SỨ ĐIỆP NGÀY THẾ
GIỚI HÒA BÌNH LẦN THỨ 43 CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
01/01/2010
NẾU NGƯƠI MUỐN XÂY DỰNG HÒA BÌNH, THÌ HÃY BẢO
VỆ CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG
1. Vào đầu năm mới này, tôi mong ước bày tỏ những lời cầu chúc hòa bình
nhiệt tình nhất của tôi đến tất cả các cộng đồng kitô hữu, đến các vị hữu trách
của các Quốc gia, đến những người nam người nữ thiện chí trên khắp thế giới.
Tôi đã chọn làm đề tài cho Ngày Thế Giới
Hòa Bình lần thứ 43 này : Nếu
ngươi muốn xây dựng hòa bình, thì hãy bảo vệ công trình tạo dựng.
Việc tôn trọng công trình tạo dựng mặc lấy một tầm quan trọng lớn lao, vì
« công trình tạo dựng là khởi đâu và là nền tảng của mọi công trình của
Thiên Chúa » (1) và, ngày nay, việc bảo vệ nó trở nên thiết yếu cho sự
chung sống hòa bình của nhân loại. Quả thế, nếu do sự tàn bạo của con người đối
với con người mà có nhiều mối đe dọa đang gây nguy hiểm cho hòa bình và sự phát
triển toàn diện đích thực của con người – những cuộc chiến tranh, những xung
đột trên bình diện quốc tế và từng vùng, những hành vi khủng bố và những vi
phạm nhân quyền –, thì những mối đe dọa sinh ra do sự thiếu quan tâm –
thậm chí ngay cả bởi những lạm dụng – đối với trái đất và những tài sản thiên
nhiên, mà là một ân huệ của Thiên Chúa, cũng không kém gây lo lắng. Chính vì lý
do này mà nhân loại cần phải canh tân và củng cố « giao ước giữa con người
và môi trường, mà phải là tấm gương phản chiếu tình yêu tạo dựng của Thiên
Chúa, Đấng là cội nguồn và cùng đích của chúng ta » (2).
2. Trong Thông điệp Đức Ái Trong Sự
Thật, tôi đã nhấn mạnh rằng sự phát triển con người toàn diện được
liên kết chặt chẽ với những nghĩa vụ phát xuất từ mối tương quan của con người với môi trường thiên nhiên,
được xem như là một ân huệ của Thiên Chúa cho hết mọi người, mà việc khai thác
nó bao gồm một trách nhiệm chung đối với toàn thể nhân loại, đặc biệt đối với
những người nghèo và các thế hệ tương lai. Vả lại, tôi đã ghi nhận rằng khi
thiên nhiên và, trước hết, con người chỉ được xem như là hoa trái của sự ngẫu
nhiên hay của thuyết tất định của sự tiến hóa, thì ý thức về trách nhiệm này có
nguy cơ bị giảm bớt nơi các tâm trí (3). Trái lại, xem công trình tạo dựng như
là một ân huệ của Thiên Chúa cho nhân loại sẽ giúp chúng ta hiểu ơn gọi và giá
trị của con người. Quả thật, cùng với tác giả thánh vịnh, tràn đầy ngạc nhiên
thán phục, chúng ta có thể tung hô : « Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,muôn trăng sao Chúa
đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa
phải bận tâm? » (Tv
8, 4-5). Chiêm ngắm vẻ đẹp của công trình tạo dựng giúp chúng ta nhận ra tình
yêu của Đấng Tạo Hóa, Tình Yêu mà, như Dante Alighieri đã viết, « lay
chuyển mặt trời và các tinh tú khác » (4).
3. Cách đây hai mươi năm, khi dành cho Sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình đề tài
Hòa Bình với Thiên Chúa Tạo Hóa, hòa bình
với toàn thể công trình tạo dựng, Đức Giáo tông Gioan-Phaolô II đã
lôi kéo sự chú ý đến mối tương quan mà , trong tư cách là những thụ tạo của
Thiên Chúa, chúng ta có với vũ trụ xung quanh chúng ta. Ngài viết :
« Vào thời điểm hiện nay, người ta nhận thấy một ý thức sống động hơn đến
các mối đe dọa đang đè nặng lên hòa bình của thế giới […] do những việc gây tổn
hại đến lòng tôn trọng phải có đối với thiên nhiên ». Và ngài đã nói thêm
rằng ý thức sinh thái không được bị kìm nén, nhưng nên được khuyến khích,
« đến độ nó được phát triển và chín mùi bằng cách tìm ra nơi những chương
trình và những sáng kiến cụ thể sự diễn tả thích hợp » (5). Trước đó,
những vị khác trong số những Đấng tiền nhiệm của tôi đã ám chỉ đến mối tương
quan giữa con người và môi trường. Chẳng hạn, vào năm 1971, nhân dịp kỷ niệm
tám mươi năm Thông điệp Rerum Novarum
(Tân Sự) của Đức Lêô XIII, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh rằng « bằng việc
khai thác cách khinh suất môi trường thiên nhiên, (con người) có nguy cơ hủy
hoại nó và, đến lượt mình, là nạn nhân của sự hủy hoại này ». Và ngài thêm
rằng như thế « không chỉ môi trường vật chất trở nên một đe dọa thường
xuyên : ô nhiễm và chất thải, những căn bệnh mới, quyền lực hủy diệt tuyệt
đối, nhưng chính khung cảnh của con người mà con người không còn làm chủ được
nữa, do đó tạo nên cho ngày mai một môi trường mà sẽ có thể bất bao dung với
nó : vấn đề xã hội trên diện lớn liên quan đến gia đình nhân loại toàn
thể » (6).
4. Dù tránh đi vào những giải pháp chuyên môn đặc thù, Giáo Hội,
« chuyên gia về con người », ân cần mạnh mẽ nhắc nhở lưu ý đến tương
quan giữa Đấng Tạo Hóa, con người và công trình tạo dựng. Vào năm 1990, Đức
Gioan-Phaolô II đã nói về « cuộc khủng hoảng sinh thái » và, bằng
việc nhấn mạnh rằng cuộc khủng hoảng này có một đặc điểm chủ yếu luân lý, ngài
đã chỉ ra « sự cấp thiết luân lý của một sự liên đới mới » (7). Lời
kêu gọi này vẫn còn cấp bách hơn nữa ngày hôm nay, đối mặt với biểu hiện càng
gia tăng của một khủng hoảng mà sẽ là vô trách nhiệm nếu không lưu tâm nghiêm
chỉnh. Làm sao dửng dưng trước những vấn đề nảy sinh từ những hiện tượng như là
thảy đổi thời tiết, tình trạng sa mạc hóa, sự hủy hoại và mất đi hiệu suất của
những diện tích nông nghiệp rông lớn, ô nhiễm sông ngòi và những lớp nước
giếng, sự nghèo nàn đi của những đa dạng sinh học, sự gia tăng những hiện tượng
thiên nhiên quá mức, việc phá rừng nơi những vùng xích đạo và nhiệt đới ?
Làm sao làm ngơ trước hiện tương đang gia tăng của những gì mà người ta gọi là
« những người lánh nạn môi trường » : những người, mà do sự hủy
hoại của môi trường nơi họ sống, phải từ bỏ nó – đồng thời thường là tài sản
của họ – để đương đầu với những nguy hiểm và những cái xa lạ của sự di chuyển
bó buộc ? Làm sao không phản ứng trước những xung đột hiện thực và tiềm
tàng gắn liền với việc tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên ? Tất cả
những vấn nạn này có một tác động sâu xa đến việc thực thi các quyền con người,
chẳng hạn như quyền sống, quyền cung cấp thực phẩm, quyền sức khỏe, quyền phát
triển.
5. Tuy nhiên, cần phải nhận xét rằng cuộc khủng hoảng môi sinh không thể
được lãnh hội cách tách rời với những vấn đề gắn liền đó, vì nó gắn liền cách
sâu xa với chính khái niệm phát triển và với cái nhìn về con người và về những
mối quan hệ của nó với đồng loại và với công trình tạo dựng. Bởi thế cần khôn
ngoan xem xét lại cách sâu xa và sáng
suốt khuôn mẫu phát triển, và cũng suy nghĩ đến ý nghĩa của kinh tế
và những mục tiêu của nó, để sửa chữa những rối loạn chức năng và những thiếu
quân bình của nó. Tình trạng sức khỏe môi sinh của hành tinh đòi hỏi điều
đó ; cuộc khủng hoảng văn hóa và luân lý của con người cũng đòi hỏi như
thế và còn hơn nữa, cuộc khủng hoảng mà những triệu chứng của nó trong một
khoảng thời gian là rõ ràng hiển nhiên khắp nơi trên thế giới (8). Nhân loại
cần đến một cuộc đổi mới văn hóa sâu xa
; nó cần tái khám phá những giá trị tạo
nên nền tảng vững chắc trên đó xây dựng một tương lai tốt hơn cho
hết mọi người. Các hoàn cảnh khủng hoảng mà nhân loại đang trải qua hiện nay
– dù chúng thuộc về kinh tế, thực phẩm, môi trường hay xã hội – tự sâu
xa, đều là những cuộc khủng hoảng luân lý được gắn liền với nhau. Chúng bó buộc
suy nghĩ lại con đường chung của con người. Cách riêng, chúng bó buộc thích
nghi một cách sống đặt nền tảng trên sự tiết
độ và tình liên đới, với những quy luật mới và những hình thức dấn
thân tin tưởng và can đảm dựa trên những kinh nghiệm tích cực và loại bỏ cách
dứt khoát những kinh nghiệm tiêu cực. Chỉ như thế, cuộc khủng hoảng hiện nay
mới trở nên một cơ hội phân định và kế
hoạch hóa mới mẻ.
6. Chẳng phải là ở nguồn cội của kinh nghiệm mà chúng ta gọi là « thiên
nhiên » theo nghĩa vũ trụ của nó, có một « kế hoạch tình yêu và chân
lý » sao ? Thế giới không phải là hoa trái của một sự tất yếu nào đó,
của một định mệnh mù quáng hay của ngẫu nhiên […]. Thế giới bắt nguồn từ ý muốn
tự do của Thiên Chúa, Đấng đã muốn cho thụ tạo tham dự vào sự hiện hữu của
Ngài, vào sự khôn ngoan của Ngài và vào lòng nhân từ của Ngài » (9). Ở
những trang đầu tiên của nó, Sách Khởi Nguyên lại dẫn đưa chúng ta đến dự phóng
khôn ngoan về vũ trụ, hoa trái của tư tưởng của Thiên Chúa, mà được đặt ở đỉnh
cao của nó là người nam và người nữ, được tạo dựng theo hình ảnh và giống với
Đấng Tạo Hóa để « tràn ngập mặt đất » và để « bắt nó phục
tùng » như là những « quản gia » của chính Thiên Chúa (x. Kn 1,
28). Sự hài hòa giữa Đấng Tạo Hóa, nhân loại và công trình tạo dựng, mà Kinh
Thánh mô tả, đã bị phá vỡ bởi tội lỗi của Ađam và Evà, của người nam và người
nữ, mà đã mong muốn chiếm chỗ của Thiên Chúa, từ chối nhìn nhận mình là những thụ
tạo của Ngài. Do đó, nhiệm vụ « bắt phục tùng » trái đất, « vun
trồng và giữ gìn nó » đã bị làm hỏng, và giữa họ và phần còn lại của công
trình tạo dựng đã nảy sinh một sự xung đột (x. Kn 3, 17-19). Con người đã để
mình bị thống trị bởi tính ích kỷ, và khi đánh mất ý thức về sự ủy nhiệm của
Thiên Chúa, và trong tương quan của nó với công trình tạo dựng, nó đã xử sự như
là một kẻ bóc lột, muốn thực thi trên công trình tạo dựng một sự thống trị
tuyệt đối. Tuy nhiên, ý nghĩa đích thực của giới răn đầu tiên của Thiên Chúa,
được làm rõ nét trong Sách Khởi Nguyên, không hệ tại chỉ ở một sự cấp ban quyền
bính, nhưng đúng hơn là ở một tiếng gọi đến trách nhiệm. Vả lại, sự khôn ngoan
của các tiền nhân đã thừa nhận rằng thiên nhiên được ban cho chúng ta dùng, không
phải như là « một mớ những sự vật được vung vãi cách ngẫu nhiên »
(10), đang khi Mạc Khải Kinh Thánh cho chúng ta hiểu rằng thiên nhiên là một ân
huệ của Đấng Tạo Hóa, Đấng đã chỉ rõ những luật nội tại của nó, để con người có
thể rút ra những định hướng cần thiết để « giữ gìn và vun trồng nó »
(x. Kn 2, 15) (11). Tất cả những gì tồn tại đều thuộc về Thiên Chúa, Đấng đã
giao phó nó cho con người, nhưng không phải để con người chiếm dụng nó cách tùy
tiện. Khi con người thay thế Thiên Chúa thay vì thực hiện vai trò cộng tác của
mình với Ngài, thì nó cuối cùng gây nên sự nổi loạn của thiên nhiên « bị
hành hạ hơn là được cai quản bởi con người » (12). Vì thế, con người có
nghĩa vụ thực thi quyền cai quản có trách nhiệm công trình tạo dựng, bằng cách
bảo vệ nó và vun trồng nó (13).
7. Bất hạnh thay, người ta phải ghi nhận rằng nhiều người, trong nhiều nước
và nhiều vùng khác nhau của hành tinh, biết đến những khó khăn luôn càng lớn
hơn do sự chểnh mảng hay sự từ chối của nhiều người trong việc chăm lo cách có
trách nhiệm đến môi trường. Công đồng Vatican II đã nhắc lại rằng « Thiên
Chúa đã dành trái đất và tất cả những gì nó chứa đựng cho mọi người và mọi dân
sử dụng » (14). Bởi thế, gia sản công trình tạo dựng thuộc về toàn thể
nhân loại. Trái lại, nhịp khai thác hiện nay làm nguy hiểm cách nghiêm trọng
một số vốn tài nguyên thiên nhiên sẵn có không chỉ đối với thế hệ hiện nay,
nhưng đặc biệt đối với các thế hệ tương lai (15). Từ đó, không khó để thừa nhận
rằng sự hủy hoại môi trường thường là kết quả của việc thiếu những dự phóng
chính trị dài hạn hay là kết quả của việc theo đuổi các lợi tức kinh tế cách mù
quáng, mà bất hạnh thay biến thành một mối đe dọa nghiêm trọng đối với công
trình tạo dựng. Để chống lại hiện tượng này, bằng cách dựa vào sự kiện rằng « mọi quyết định kinh tế đều có một hệ quả
mang tính cách luân lý » (16), hoạt động kinh tế cần thiết phải tôn
trong môi trường hơn. Khi sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, thì cần
phải lưu tâm bảo vệ chúng, bằng cách cũng thấy trước những giá phải trả của
việc sử dụng này – về mặt môi trường và xã hội -, mà cần phải lượng giá như là
một khía cạnh thiết yếu của chính những giá phải trả của hoạt động kinh tế.
Cộng đồng quốc tế và các chính phủ của mỗi nước có bổn phận đưa ra những chỉ
dẫn đúng đắn để chống lại cách hữu hiệu đối với những phương thức khai thác môi
trường có thể làm hại nó. Để bảo vệ môi trường, để bảo toàn những tài nguyên và
khí hậu, một mặt, cần hành động trong sự tôn trọng các chuẩn mực đã được xác
định rõ, cũng theo quan điểm pháp lý và kinh tế, và, mặt khác, cần lưu tâm đến
sự liên đới phải có đối với những ai đang sống ở những vùng nghèo hơn của trái
đất và đối với những thế hệ tương lai.
8. Quả thế, việc đưa vào sự liên đới liên thế hệ trung thực
dường như cấp bách. Những giá phải trả phát xuất từ việc sử dụng các nguồn tài
nguyên môi trường chung không thể ăn bám vào các thế hệ tương lai :
« Là những người thừa kế các thế hệ quá khứ và hưởng lợi từ công việc của
các người cùng thời với chúng ta, chúng ta có những bổn phận đối với mọi người,
và chúng ta không thể không quan tâm đến những người sẽ đến kế tiếp chúng ta mở
rộng vòng tròn gia đình nhân loại. Sự liên đới phổ quát mà là một sự kiện, và
là một quyền lợi đối với chúng ta, cũng là một nghĩa vụ. Nó hệ tại một trách
nhiệm mà các thế hệ hiện tại phải có đối với các thế hệ tương lai, một trách
nhiệm mà cũng thuộc về các Nhà Nước cách cá thể và Cộng đồng quốc tế »
(17). Việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hẳn phải là như việc các
lợi ích tức thời không bao hàm những hệ quả tiêu cực đối với các sinh vật, con
người và những sinh vật khác, hiện tại và tương lai ; sự can thiệp của con
người không làm nguy hại đến sự phì nhiêu của trái đất, đối với thiện ích hôm
nay và của ngày mai. Bên kia sự liên đới liên thế hệ (solidarité intergénérationnelle) trung
thực, thì sự cấp thiết luân lý về một sự liên đới mới mẻ bên trong cùng thế hệ
(solidarité intra-générationnelle)
phải được tái khẳng định, đặc biệt trong những mối quan hệ giữa các nước đang
phát triển và các nước công nghiệp hóa cao : « cộng đồng quốc tế có
nghĩa vụ cấp bách tìm ra những con đường thể chế để quy định việc khai thác các
nguồn tài nguyên không thể tái tạo, phù hợp với những nước nghèo, để kế hoạch
hóa toàn thể tương lai » (19). Cuộc
khủng hoảng kinh tế cho thấy sự cấp bách của một sự liên đới được mở rộng trong
không gian và thời gian. Quả thế, trong số những nguyên nhân khủng
hoảng kinh tế hiện nay, việc nhìn nhận trách nhiệm lịch sử của các nước công
nghiệp hóa quả là quan trọng. Các nước kém phát triển, và đặc biệt các nước
đang nổi lên, tuy nhiên không được miễn trừ trách nhiệm riêng của mình đối với
công trình tạo dựng, bởi vì mọi người đều có nghĩa vụ thông qua dần dần những
biện pháp và những chính sách môi trường hữu hiệu. Điều này hẳn sẽ có thể được
thực hiện cách dễ dàng hơn nếu có những tính toán ít vụ lợi hơn trong việc trợ
giúp, trong sự truyền đạt kiến thức và việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật tôn
trọng môi trường hơn.
9. Chắc chắn rằng một trong những điểm chính yếu mà cộng đồng quốc tế phải
đương đầu, là vấn đề các nguồn tài nguyên năng lượng bằng việc tìm ra những
chiến lược chung và bền vững để thỏa mãn những nhu cầu về năng lượng của thế hệ
này và của các thế hệ tương lai. Với mục đích này, cần thiết các xã hội có nền
công nghệ kỹ thuật tiên tiến nên sẵn lòng tạo điều kiện cho những lối ứng xử
điều độ hơn, làm giảm bớt những nhu cầu năng lượng riêng của họ và cải tiến
những điều kiện sử dụng nó. Đồng thời, cần thăng tiến việc tìm kiếm và ứng dụng
năng lượng mà tác động môi trường của nó ít hơn và việc « tái phân phối
những nguồn tài nguyên năng lượng trên địa cầu…để các nước không có có thể tiếp
cận chúng » (20). Vì thế, cuộc khủng hoảng môi sinh mang lại một cơ hội lịch sử để xây dựng một câu trả
lời tập thể nhằm để chuyển đổi khuôn mẫu phát triển toàn cầu theo một định
hướng tôn trọng công trình tạo dựng hơn và nhắm đến sự phát triển con người
toàn diện, dựa theo những giả trị riêng của đức ái trong chân lý. Bởi thế, tôi
mong ước thông qua một khuôn mẫu phát triển được đặt cơ sở trên đặc tính trung
tâm của con người, trên sự thăng tiến và chia sẻ công ích, trên trách nhiệm,
trên ý thức về một sự thay đổi cần thiết các phong cách sống và trên đức khôn
ngoan, nhân đức mà đòi hỏi những hành vi phải thực hiện hôm nay đề phòng trước
những gì có thể xảy ra ngày mai (21).
10. Để dẫn đưa nhân loại đến việc quản lý môi trường và những nguồn tài
nguyên thiên nhiên cùng nhau cách bền vững hơn, con người được kêu gọi dấn thân
trí tuệ của mình trong lãnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ kỹ thuật và
trong việc ứng dụng những khám phá phát xuất từ đó. « Sự liên đới
mới » mà Đức Gioan-Phaolô II đề nghị trong Sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình năm 1990 (22) và « sự
liên đới thế giới » mà chính tôi đã kêu gọi trong Sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình năm 2009
(23) là những thái độ thiết yếu để định hướng những nỗ lực nhằm bảo vệ công
trình tạo dựng, bằng một hệ thống quản lý các nguồn tài nguyên trên trái đất
được sắp xếp tốt hơn trên bình diện quốc tế, đặc biệt vào thời điểm mà xuất
hiện, theo cách luôn hiển nhiên hơn, mối quan hệ chặt chẽ giữa cuộc chiến đấu
chống lại sự hủy hoại môi trường và việc thăng tiến sự phát triển con người
toàn diện. Nó hệ tại một sự năng động không thể tránh được, vì « sự phát
triển toàn diện con người không thể tiến triển mà không có sự phát triển liên
đới nhân loại » (24). Ngày nay, có nhiều khả năng khoa học và những con
đường đổi mới tiềm tàng, nhờ đó hẳn sẽ có thể cung cấp những giải pháp thỏa mãn
và hài hòa cho mối tương quan của con người với mối trường. Chẳng hạn, cần phải
khuyến khích các nghiên cứu hướng đến việc khám phá những phương pháp hữu hiệu
hơn để sử dụng những tiềm năng lớn lao của năng lượng mặt trời. Phải liên lỉ
chú ý đến vấn đề nguồn nước từ nay thuộc bình diện toàn cầu và đến toàn bộ hệ
thống thuộc khoa thủy địa chất, mà chu kỳ của nó mặc lấy một tầm quan trọng
hàng đầu đối với đời sống trên trái đất và sự ổn định của nó có nguy cơ bị đe
dọa mạnh mẽ bởi những thay đổi khí hậu. Cũng thế, những chiến lược điều chỉnh
phát triển nông thôn, đặt trọng tâm trên những người làm nông nhỏ bé và trên
gia đình của họ, phải được nghiên cứu kỹ càng, cũng vậy cũng cần phải chuẩn bị
những chính sách thích hợp đối với việc quản lý rừng, đối với việc loại bỏ chất
thải, đối với việc củng cố các liên kết đang tồn tại giữa việc chống lại những
thay đổi khí hậu và cuộc chiến chống lại sự đói nghèo. Cũng cần có những chính
sách quốc gia đầy tham vọng, được đi kèm bởi một sự dấn thân quốc tế mà sẽ mang
lại những thuận lợi quan trọng đặc biệt trong thời gian trung hạn và dài hạn.
Sau cùng, cần thiết ra khỏi cái logíc chỉ duy tiêu thụ để thăng tiến những hình
thức sản xuất nông nghiệp và công nghiệp tôn trọng trật tự của công trình tạo
dựng và thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của mọi người. Vấn đề môi sinh không
được đương đầu chỉ vì những viễn ảnh gây sợ hãi như việc hủy hoại môi trường
sắp xảy ra đến nơi ; chính sự tìm kiếm một sự liên đới đích thực trên bình
diện thế giới, được gợi hứng bằng những giá trị đức ái, công bằng và công ích,
mà cần phải đặc biệt là động cơ của nó. Vả lại, như tôi đã từng có cơ hội nhắc
nhở, « kỹ thuật không bao giờ là thuần túy kỹ thuật. Nó cho thấy con người
và những khát vọng phát triển của nó, nó diễn tả việc hướng tâm trí con người
đến sự vượt quá dần dần một số điều kiện vật chất. Bởi thế, kỹ thuật được ghi
khắc trong sứ mệnh « vun trồng và gìn giữ trái đất » (x. Kn 2, 15),
mà Thiên Chúa đã giao phó cho con người, và nó phải hướng tới củng cố giao ước
giữa con người và môi trường được kêu gọi là phản ánh của tình yêu sáng tạo của
Thiên Chúa » (25).
11. Dường như luôn rõ ràng hơn rằng đề tài về sự hủy hoại môi trường cáo giác
các ứng xử của mỗi người chúng ta, những nếp sống và những khuôn mẫu tiêu thụ
và sản xuất hiện đang nổi bật, mà thường là không thể biện hộ được theo quan
điểm xã hội, môi trường và ngay cả kinh tế. Một sự thay đổi thực sự não trạng
mà thúc giục mỗi người chấp nhận theo những
nếp sống mới, theo đó « những yếu tố quyết định những chọn lựa
tiêu thụ, tiết kiệm và đầu tư là việc tìm kiếm chân thiện mỹ cũng như sự hiệp
thông với người khác vì một sự tăng trưởng chung » (26), từ nay trở thành
không thể thiếu được. Ta phải luôn giáo dục hơn nữa xây dựng hòa bình từ sự
chọn lựa với tầm rộng lớn trên bình diện cá nhân, gia đình, cộng đoàn và chính
trị. Chúng ta hết thảy đều có trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc công trình tạo
dựng. Trách nhiệm này là không có biên giới. Theo nguyên tắc phụ đới
(subsidiarité), việc mỗi người dấn thân ở bình diện riêng của mình, làm việc để
vượt quá ưu thế của các lợi ích cá biệt, quả là quan trọng. Vai trò làm cho
nhạy cảm và đào tạo đặc biệt thuộc phận sự của các chủ thể khác nhau của xã hội
dân sự và của các Tổ chức phi chính phủ, quyết tâm và quảng đại ra sức
đối với việc mở rộng trách nhiệm môi sinh, mà hẳn phải luôn gắn chặt hơn với
lòng tôn trọng « nền sinh thái nhân bản ». Vả lại, cần phải nhắc lại
trách nhiệm của các phương tiện truyền thông trong lãnh vực này bằng cách đề
nghị những khuôn mẫu tích cực mà người ta có thể dựa vào. Bởi thế, chăm lo cho
môi trường đòi hỏi một tầm nhìn rộng lớn và toàn cầu về thế giới ; một nỗ
lực chung và trách nhiệm để đi từ một logíc dựa trên lợi ích quốc gia chủ nghĩa
ích kỷ đến một tầm nhìn luôn bao hàm những nhu cầu của mọi dân tộc. Ta không
thể dửng dưng trước những gì đang xảy đến xung quanh chúng ta, bởi vì sự lệch
hướng của bất kỳ phần nào của hành tinh hẳn sẽ lại đổ xuống trên đầu chúng ta.
Những mối quan hệ giữa những con người, giữa các nhóm xã hội và các Nhà Nước,
cũng như giữa con người và môi trường, được kêu gọi mang lấy phong cách của
lòng tôn trọng và của « đức ái trong sự thật ». Trong bối cảnh bao la
này, hơn bao giờ hết người ta mong muốn rằng những nỗ lực của cộng đồng quốc
tế, nhằm đạt được sự giải trừ quân bị dần dần và một thế giới không có vũ khí
hạt nhân – mà duy chỉ sự hiện diện của chúng cũng đe dọa cuộc sống của hành
tinh và tiến trình phát triển toàn diện của nhân loại hiện tại và tương
lai – đang được cụ thể hóa và tìm thấy một sự đồng thuận.
12. Giáo Hội có một trách nhiệm đối với
công trình tạo dựng và Giáo Hội nghĩ rằng Giáo Hội cũng phải thực
thi trách nhiệm đó trong lãnh vực công cộng, để bảo vệ đất đai, nước và không
khí, là những ân huệ của Thiên Chúa Tạo Hóa ban cho mọi người, và, trước tiên,
để bảo vệ con người khỏi mối nguy hiểm hủy hoại của chính nó. Quả thế, sự hủy
hoại thiên nhiên được gắn liền chặt chẽ với nền văn hóa nhào luyện nên cộng
đồng con người, chính vì thế « khi
‘nền sinh thái nhân bản’ được tôn trọng trong xã hội, thì nền sinh thái thự sự
cũng được lợi ích từ đó » (27). Ta không thể đòi hỏi các bạn trẻ
tôn trọng môi trường, nếu ta không giúp họ, trong gia đình và nơi xã hội, tôn
trọng lẫn nhau : cuốn sách thiên nhiên là độc nhất, về vấn đề môi trường
cũng như về vấn đề luân lý bản thân, gia đình và xã hội (28). Những nghĩa vụ
đối với môi trường phát xuất từ những nghĩa vụ đối với con người được xét nơi chính
bản thân con người, và trong mối tương quan với người khác. Vì thế, tôi vui
lòng khích lệ việc giáo dục trách nhiệm môi sinh, mà, như tôi đã chỉ ra trong
thông điệp Đức Ái Trong Sự Thật,
bảo toàn một « nền sinh thái nhân bản » đích thực, và tiếp đến khẳng
định, với một sự xác tín mới mẻ, tính bất khả xâm phạm của sự sống con người ở
mọi giai đoạn của nó và cho dầu thân phận của nó là gì, (khẳng định) phẩm giá
của nhân vị và sứ mệnh bất khả thay thế của gia đình, ở đó chúng ta được giáo
dục yêu thương đối với tha nhân và lòng tôn trọng thiên nhiên (29). Cần phải
bảo vệ gia sản nhân loại của xã hội. Gia sản các giá trị này có nguồn gốc của
nó và được ghi khắc trong luật luân lý bản nhiên, nằm ở nền tảng của lòng tôn
trọng nhân vị và công trình tạo dựng.
13. Sau hết, một sự kiện có ý nghĩa cao độ mà không được quên là nhiều người
đã tìm thấy sự thanh thản và bình an, cảm thấy được đổi mới và củng cố, khi họ
tiếp xúc chặt chẽ với vẻ đẹp và sự hài hòa của thiên nhiên. Bởi thế, có một thứ
hỗ tương tính : nếu chúng ta chăm sóc công trình tạo dựng, thì chúng ta
ghi nhận rằng Thiên Chúa, qua trung gian của công trình tạo dựng, chăm sóc
chúng ta. Vả lại, một quan niệm đúng đắn về tương quan của con người với môi
trường không dẫn đến việc tuyệt đối hóa thiên nhiên cũng không xem nó như là
quan trọng hơn chính con người. Nếu Huấn quyền của Giáo Hội bày tỏ sự quan ngại
của mình trước một quan niệm về môi trường mà dựa trên chủ nghĩa kinh tế trung
tâm (éco-centrisme) và chủ nghĩa sinh học trung tâm (bio-centrisme), thì Huấn
quyền làm như thế là bởi vì lối quan niệm này loại bỏ sự khác biệt thuộc hữu
thể và giá trị luân lý mà tồn tại giữa nhân vị và những sinh vật khác. Theo
cách này, người ta đi đến chỗ loại bỏ căn tính và ơn gọi trỗi vượt của con
người, bằng cách ưu đãi một cái nhìn công bằng chủ nghĩa về « phẩm
giá » của mọi sinh vật. Như thế, người ta mở đường cho một thuyết phiếm
thần mới với những sắc thái tân ngoại giáo mà làm cho ơn cứu độ con người phát
xuất chỉ từ thiên nhiên, trong ý nghĩa thuần túy tự nhiên chủ nghĩa của nó.
Trái lại, Giáo Hội mời gọi đề cập vấn đề cách quân bình, trong sự tôn trọng
« quy luật » (grammaire) mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc trong công
trình của Ngài, bằng cách giao phó cho con người vai trò người gìn giữ và quản
lý có trách nhiệm công trình tạo dựng, vai trò mà chắc chắn nó không được lạm
dụng, nhưng nó không thể tránh né. Quả thế, lập trường trái ngược mà tuyệt đối
hóa kỹ thuật và quyền lực của con người, cuối cùng cũng là một sự tổn hại
nghiêm trọng không chỉ cho thiên nhiên, nhưng còn cho chính phẩm giá nhân vị
(30).
14. Nếu ngươi muốn xây dựng hòa bình,
thì hãy bảo vệ công trình tạo dựng. Việc tìm kiếm hòa bình về phía
của mọi người thiện chí chắc chắn sẽ là được làm cho dễ dàng bởi việc nhìn nhận
chung về tương quan bất khả phân ly giữa Thiên Chúa, con người và toàn thể công
trình tạo dựng. Các kitô hữu, khi được soi sáng bởi Mạc Khải của Thiên Chúa và
bước theo Truyền Thống của Giáo Hội, sẽ mang lại sự đóng góp riêng của mình. Họ
xem vũ trụ và những kỳ công của nó dưới ánh sáng của công trình tạo dựng của
Chúa Cha và công trình cứu độ của Chúa Kitô, Đấng, mà qua cái chết và sự phục
sinh của mình, đã « hòa giải mọi sự […] trên trái đất và trên trời »
(Col 1, 20) với Thiên Chúa. Chúa Kitô, chịu đóng đinh và phục sinh, đã trao ban
cho nhân loại Thánh Thần thánh hóa của Ngài, Đấng dẫn dắt dòng lịch sử, trong
khi chờ đợi ngày mà cuộc trở lại vinh quang của Chúa sẽ khai mào « một
trời mới và một đất mới » (2Pr 3, 13) nơi công lý và hòa bình sẽ ngự trị
mãi mãi. Bởi thế, mọi người đều có nghĩa vụ bảo vệ môi trường thiên nhiên để
xây dựng một thế giới hòa bình. Đó là một thách đố cấp bách cần phải đối diện
bởi một sự dấn thân chung mới mẻ. Đó cũng là một cơ hội quan phòng để mang lại
cho các thế hệ mới viễn ảnh một tương lai tốt đẹp hơn cho hết mọi người. Ước gì
các vị hữu trách của các quốc gia và tất cả những ai, ở mọi mức độ, quan tâm
đến số phận của nhân loại đều ý thức về điều đó : việc bảo tồn công trình
tạo dựng và việc thực hiện hòa bình là những thực tại liên kết chặt chẽ với nhau !
Vì thế, tôi mời gọi mọi tín hữu nuôi dưỡng lời cầu nguyện sốt sắng của họ đối
với Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa toàn năng và là Cha giàu lòng thương xót, để
giữa lòng mọi người nam và mọi người nữ vang lên, được đón nhận và sống lời kêu
gọi cấp bách này : Nếu ngươi muốn
xây dựng hòa bình, thì hãy bảo vệ công trình tạo dựng.
Vatican, ngày 8
tháng 12 năm 2009
BÊNÊĐICTÔ XVI, Mục
tử của các mục tử
[1] Giáo lý Giáo Hội Công giáo, số. 198.
[2] Benoit XVI, Sứ điệp Ngày thế giới hòa bình 2008, n.7.
[3] Xem. Số. 48.
[4] La Divine Comédie, Paradis, XXXIII, 145.
[5] Sứ điệp
Ngày thế giới hòa bình, 1/1/1990, số 1.
[6] Tông thư Octogesima
adveniens, số.21.
[7] Sứ điệp
Ngày thế giới hòa bình, số 10.
[8] X. Bênêđictô XVI, Thông điệp Đức ái trong sự thật, số 32.
[9] Giáo lý Giáo Hội Công giáo, số 295.
[10] Héraclite d’Éphèse (535 av. JC env. – 475
av. JC env. ) Fragment 22B124, in H. Diels-W. Kranz, Die Fragmente der
Vorsokratiker,Weidmann, Berlin 19526.
[11] Xem. Bênêđictô XVI, Thông điệp Đức ái trong sự thật, số 48.
[12] Gioan-Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus,
số. 37.
[13] Xem. Bênêđictô XVI, Thông điệp Đức ái trong sự thật, số 50.
[14] Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes,
số.69.
[15] X. Gioan-Phaolô II, Thông điệp Sollecitudo rei socialis,
số. 34.
[16] Bênêđictô XVI, Thông điệp Đức ái trong sự thật, số 37.
[17] Hội đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình, Toát yếu Học thuyết xã hội của Giáo Hội,
số 467. X. Phaolô VI, Thông điệp Populorum progressio,
số. 17.
[18] X. Gioan-Phaolô II, thông điệp Centesimus annus,
các số. 30-31, 43.
[19] Bênêđictô XVI, Thông điệp Đức ái trong sự
thật, số. 49
[21] Cf. Saint Thomas d’Aquin, S. Th., II.II, q.
49, 5.
[22] X. số. 9.
[23] Cf. n. 8.
[24] Paul VI, Thông điệp Populorum progressio,
số. 43.
[25] Bênêđictô XVI, Thông điệp Đức ái trong sự thật, số. 69.
[26] Gioan-Phaolô II, thông điệp Centesimus annus,
số. 36.
[27] Bênêđictô XVI, Thông điệp Đức ái trong sự thật, số. 51.
[28] Xem, nt, các số. 15, 51.
[29] Xem, nt, các số. 28, 51, 61; Gioan-Phaolô
II, thông điệp Centesimus annus,
các số. 38, 39.
[30] Bênêđictô XVI, Thông điệp Đức ái trong sự thật, số. 70.
Lm. Võ Xuân Tiến chuyển ngữ theo bản tiếng Pháp XBVN 16/12/09