Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày
Thế Giới Di Dân Và Tị Nạn
Radiovaticana 2012-10-29
19:26:18 – “Cuộc Lữ Hành của Đức Tin và Hy Vọng” là chủ đề được Đức Giáo
Hoàng Biển Đức 16 chọn nhân dịp kỷ niệm lần thứ 99 ngày Thế giới Di Dân và Tị
Nạn (2013). Thánh lễ này sẽ được tổ chức vào Chúa Nhật, ngày 13 tháng 1 năm
2013. Sau đây là toàn bộ sứ điệp của Đức Thánh Cha.
Anh chị em thân mến!
Công đồng Vaticano II trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội
trong Thế Giới Ngày Nay đã nhắc nhở rằng “Giáo Hội đồng tiến với toàn thể nhân
loại” ( số 40). Do đó, “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người
ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy
vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của
con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Ibid, số 1). Tôi tớ Chúa,
Đức Phaolo VI đã nhắc lại những lời này khi ngài gọi Giáo hội là một “chuyên
gia về nhân loại” (expert in humanity) (Populorum Progressio, 13); và
Chân Phước Gioan Phaolô II cũng làm điều tương tự khi ngài trình bày rằng, con
người “là con đường mà Giáo hội phải đi để hoàn thành sứ mệnh của mình...con
đường do chính Chúa Ki-tô vạch ra” (Enc. Centesimus annus, 53). Tiếp
bước các vị tiền nhiệm, trong Thông Điệp Caritas In Veritate - Bác Ái Trong
Chân Lý, tôi đã nhấn mạnh rằng: “Chân lý đầu tiên là toàn thể Giáo hội, khi rao
giảng, cử hành Bí tích Thánh Thể và hoạt động trong bác ái, trong toàn thể bản
chất và hoạt động của mình, phải nhằm vào việc thúc đẩy sự phát triển toàn vẹn
con người” (số 11). Giờ đây, tôi đang nghĩ về hàng triệu người nam và người nữ,
vì những lý do khác nhau, đã trải qua những kinh nghiệm di dân. “Di dân quả là
một hiện tượng đáng báo động vì số đông những người di dân, vì những vấn đề xã
hội, kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo mà hiện tượng di dân đặt ra, và vì
những thách đố bi thảm mà hiện tượng này đặt ra cho các cộng đồng quốc gia và
quốc tế” (ibid, số 62), vì “mỗi người di tản là một nhân vị, có những quyền lợi
bất khả xâm phạm mà mọi người phải tôn trọng trong mọi hoàn cảnh” (ibid).
Vì lý do này, tôi đã chọn để dâng hiến ngày Di Dân Thế Giới
năm nay với chủ đề: “Di dân: cuộc lữ hành của đức tin và hy vọng.” Cùng
với những cử hành đánh dấu 50 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II và 60 năm công
bố về Tông huấn 'Gia đình xa cách' (Exsul Familia, 1952), thì đây
cũng là thời điểm mà toàn thể Giáo hội đang long trọng cử hành Năm Đức Tin cũng
như can đảm đón nhận những thách đố trong sứ mạng Tân Phúc Âm hóa.
Đức tin và hy vọng là những yếu tố không thể tách rời trong
trái tim của những người di dân, những người có một khao khát thẳm sâu về đời
sống tốt hơn nên và cố gắng để bỏ lại sau lưng mình sự vô vọng của một tương
lai không hứa hẹn. Trong suốt hành trình của mình, nhiều người trong số họ được
nuôi dưỡng bởi một sự tín thác sâu xa vào Thiên Chúa, Đấng chưa bao giờ từ bỏ
con mình. Sự xác tín này sẽ phần nào làm vơi đi nỗi đau của sự chia ly và rời
bỏ, và thậm chí còn trao cho họ niềm hy vọng vào một ngày nào đó họ sẽ trở về
chính quê hương của mình. Đức tin và hy vọng là những tài sản quý giá mà những
người di dân mang theo mình, họ biết rằng với chúng, họ có thể “đối diện với
hiện tại, một hiện tại cho dẫu là đầy bi kịch, nhưng vẫn có thể được sống và
được đón nhận nếu nó dẫn chúng ta đến một mục tiêu, nếu chúng ta chắc chắn về
mục tiêu này, và nếu mục tiêu này đủ lớn để minh chứng cho hành trình của chúng
ta” (Spe Salvi, 1).
Trong địa hạt rộng lớn của việc di dân, Giáo hội đã diễn tả
sự quan tâm mẫu tử của mình trong những cách thế khác nhau. Một mặt, nơi những
người di dân, Giáo hội thường phải chứng kiến tình trạng nghèo khó và những đau
khổ lớn lao gắn liến với việc di dân, và kèm theo đó là những trạng huống đầy
đau khổ và bi kịch. Điều này đã thúc đẩy Giáo hội thiết lập các chương trình
nhắm đến việc đáp những nhu cầu cấp bách ngang qua sự trợ giúp đầy quảng đại
của các nhân cũng như các tổ chức: các tổ chức và phong trào thiện nguyện, các
tổ chức của các giáo phận cũng như các giáo xứ trong sự hợp tác với tất cả
những người thiện chí. Giáo hội cũng làm việc để nhấn mạnh đến những khía cạnh
tích cực của nó, về những tiềm năng cũng như những nguồn lực mà việc di dân
mang lại. Cùng với những đường hướng này, các chương trình và các trung tâm đón
tiếp người di dân được thiết lập để giúp đỡ và nâng đỡ những người di dân,
những người tìm kiếm nơi ở mới và những người tị nạn, giúp họ hội nhập trọn vẹn
vào trong một bối cảnh xã hội và văn hoá mới mà không xao nhãng chiều kích tôn
giáo, vốn là một yếu tố nền tảng trong đời sống của mọi người. Thật vậy, chính
vì chiều kích tôn giáo này mà Giáo hội, được uỷ thác bởi Đức ki-tô, phải dấn
thân và quan tâm một cách đặc biệt đến sứ mạng này: đây được xem là nhiệm vụ
quan trọng và đặc biệt nhất của Giáo hội. Đối với các Kitô hữu đến từ nhiều nơi
khác nhau trên thế giới, việc lưu tâm đến chiều kích tôn giáo cũng bao hàm việc
đối thoại đại kết và việc quan tâm đến các cộng đoàn mới. Trong khi đó, đối với
Tín hữu Công Giáo, bên cạnh các điều khác, bên cạnh thiết lập một cơ cấu mục vụ
mới thì cũng cần diễn tả lòng kính trọng đối với các nghi lễ khác nhau để khích
lệ việc tham gia trọn vẹn vào đời sống cộng đoàn Giáo hội địa phương. Việc
thăng tiến đời sống con người thường gắn liền với sự hiệp thông về đời sống
thiêng liêng, một chiều kích mở ra một sự hoán cải đích thực và mới mẻ hướng đến
Thiên Chúa, Đấng cứu độ duy nhất của thế giới (Porta Fidei, 6). Giáo hội thường
trao ban những món quà quý giá khi Giáo hội hướng dẫn con người gặp gỡ Đức
ki-tô, một cuộc gặp gỡ mở ra con đường tới một niềm hy vọng chắc chắn và giá
trị.
Trong khi quan tâm đến nhu cầu những người di dân và tị
nạn, Giáo hội và các tổ chức thuộc Giáo hội tránh việc chỉ đơn thuần cung cấp
các dịch vụ đức ái. Những người di dân và tị nạn được mời gọi để đẩy mạnh tiến
trình hội nhất đích thực vào trong một xã hội nơi mà họ sẽ là các thành viên
hoạt động tích cực và có trách nhiệm đối với ích chung, đồng thời đóng góp một
cách đầy sáng tạo và chia sẻ một cách đúng đắn các quyền cũng như nghĩa vụ
trong xã hội đó. Những người di dân mang theo mình một cảm thức về sự tin tưởng
và hy vọng. Cảm thức này đã truyền cảm hứng và nâng đỡ họ trên hành trình tìm
kiếm một đời sống tốt đẹp hơn, chứ họ không chỉ đơn thuần tìm cách thăng tiến
về điều kiện tài chính, xã hội cũng như chính trị. Thật đúng khi nói rằng, kinh
nghiệm của người di dân khởi đi từ nỗi sợ, một cách đặc biệt khi họ phải gánh
chịu cảnh bắt bớ hay bạo lực, và trong nỗi đau thương này họ đã phải lìa bỏ gia
đình và tài sản mà mình đã sở hữu để đảm bảo sự sinh tồn của mình. Tuy vậy,
những đau thương và những mất mát lớn lao và đôi lúc thậm chí còn là một sự mất
định hướng trước một tương lai bất định, tất cả điều này cũng không thể hủy
diệt được ước mơ xây dựng một cuộc sống mới nơi một quốc gia mới với niềm hy
vọng và can đảm. Thực vậy, những người di dân tin tưởng rằng họ sẽ gặp được sự
đón nhận, sự liên đới và trợ giúp. Họ tin tưởng rằng họ sẽ gặp được những người
biết cảm thông với nỗi thống khổ và thảm kịch của người khác. Thông qua những
con người mà họ gặp gỡ, họ cũng sẽ nhận ra được những giá trị và nguồn sống
mới. Họ sẽ mở ra để chia sẻ vật chất cũng như tình người với những người nghèo
túng và những người thiếu may mắn. Thật quan trọng để nhận ra rằng, “Tình liên
đới nhân loại đem lại lợi ích cho chúng ta, đồng thời cũng là một bổn phận”
(Caritas in Veritate, số 43).
Cho dẫu vẫn còn đó những khó khăn, nhưng những người di dân
và tị nạn sẽ kinh nghiệm được những mối tương quan mới mẻ và sự chào đón khi họ
có thể làm phong phú quốc gia mà họ đến với những kỹ năng nghề nghiệp, những di
sản xã hội và văn hóa của mình. Họ cũng sẽ là những chứng nhân cho đức tin, một
sự làm chứng mang lại một nguồn năng lượng và một sức sống mới cho các cộng
đoàn Ki-tô hữu truyền thống, đồng thời mời gọi người khác gặp gỡ Đức Kitô và
tiến tới việc biết đến Giáo hội.
Chắc chắn mỗi quốc gia có quyền đặt quy định đối với những
người di dân, và ban hành những chính sách đã được những đòi hỏi chung về công
ích chi phối, nhưng phải đảm bảo là luôn tôn trọng nhân phẩm con người. Quyền
của con người đối với việc di dân, (như được mời gọi trong Hiến Chế Mục Vụ của
CĐ Vaticano II, số 65) là những quyền đã được đặt ra giữa những quyền cơ bản
của con người. Quyền ấy cho phép con người được định cư bất cứ nơi nào mà họ
xét thấy là có cơ hội tốt nhất để hiện thực hóa hết những khả năng, khát vọng
và hoạch định của họ. Tuy nhiên, trong bối cảnh chính trị xã hội hiện nay, thậm
chí trước cả quyền di cư, thì cũng cần tái khẳng định lại quyền không phải di
cư, nghĩa là được ở lại nơi quê nhà, như Chân Phước Gioan Phao-lô II đã nói: “Quyền
cơ bản của con người là được sinh sống nơi chính quê hương mình. Song những
quyền này chỉ trở nên hữu hiệu khi những yếu tố bắt người ta phải di cư luôn
được kiểm soát” (Huấn từ tại Công Nghị Thế Giới lần 4 về Chăm Sóc Mục Vụ cho
Người Di Dân và Người Tị Nạn, 9-10-1998).
Kỳ thực ngày nay chúng ta có thể thấy rằng nhiều cuộc di
dân là hậu quả từ sự bất ổn kinh tế, từ sự thiếu các nhu yếu phẩm đến các thiên
tai, chiến tranh và bất ổn xã hội. Thay vì di cư là một cuộc lữ hành đầy tín
thác, tin tưởng và hy vọng, thì những cuộc di cư có nguyên nhân như vừa nêu lại
trở nên việc bất khả kháng vì sinh tồn, trong đó những con người nam cũng như
nữ xuất hiện giống như những nạn nhân hơn là những người có trách nhiệm đối với
quyết định di cư của mình.
Hậu quả là, trong khi một vài người di cư đạt được địa vị
xã hội và có mức sống khấm khá hơn, cộng với sự hòa nhập tốt vào môi trường xã
hội mới mà họ nhập vào, thì vẫn còn đó biết bao người khác bị sống bên lề xã
hội, thường bị tước đoạt các quyền cơ bản con người, hoặc bị đẩy vào những hình
thức đối xử tệ hại đối với quốc gia mà họ nhập cư.
Tiến trình hội nhập phải kéo theo các quyền và nghĩa vụ, để
ý và quan tâm đến đời sống hợp nhân phẩm của những người di cư, để họ có được
một cuộc sống xứng đáng, và đến lượt họ, họ cũng được mời gọi để quan tâm đến
những giá trị mà xã hội sở tại đã đang cung ứng cho họ. Về phương diện này
chúng ta không thể bỏ qua vấn nạn những người nhập cư trái phép, một vấn nạn
gây nhức nhối hơn khi nhập cư trái phép dưới hình thức bóc lột và buôn bán con
người, cách riêng là phụ nữ và trẻ em.
Những tội ác này rõ ràng phải bị tố cáo và lên án. Trong
khi những chính sách di dân có trật tự chưa thể gàn gắn được những vết thương
trong những rạn nứt về biên giới, thì những pháp chế nghiêm khắc hơn chống lại
việc di cư bất hợp pháp và việc chấp nhận các phương thức đón nhận những người
nhập cư, sẽ phần nào giảm thiểu số người di dân trở thành mồi ngon của những
hình thức bóc lột người như thế. Có một nhu cầu cấp thiết cần đến sự can thiệp
có cấu trúc đa phương vì sự phát triển của các nước xuất cư, cần đến các biện
pháp đối phó hữu hiệu nhắm đến việc giải trừ nạn buôn bán người, cần đến những
chương trình toàn diện hoạch định những lối nhập cư hợp pháp, và cần sự cởi mở
nhiều hơn đối với việc cứu xét những trường hợp đang cầu cứu đến sự bảo vệ nhân
đạo hơn là tị nạn chính trị. Ngoài việc pháp chế phù hợp, cũng cần đến một nỗ
lực bền bỉ và kiên trì để đào tạo não trạng và lương tâm. Trong tất cả điều
này, điều quan trọng là phải tăng cường và phát triển sự hiểu biết và hợp tác
lẫn nhau giữa Giáo Hội và các tổ chức khác, những tổ chức cống hiến cho sự
thăng tiến vì sự phát triển hội nhất con người. Trong viễn tượng Ki-tô giáo,
công tác nhân đạo và xã hội phải kín múc sức mạnh từ sự trung thành với Phúc
Âm, trong sự nhận biết, “Ai theo Chúa Kitô, Con Người hoàn hảo, kẻ ấy sẽ được
trở nên người hơn” (Gaudium et Spes, 41).
Anh chị em di dân và tị nạn quý mến! Tôi mong cho Ngày Thế
Giới Người Di Dân và Tị Nạn sẽ giúp anh chị em làm mới lại niềm tín thác và
hy-vọng của mình vào Thiên Chúa, Đấng luôn ở bên cạnh anh chị em! Hãy tận dụng
tối đa mọi cơ hội để đến gặp gỡ Ngài và để nhìn ngắm dung nhan của Ngài trong
những hành vi thiện hảo mà anh chị em đã đón nhận trong suốt cuộc lữ hành di
trú của mình. Hãy vui lên, vì Thiên Chúa luôn ở cạnh bên, và cùng với Ngài anh
chị em có thể vượt qua được mọi chướng ngại và khó khăn trong cuộc hành trình.
Hãy làm giàu (hãy giữ lấy!) những chứng tá về sự mở ra lẫn sự chấp nhận mà
nhiều người đã hiến tặng cho anh chị em. Bởi lẽ “cuộc đời thì giống như cuộc
hải hành trên biển khơi lịch sử, thường khi tối mịt và lắm bão tố. Sống là một
cuộc hải hành mà trong đó ta luôn mong ngóng những vì sao sáng chỉ hướng. Những
vì sao sáng đích thực cho cuộc đời chúng ta chính là những người đã sống đàng
lành. Họ chính là ánh sáng của niềm hy-vọng. Hẳn nhiên Chúa Giê-su là ánh sáng
đích thực, Ngài là mặt trời soi tỏ hết thẩy bóng đêm lịch sử. Tuy vậy để vươn
đến được thứ ánh sáng đích thực là chính Chúa Giê-su, chúng ta cũng cần đến
những tia sáng gần hơn từ những người đã nhận và chiếu tỏa ánh sáng của Ngài,
và do đó mà họ có thể hướng dẫn chúng ta dọc suốt cuộc hành trình của mình (Spe
Salvi, 49).
Tôi xin phó dâng từng người trong anh chị em cho Đức Nữ
Trinh Ma-ri-a Rất Thánh. Mẹ là dấu chỉ về niềm hy-vọng chắc chắn và niềm an ủi.
Mẹ là “ánh sao dẫn đường”, là Đấng mà với sự hiện diện tình mẫu tử của mình, Mẹ
rất gần gũi với từng người chúng ta trong mọi khoảnh khắc cuộc đời. Với hết tấm
chân tình, tôi xin ban Phép Lành Tòa Thánh cho hết thảy anh chị em.
Tại
Vietvatican
Nguyễn Minh Triệu sj, chuyển ngữ