng trưng cho giao ước
linh thiêng giữa Thiên Chúa và Dân Ngài (8). Các Tông
Đồ đă không bắt các dân tộc khác khi trở
lại Kitô giáo phải giữ những tập tục tôn
giáo của Do Thái, vốn là nguồn gốc của Kitô giáo.
Lẽ đâu Giáo Hội cứ phải bắt buộc các
dân tộc khác phải theo truyền thống Rôma của
ḿnh, vốn cũng chỉ là truyền thống gốc dân
ngoại được Giáo Hội «rửa tội» cho?
Đức Kitô cũng rất mềm
dẻo và độ lượng
Nếu Giáo Hội đă được Chúa
Kitô trao quyền «cởi mở và cầm buộc
dưới đất» (9), lẽ nào Giáo
Hội cứ phải cầm buộc gắt gao hơn
cả chính Chúa Kitô, Đấng luôn luôn tỏ ra độ
lượng với dân ngoại, dân Samari lạc giáo, và
chỉ kết án bọn Pharisiêu kiêu căng, hẹp ḥi,
muốn «khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ
vào» (10), hoặc kết án kẻ
được tha thứ mà lại không chịu tha thứ
cho đồng loại ḿnh? (11)
Đức Kitô đâu có ưa thái độ
của người thợ làm vườn nho từ ban sáng,
đ̣i hỏi những người thợ đến sau
phải có công xứng đáng như họ th́ mới
được một quan tiền như họ? (12)
Nếu chúng ta cứ đ̣i hỏi dân ngoại cũng
phải làm y như chúng ta mới được vào
Nước Trời th́ liệu chúng ta có giống những
người thợ làm từ đầu giờ kia không?
Chắc chắn Thiên Chúa muốn chúng ta có một thái
độ khoan dung đối với đồng loại
hơn là kết án, tạo điều kiện cho họ
dễ dàng vào Nước Trời hơn là gây khó khăn
để hạn chế họ.
Giáo Hội được người
người tín hữu nhận là «Mater et Magistra» (Mẹ và Thầy): chữ Mẹ
đi trước chữ Thầy. V́ thế, Giáo Hội nên
tỏ ra ḿnh là Mẹ nhiều hơn là Thầy. Nghĩa là
nên dùng t́nh âu yếm, sự mềm dẻo đối
với con cái nhiều hơn là răn đe sửa dạy
một cách cứng rắn, để mọi người
Kitô hữu cảm thấy vui tươi hạnh phúc trong
t́nh yêu thương chan chứa của Mẹ
Sự cứng rắn của Giáo Hội
tại Trung Hoa
Giáo Hội thuở ban đầu rất là
mềm dẻo, sẵn sàng băi bỏ luật Môsê, phép
Cắt B́, sẵn sàng «rửa
tội» cho những từ ngữ Hy Lạp, Latinh...
để người Âu Châu có thể gọi Thiên Chúa
bằng ngôn ngữ của ḿnh, sẵn sàng «rửa tội» một ngày lễ lớn của
dân ngoại làm ngày lễ lớn nhất của ḿnh, v.v...
Nhưng về sau Giáo Hội lại không
thể chấp nhận cho người Trung Hoa
được thờ kính tổ tiên – một tục
lệ không thể bỏ được – khi họ
muốn gia nhập Kitô giáo, bất chấp sự minh
giải của chính Hoàng Đế Trung Hoa. Và Giáo Hội
đă tỏ ra hết sức khó khăn trong việc cho dân
Trung Hoa dùng chính từ ngữ cổ truyền của
họ để chỉ Thiên Chúa, cho dù chúng tương
đối xứng hợp, nhất là khi đă
được chính Hoàng Đế Trung Hoa bảo
đảm. Giáo Hội cũng không chấp nhận cho
người Đông Phương đốt hương
trong phụng vụ theo cách thức của văn hóa
họ, mà buộc họ phải xông hương theo
kiểu Rôma, rất xa lạ đối với họ,
v.v...
Chủ trương thích ứng và mềm
dẻo của Công Đồng Vatican II
Tuy nhiên, về sau, Giáo Hội đă tỏ
ra thích ứng hơn, nhất là sau Công Đồng Vatican II.
Năm 1931, khi Nhật chiếm Măn Châu, và thành lập Măn Châu
Quốc, các thừa sai Trung Hoa lại xin Ṭa Thánh cho phép
người Kitô hữu Trung Hoa được thờ kính
tổ tiên. Đến năm 1939, khi lên ngôi, Đức Giáo
Hoàng Piô XII (1939-1958) xét lại những quyết định
của các Giáo Hoàng trước, và đă theo lập
trường của hai linh mục Ricci và Nobili, nên đă ra
huấn dụ Plane Compertum
ngày 8-12-1939, cho phép Giáo Hội Trung Hoa và các Giáo Hội lân
cận được phép thờ kính tổ tiên. Ngài
cũng cho phép dùng những danh từ Trung Hoa để
chỉ Thiên Chúa.
Riêng tại Việt Nam, Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam đă xin Ṭa Thánh cho phép về
việc này, và ngày 14-6-1965 Hội Đồng Giám Mục
đă công bố cho phép các Kitô hữu Việt Nam
được được thờ kính tổ tiên.
Những nghi thức như đốt hương trong
phụng vụ, mặc áo lễ theo y phục cổ
truyền của dân tộc, làm các chén thánh, b́nh thánh theo h́nh
thức văn hóa dân tộc... đều đă
được chấp nhận theo tinh thần hội
nhập văn hóa của Công Đồng Vatican II. Công
Đồng này đă đánh dấu một thái độ
mới của Giáo Hội trong vấn đề hội
nhập văn hóa.
Phần chú thích
(1) Những dữ liệu
lịch sử trong phần này lấy trong cuốn Le Christianisme et les Religions Chinoises
của HANS KUNG, Seuil, Paris 1989.
(2) Xuất hiện từ
đầu thế kỷ V, chủ trương trong
Đức Kitô có hai ngôi vị, một ngôi là Thiên Chúa và
một ngôi là người.
(3) Về sau bị các nhà
sư Phật giáo chơi chữ đọc trại ra thành
«Daiusu», nghĩa là «đại bịp».
(4) Từ Deus của người Rôma nguyên thủûy đâu có
nghĩa là Thiên Chúa, mà
chỉ có nghĩa là thần
linh. Thần linh vẫn có thể là tạo vật,
tương đối, đầy khiếm khuyết,
thậm chí tội lỗi nữa. C̣n từ Thượng Đế hay Thiên của Trung Hoa nguyên thủy đă có nghĩa
gần gần giống như Thiên
Chúa của chúng ta ngày nay rồi. Nhất là từ Thiên Chủ của cha Ricci th́
hay hơn và đúng hơn từ Deus
nguyên thủy nhiều.
(5) Đương nhiên nội
dung th́ dường như y như nhau, nhưng vốn là hai
bản dịch khác nhau, với tựa đề khác nhau,
cách tŕnh bày bên ngoài khác nhau.
(6) Năm 1958 có 30 giám mục
bị tù.
(7) Có linh mục mà không có giám
mục.
(8) X. Cv 15,1-29.
(9) Mt 16,19.
(10) Mt 23,13.
(11) X. Mt 18,23-35.
(12) X. Mt 20,1-16.
NGUYỄN CHÍNH
KẾT