TÌM HIỂU SẮC LỆNH
“ĐẾN VỚI MUÔN DÂN” (AD GENTES)
Linh mục Trần Đình, Đalạt
I. NHẬP ĐỀ
Trong phần này, chúng ta đề cập đến quá trình
hình thành văn bản, cũng như tương quan giữa Sắc lệnh với những văn kiện khác
của công đồng ngõ hầu có thể hiểu rõ hơn tư tưởng của nó.
1. QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH VĂN BẢN
a/ Giai đoạn chuẩn bị
Công Đồng đã có 7 bản thảo liên tiếp, nhưng
ít được thoả mãn. Vì thế, Uỷ Ban Công Đồng đặc trách vấn đề truyền giáo đã soạn
thảo một lược đồ mới với nội dung rộng rãi và rõ ràng hơn. Điều đáng tiếc là
tháng 5-1964, một Uỷ Ban phối hợp đã đơn giản lược đồ đó vào 13 vấn đề, tuy
chính yếu nhưng không mấy phong phú.
b/ Ngày 6-11-1964
Công Đồng khởi sự thảo luận. Để biểu lộ mối
quan tâm đến một vấn đề quan trọng như vậy, Đức Phaolô VI đã đích thân giới
thiệu vấn đề tranh luận qua một huấn từ.
c/ Lược đồ mới
Sau khi thảo luận 13 vấn đề, người ta thấy
lược đồ ít được quảng diễn.
Vì thế, cuộc bỏ phiếu ngày 9-11-1964 quyết
định là Uỷ Ban đặc trách các vấn đề truyền giáo phải soạn thảo một lược đồ mới.
Uỷ Ban đã thu lượm tất cả những nhận xét đóng góp của các Nghị Phụ, nhờ đó kết
quả rất tích cực. Một lược đồ mới ra đời: dàn bài rõ ràng và hợp lý, dồi dào
chất liệu Kinh Thánh, nền tảng thần học vững chắc.
d/ Ngày 7-12-1965
Sau một vài tu chỉnh, bản văn cuối cùng đã
được chấp thuận với 2394 phiếu thuận, 5 phiếu chống. Đây là tỉ số được chấp
thuận cao nhất cho một bản văn của Công Đồng.
Khởi đầu, sắc lệnh có tên là “Sắc lệnh về vấn
đề truyền giáo”, sau đó được đổi là “Về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội”. Lý
do chính của việc thay đổi tựa đề là để nhấn mạnh mối tương quan mật thiết giữa
hoạt động truyền giáo và Giáo Hội. Thật vậy, hoạt động truyền giáo thuộc sứ
mạng của Giáo Hội đối với thế giới, chứ không phải chỉ là một hoạt động bên
cạnh những hoạt động khác (ví dụ: hoạt động mục vụ, xã hội …)
2. TƯƠNG QUAN GIỮA
SẮC LỆNH AD GENTES
VỚI CÁC VĂN KIỆN KHÁC
a/ Sắc lệnh Ad Gentes
và Hiến chế Lumen Gentium:
Tương quan này được đánh dấu bằng những chữ
đầu tiên của hai văn kiện “Đến với muôn dân” và “Ánh sáng muôn dân”.
Hai câu này ám chỉ đến lời tiên tri Isaia
(42, 6 và 49, 6): người Tôi Tớ Giavê được sai đến trần gian để nên ánh sáng và
ơn cứu rỗi muôn dân.
Trước tiên, lời tiên tri được áp dụng cho
Chúa Kitô, sau đó được áp dụng cho Giáo Hội, vì Giáo Hội tiếp tục công trình
của Người. Giáo Hội đang và sẽ là ánh sáng, là “bí tích cứu độ” (AG 1 ; LG 48)
cho thế giới, và chính khi truyền giáo, Giáo Hội sẽ chu toàn nhiệm vụ chính yếu
này.
Thực vậy, theo Hiến chế Lumen Gentium, tâm
điểm đời sống của Giáo Hội là hoạt động truyền giáo. Hoạt động này là bản chất,
là sứ mạng của Giáo Hội. Sắc lệnh Ad Gentes tiếp tục đề tài đó: không phải chỉ
đơn thuần lặp lại, nhưng đặt nó vào trong một khung cảnh lịch sử và địa lý rộng
lớn của thời đại hôm nay.
b/ Sắc lệnh Ad Gentes
và ý hướng căn bản của Công đồng Vatican II:
Muốn thấu triệt ý nghĩa và tầm quan trọng của
sắc lệnh, cũng phải đặt nó vào trong ý hướng cơ bản của Công Đồng Vatican II.
Người ta đã so sánh Công Đồng Vatican II với
Công Đồng Giêrusalem và cho rằng: Công Đồng Vatican II thích hợp với thế giới
hiện đại, còn Công Đồng Giêrusalem thích hợp với thời xưa (x. Cv 15).
* Thời đó, Giáo Hội sơ
khai khi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân đã phải đương đầu với một vấn đề
nghiêm trọng: trình bày Đức Kitô thế nào để lương dân có thể gia nhập Giáo Hội?
* Ngày nay, mọi người
đều biết Giáo Hội, nhưng đa số nhân loại lại chưa biết Chúa Kitô. Vì vậy, Công
Đồng Vatican II đẩy mạnh nỗ lực truyền giáo bằng cách cởi mở với thế giới và đề
nghị một cuộc canh tân Giáo Hội theo tinh thần Phúc Âm.
Chính ý thức về sứ mạng cấp bách này đã là
nền tảng thống nhất các hiến chế, sắc lệnh và tuyên ngôn của Công Đồng.
Vì thế, phải đọc sắc lệnh Ad Gentes theo
chiều hướng này.
c/ Sắc lệnh Ad Gentes
và mặc khải
Một vấn đề khác nên lưu ý là: các chủ đề
chính cũng như các vấn đề truyền giáo của sắc lệnh luôn được đặt trong tương
quan với mặc khải: những cách giải quyết có nền tảng thần học vững chắc và
thường trực tiếp tựa trên những bản văn kinh thánh. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó
hơn trong phần triển khai nội dung.
II. BỐ CỤC
Phần mở đầu (s.1)
1. Những nguyên tắc
giáo thuyết (s. 2-9)
2. Chính công việc
truyền giáo (s. 10-18)
3. Các Giáo Hội địa
phương (s.19-22)
4. Các nhà truyền
giáo (s. 23-27)
5. Tổ chức hoạt động
truyền giáo (s. 28-34)
6. Sự cộng tác (s.
35-41)
Kết luận (s. 42)
III. HỌC HỎI SẮC LỆNH
AD GENTES
PHẦN MỞ ĐẦU:
Giáo Hội, “bí tích cứu độ phổ quát” (x. GH
48), có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân, do đòi hỏi của công giáo tính
và vì mệnh lệnh của Đấng sáng lập (x. Mc 16, 15 ; Mt 28. 19-20).
CHƯƠNG I: NHỮNG
NGUYÊN TẮC GIÁO THUYẾT
1. Việc truyền giáo của Giáo Hội nối dài sứ
mạng của Ba Ngôi, đồng thời thể hiện ý định của Thiên Chúa (x. GH 2) là muốn
loài người được tham dự vào sự sống của Người (s. 2).
2. Vì vậy, Thiên Chúa đã quyết định đi vào
lịch sử loài người một cách mới mẻ và dứt khoát bằng cách sai Chúa Con xuống
thế làm người để giải thoát nhân loại khỏi quyền lực tối tăm và Satan (x. Cl 1,
13; Cv 10, 38), hòa giải thế gian với Người (x. 2C 5, 19) hầu mọi sự được tái
lập (x. Ep 1, 10).
Bằng đường lối nhập thể, Chúa Con đã đến làm
cho loài người được thông phần bản tính Thiên Chúa. Nhập thể là trở nên nghèo
(x. 2C 8, 9), phục vụ (x. Mc 10, 45) và đảm nhận mọi sự, ngõ hầu tìm kiếm và
cứu chữa những gì đã hư đi (x. Lc 19, 10) (s. 3).
3. Để hoàn tất công việc cứu rỗi, Chúa Thánh
Thần đã được phái đến để thực hiện công trình cứu chuộc trong các tâm hồn và
thúc đẩy Giáo Hội bành trướng thêm mãi.
4. Lãnh nhận sứ mạng từ Đức Kitô, Giáo Hội vì
là “bí tích cứu độ phổ quát”, có bổn phận rao giảng Tin Mừng, dưới sự thúc đẩy
của Chúa Thánh Thần, nhờ gương mẫu đời sống, lời giảng dạy và các bí tích mà
dẫn người ta đến đức tin. Giáo Hội phải tiến bước trên con đường mà Chúa Kitô
đã đi là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến (s.5).
Đối với con người, đoàn thể hay dân tộc, Giáo
Hội phải tiếp xúc và thấm nhập dần dần.
Hai ý niệm then chốt của hoạt động truyền
giáo là: rao giảng Phúc Âm và vun trồng Giáo Hội (x. 1C 3, 6-9; x. GH 6, 3).
Cần lưu ý: sự chia rẽ giữa các
kitô hữu chẳng những gây tai hại cho việc rao giảng Phúc Âm, mà còn bít kín
đường dẫn tới đức tin (s. 6).
Một lần nữa, Công Đồng tuyên bố lý do của
hoạt động truyền giáo bắt nguồn từ ý định của Thiên Chúa “muốn mọi người được
cứu rỗi và nhận biết chân lý. Chỉ có một Thiên Chúa, một Đấng trung gian duy
nhất là Đức Giêsu Kitô” (x. 1Tm 2, 4-6) và “ơn cứu rỗi không có nơi ai khác”
(Cv 4, 12), cho nên bổn phận chính yếu của Giáo Hội là phải rao giảng. Vì thế,
đây là vấn đề vẫn mãi cần thiết và giữ nguyên hiệu lực của nó (s. 7).
5. Hoạt động truyền giáo cũng liên kết chặt
chẽ với chính bản tính nhân loại và ước vọng của con người: mọi người đều cần
Chúa Kitô làm gương mẫu, làm Thầy dạy, làm Đấng giải thoát, Đấng cứu độ và Đấng
ban sự sống (s. 8)
Tóm
lại, “hoạt động truyền giáo không gì khác hơn là bày tỏ ý định của Thiên Chúa
và hoàn tất ý định ấy nơi trần thế và trong lịch sử trần thế. Chính trong lịch
sử này mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu rỗi một cách rõ rệt nhờ việc truyền
giáo” (s. 9).2.
Nhận xét: sắc lệnh đã phác thảo
những nét căn bản cho một nền thần học truyền giáo, được xây dựng trên 4 chiều
kích: Ba Ngôi, Kitô học, Giáo Hội học và nhân học.
CHƯƠNG II: CHÍNH CÔNG
VIỆC TRUYỀN GIÁO
Mục 1: Chứng tá kitô
hữu
1. Mọi kitô hữu dù sống ở đâu cũng phải lấy
gương mẫu đời sống và chứng tá lời nói để biểu dương con người mới, ngõ hầu
người khác nhìn vào những việc lành của họ mà ca tụng Chúa Cha (x. Mt 5, 16).
2. Để làm chứng cho Chúa Kitô cách hữu hiệu,
các kitô hữu còn phải liên kết với người khác, tham gia vào đời sống văn hoá xã
hội của nhân loại, làm quen với những truyền thống dân tộc và tôn giáo của họ,
khám phá những hạt giống lời Chúa tiềm ẩn trong họ, nỗ lực làm cho những người
quá chú tâm vào khoa học kỹ thuật đừng quên lãng những việc linh thiêng, hiểu
biết và đối thoại với họ, đem ánh sáng Tin Mừng chiếu soi vào mội trường sống
của họ. (s. 11).
3. Ngoài ra, họ còn phải bắt chước Chúa mà
yêu thương mọi người bằng cách chia vui sẻ buồn, nhận biết những ước vọng và
những vấn đề nhân sinh, cộng tác với những người khác trong việc giáo dục, tạo
ra những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn như khắc phục nạn đói khát, dốt nát và bệnh
tật.
4. Sắc lệnh lưu ý: Giáo Hội không hề muốn pha
mình vào việc cai trị xã hội trần gian, không đòi cho mình quyền nào khác ngoài
việc phục vụ.
Một lưu
ý khác là: các môn đệ không tìm tiến bộ và thịnh vượng vật chất cho con người,
nhưng là nâng cao nhân phẩm và sự hiệp nhất huynh đệ (s.12).
Nhận xét: yêu sách của việc
truyền giáo là phải lưu tâm đến những hoàn cảnh sống cụ thể của con người.
Mục 2: Rao giảng Tin
Mừng và qui tụ Dân Chúa
1. Phải tin tưởng và bền chí loan báo Tin
Mừng cho hết mọi người nhận biết Thiên Chúa hằng sống và nhận biết Đấng Người
sai đến là Đức Kitô, “là đường, sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6) để họ trở lại
và gắn bó cùng Người.
2. Đối với các dự tòng, cần cứu xét những
động lực tòng giáo và nếu cần thì phải thanh luyện những động lực ấy (s. 13).
Phải mở lớp dự tòng để không những trình bày
tín lý và các giới răn, nhưng còn huấn luyện một đời sống kitô hữu đầy đủ và có
thời gian tập sự. Lớp dự tòng không phải chỉ là việc riêng của các giáo lý
viên, nhưng còn là của cộng đoàn tín hữu và của những người đỡ đầu. Phải tập
cho các dự tòng cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng và xây dựng Giáo Hội bằng
chứng tá đời sống và tuyên xưng đức tin (s. 14).
Nhận xét: huấn luyện dự tòng
không chỉ là trình bày giáo thuyết nhưng còn phải dạy cho họ tham gia vào đời
sống của Giáo Hội một cách cụ thể.
Mục 3: Việc thành lập
cộng đoàn kitô giáo
1. Phải xây dựng cộng đoàn tín hữu sao cho họ
biết sống xứng đáng ơn gọi của mình (x. Ep 4, 1), để trở thành dấu chỉ sự hiện
diện của Thiên Chúa nơi trần gian, bén rễ sâu trong dân chúng.
Cũng phải dạy cho họ có tinh thần đại kết,
hiệp nhất, sống như men trong bột, dùng lời nói và việc làm mà loan báo Chúa Kitô.
2. Ngoài ra, để “gieo trồng” Giáo Hội và phát
triển cộng đoàn kitô giáo, cần phải có nhiều thừa tác vụ khác nhau (s. 15).
a/ Trước tiên là
đào tạo linh mục. Việc đào tạo phải nhắm đến những điểm sau đây: việc huấn
luyện thiêng liêng phải liên kết chặt chẽ với việc huấn luyện giáo thuyết và
mục vụ, phải được tổ chức dưới ánh sáng của mầu nhiệm cứu rỗi; tìm kiếm lối suy
tư và hành động riêng biệt của dân tộc mình; việc huấn luyện cũng phải nhắm vào
những nhu cầu mục vụ của từng miền , nghĩa là chủng sinh phải học biết lịch sử,
mục đích và phương pháp hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, những hoàn cảnh xã
hội, kinh tế và văn hoá của dân tộc mình để đối thoại. Họ cũng phải được huấn
luyện về phương diện kinh tế nữa (s. 16).
b/ Thứ đến là đào
tạo các giảng viên giáo lý. Việc huấn luyện phải được kiện toàn và thích nghi
với tiến bộ văn hoá; phải có nhiều trường học thuộc giáo phận và miền; phải
cung cấp cho họ một khoản thù lao cân xứng. Nếu thấy thuận tiện thì nên công
khai cử hành một nghi lễ phụng vụ để trao bài sai hầu tạo uy tín cho họ (s.
17).
c/ Cuối cùng là
đời sống tu trì. Đời sống tu trì không những cần thiết cho hoạt động truyền
giáo mà còn bày tỏ bản tính sâu xa của ơn gọi kitô giáo (s. 18).
Nhận xét: trong việc thiết lập
cộng đoàn kitô giáo cần lưu tâm trước hết đến việc đào tạo.
CHƯƠNG III: CÁC GIÁO
HỘI ĐỊA PHƯƠNG
1. Những nét chính
yếu của một Giáo Hội trưởng thành: đã bén rễ sâu trong
đời sống xã hội và văn hoá địa phương; đã có dồi dào các linh mục, tu sĩ và
giáo dân địa phương; đã có những thừa tác vụ và những tổ chức cần thiết dưới sự
dẫn dắt của Giám Mục riêng của mình (s. 19).
2. Giáo Hội trẻ trung
có thể trưởng thành bằng những phương thế nào?
a/ Các cộng đoàn
tín hữu phải trở nên những cộng đoàn sống đức tin, phụng vụ và đức ái; phải duy
trì mối hiệp thông mật thiết với toàn thể Giáo Hội; tiến tới việc tự túc và
giúp đỡ các Giáo Hội khác (s. 19).
b/ Phải là một
Giáo Hội truyền giáo, không những bằng chứng tá đời sống mà còn bằng việc rao
giảng (Giám Mục, Linh mục); còn các tu sĩ và giáo dân cũng phải hun đúc nhiệt
tâm truyền giáo đối với đồng bào mình; hơn nữa Giáo Hội trẻ nên tham gia vào
công cuộc truyền giáo phổ quát của Giáo Hội càng sớm càng tốt (s. 20).
c/ Vai trò của
giáo dân: Phúc Âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một
dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân.
Nhiệm vụ chính yếu
của giáo dân là làm chứng về Chúa Kitô bằng đời sống và lời nói, đồng thời phải
biểu lộ con người mới và diễn tả nếp sống mới trong môi trường xã hội và văn
hoá của quê hương theo truyền thống của dân tộc mình.
Còn các thừa tác
viên của Giáo Hội phải quí trọng việc tông đồ đầy khó khăn này của người giáo
dân, chẳng những bằng cách huấn luyện, nhưng còn phải sát cánh với họ nữa (s.
21).
d/ Cuối cùng,
tương tự như chương trình Nhập Thể, Giáo Hội trẻ trung phải biết thu nhận tất
cả những sự phong phú của các dân tộc làm gia nghiệp, góp phần vào việc tuyên
xưng vinh quang của Tạo Hoá.
Cũng cần thúc đẩy việc suy tư thần học để
hiểu được đường lối nào đức tin có thể tìm gặp lý trí cũng như phong tục tập
quán của xã hội, ngõ hầu Giáo Hội có thể dễ dàng thích nghi trong việc loan báo
Tin Mừng (s. 22).
Nhận xét: các Giáo Hội địa
phương cần phải hướng đến sự trưởng thành.
CHƯƠNG IV: CÁC NHÀ
TRUYỀN GIÁO
1. Thế nào là một nhà
truyền giáo:
1/ được sai đi;
2/ phải ra đi,
nghĩa là mang Giáo Hội đến những nơi chưa có GH;
3/ đến nơi xa, nơi
mà Giáo Hội chưa được vun trồng.
4/ được tách riêng
ra;
5/ để rao giảng
Phúc Âm (s. 23).
2. Chân dung của nhà
truyền giáo:
1/ thấm nhuần đời
sống và sứ mạng của Đấng đã “tự huỷ mình mà nhận lấy thân phận tôi tớ” (Ph 2,
7);
2/ làm chứng về
Chúa bằng đời sống Phúc Âm đích thực;
3/ canh tân lòng
trí mỗi ngày (x. 1 Tm 4, 14; Ep 4, 23; 2C 4, 16) (s. 24).
3. Những yêu cầu đối
với nhà truyền giáo tương lai:
1/ được huấn luyện
về đời sống thiêng liêng và luân lý;
2/ là con người
cầu nguyện;
3/ có tinh thần
can đảm, yêu thương và độ lượng (2 Tm 1, 7);
4/ học để quen
sống tự túc (Ph 4, 11);
5/ có tinh thần hi
sinh và tận hiến cho các linh hồn (2 C 12, 15tt) (s. 25);
6/ được chuẩn bị
và đào tạo chẳng những về giáo thuyết , nhưng còn biết quí chuộng di sản, tiếng
nói và phong tục tập quán của dân tộc đó;
7/ học hỏi khoa
truyền giáo;
8/ được đào tạo về
tinh thần tông đồ và nghệ thuật dạy giáo lý;
9/ Cũng phải có
một số nhà truyền giáo được chuẩn bị kỹ hơn tại những Học Viện Truyền giáo (s.
26).
4. Những Tu Hội
truyền giáo. Kinh nghiệm cho hay chỉ những Tu Hội truyền giáo mới có
thể được huấn luyện một cách thích hợp và theo đuổi công việc đó nhân danh Giáo
Hội và theo ý muốn của hàng Giáo Phẩm (s. 27).
Nhận xét: một yêu cầu đối với
việc truyền giáo là phải đào tạo những nhà truyền giáo theo tinh thần Tin Mừng.
CHƯƠNG V: TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO
Các kitô hữu phải cộng tác vào việc truyền
giáo để xây dựng Giáo Hội. Tuy nhiên, “mọi sự được thực hiện theo trật tự” (1C
14, 40) (s. 28).
1. Trên
lãnh vực toàn cầu. Trước hết là bổn phận của “Giám Mục đoàn” (x. GH
s. 23), rồi đến “Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin” hợp với “Văn phòng cỗ võ sự hiệp
nhất kitô giáo” để điều khiển và phối hợp công việc truyền giáo cũng như sự hợp
tác truyền giáo trên toàn thế giới (s. 29).
2. Đối với Giáo phận. Giám Mục là người
lãnh đạo phát động, điều khiển và phối hợp hoạt động truyền giáo. Giám Mục nên
thiết lập Hội Đồng Mục Vụ trong đó giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân được góp phần đại
diện. Ngài cũng phải dành một phần nhân lực và vật lực vào việc rao giảng Phúc
Âm cho những người ngoài kitô giáo (s. 30).
3. Các Hội đồng Giám
Mục. Để khỏi phân tán nhân lực và vật lực, các Hội Đồng Giám
Mục nên hợp lực thiết lập những công tác phục vụ lợi ích chung như chủng viện,
những trung tâm mục vụ, giáo lý và truyền thông xã hội (s. 31).
Cũng
nên phối hợp hoạt động của các tổ chức hay hội đoàn trong Giáo Hội. Những tổ
chức đó dù thuộc loại nào đều phải tuỳ thuộc Đấng Bản Quyền địa phương (s. 32).
4. Tóm lại, một hoạt động truyền
giáo được thực thi đứng đắn và có tổ chức đòi hỏi những người thợ rao giảng
Phúc Âm phải được chuẩn bị cho nhiệm vụ của mình một cách khoa học, nhất là để
đối thoại với các tôn giáo và văn hoá ngoài kitô giáo (s.34).
Nhận xét: việc truyền giáo cần
đến sự phối hợp chặt chẽ.
CHƯƠNG VI: SỰ CỘNG
TÁC
Vì toàn thể Giáo Hội là truyền giáo và vì
công việc rao giảng Phúc Âm là nhiệm vụ căn bản của Dân Chúa, nên mọi người có
nhiệm vụ phải góp phần vào (s. 35).
1. Trước hết là các tín hữu vì họ là nhiệm
thể Chúa Kitô nhờ các bí tích khai tâm (s. 36). Chính họ đã làm cho Giáo Hội
xuất hiện như một dấu chỉ nổi lên giữa các dân (x. Ys 12, 11), là “ánh sáng thế
gian” (Mt 5, 14) và là “muối đất” (Mt 5, 13). Phải dùng cả những phương tiện
truyền thông hiện đại mà cung cấp những tin tức truyền giáo cho họ. Các cộng
đoàn giáo phận hay giáo xứ cũng phải minh chứng về Chúa Kitô trước mặt muôn dân
(s. 37).
2. Các Giám Mục. Tuy nhiên, mệnh lệnh mà Chúa
Kitô sai đi rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật trước hết và trực tiếp nhắm tới
các Giám Mục. Chính Giám Mục làm thể hiện tinh thần và nhiệt tâm truyền giáo
của Dân Chúa và có thể nói là thể hiện cách hữu hình để toàn thể giáo phận trở
thành giáo phận truyền giáo. Ngài có nhiệm vụ khuyến khích mọi thành phần Dân
Chúa truyền giáo, trong đó các tổ chức truyền giáo phải chiếm chỗ nhất. Ngài
cũng phải quảng đại chia sẻ gánh nặng truyền giáo bằng cách sai đến những giáo
phận thiếu giáo sĩ vài linh mục xuất sắc để làm việc truyền giáo ít là trong
một thời gian. Giám Mục cũng phải lưu ý đến số tiền đóng góp của giáo phận cho
việc truyền giáo chung của Giáo Hội (s. 38).
3. Các Hội Dòng chiêm niệm hay hoạt động đã
và đang góp phần lớn lao vào việc rao giảng Phúc Âm cho thế giới hãy cứ hăng
say theo đuổi công việc đã khởi sự, đức ái thúc đẩy và buộc họ phải có tinh
thần và việc làm thực sự công giáo.
a/ Các Hội Dòng
chiêm niệm góp phần rất lớn vào việc trở lại của các linh hồn nhờ kinh nguyện,
việc khổ hạnh. Giáo Hội xin các Hội Dòng này hãy thiết lập các nhà trong những
xứ truyền giáo.
b/ Còn các Hội
dòng sống đời hoạt động nên đặt vấn đề xem mình có thể mở rộng Nước Chúa nơi
muôn dân không (s. 40).
Nhận xét: truyền giáo là bổn
phận của hết mọi thành phần dân Chúa.
KẾT LUẬN
Các
nghị phụ Công Đồng hợp nhất cùng Đức Giáo Hoàng thân ái chào mừng những người
rao giảng Phúc Âm, nhất là những người chịu bách hại vì Danh Chúa Kitô. Các
ngài hiệp cùng các tín hữu cầu nguyện , nhờ sự cầu bầu của Đức Maria, cho muôn
dân mau được đưa về nhận biết chân lý (s. 42).