Bài III

 Ứng dỤng Laudato Si’ vào đỜi sỐng

Đây là một vấn đề mênh mông bao la…, mang nhiều khía cạnh chuyên môn về khoa học, kinh tế học, xã hội học … , và cả thần học nữa, vượt quá tầm hiểu biết của chúng tôi, mặt khác kinh nghiệm mục vụ của chúng tôi lại rất hạn chế…, thế nên chúng tôi chỉ cố gắng nắm bắt những gợi ý và đề nghị của chính Đức Giáo Hoàng, để rồi nêu ra một ít câu hỏi cho cử tọa suy nghĩ và thảo luận.

Phần I: Một cái nhìn tổng quát

Chúng ta cần hiểu và thực hiện đúng cách nhìn của ĐGH Phanxicô về vấn đề “chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta” là Trái Đất.

1. Để hiểu đúng, cần đọc bản Latin là ngôn ngữ chính thức của Giáo Hội Công Giáo Rôma, còn khi phải dùng một bản dịch, thì nên ưu tiên chọn bản Ý là ngôn ngữ gần với Latin nhất, sau đó là Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Anh. Đối với những văn kiện mà ĐGH không phổ biến bằng Latin, có lẽ nên ưu tiên dùng bản Ý và/hoặc Tây Ban Nha, vì Ý là tiếng “mẹ đẻ”, còn Tây Ban Nha là “ngôn ngữ quốc gia” của ngài, nên hầu như chắc chắn ngài soạn (hoặc nháp) bằng một trong hai thứ tiếng ấy. Từ đó người ta dịch sang những thứ tiếng khác. Riêng bản Anh, chúng tôi sẽ đánh bạo nói lên vài nhận định để Quý Vị hữu trách trong Giáo Hội Việt Nam suy nghĩ khi chọn lựa. Trong Bài I, chúng tôi đã có vài nhận định và góp ý về bản dịch tiếng Việt thông điệp Laudato Si’ do Caritas VN thực hiện và đang được lưu hành chính thức. Trong Bài III này, chúng tôi góp ý thêm nữa để giúp các dịch giả hiệu đính và hoàn chỉnh bản dịch của mình.

2. Để thực hiện đúng, thì cần nắm bắt chinh xác những gợi ý và những lời khuyên của ĐGH. Dựa theo văn bản của thông điệp, lời khuyên chính yếu nhất được ngài trình bày trong chương Sáu, là chương cuối cùng của thông điệp, và từ chìa khóa của lời khuyên đó là “GIÁO DỤC”, (EDUCATIO), hướng tới một lối sống mới (số 203…). Giáo dục là phương thế và con đường hữu hiệu nhất đưa thông điệp Laudato Si’ vào cuộc sống của các Kitô hữu, và ĐGH cũng đề nghị con đường đó cho mọi người vì ngài “muốn đi vào cuộc đối thoại với mọi dân tộc về ngôi nhà chung của chúng ta” (số 3).

3. ĐGH Phanxicô có một quan niệm độc đáo và thuyết phục về GIÁO DỤC. Ngài mở đầu Chương Sáu, là phần đẹp nhất, sâu sắc nhất, và vì thế quan trọng nhất của thông điệp, bằng câu: “Có rất nhiều thứ cần được tái định hướng, nhưng trên hết vẫn là loài người chúng ta phải thay đổi”. Rồi ngài nói tới việc “phát triển những xác tín mới, những thái độ mới và những lối sống mới”, chung quy giáo dục bao gồm “những tiến trình tái sinh lâu dài”.[1]

a/1. Danh từ Latinh “educatio” phái sinh từ động từ “educare” do hai yếu tố từ nguyên ghép lại: “ducere” = dẫn = lôi kéo = đưa... + “e =ex” = ra từ cái gì hoặc nơi nào đó. Động từ này nói lên một sự di chuyển, thay đổi chỗ từ trong ra ngoài. Vậy “e-ducare” trước tiên là “lôi = đưa …” hết những yếu tố tốt cũng như xấu từ trong con người thụ huấn ra cho chính bản thân người đó thấy. Nhà hiền triết Sacrate của Hy Lạp (470-399 trước CN) không viết lách gì, chỉ để lại một lời khuyên duy nhất cho các học trò: “Bạn hãy biết mình”. Vậy, bước đầu tiên của “educatio”, giáo dục, là giúp người thụ huấn biết rõ những yếu tố tốt (tức ánh sáng) trong mình để phát huy, phát triển, và biết rõ những yếu tố xấu (tức bóng tối) trong mình để từng bước giảm bớt và loại trừ.

Theo ĐGH Phanxicô, yếu tố xấu và tiêu cực nổi bật nhất hoặc cơ bản nhất trong con người chính là xu hướng “quy ngã” (égocentrisme), v kỷ, ích kỷ (égoïsme), tự cô lập và thờ ơ với kẻ khác, dẫn tới “chủ nghĩa cá nhân” (x. số 208), nó thúc đẩy sự tìm kiếm hưởng thụ tối đa cho bản thân, tìm kiếm lợi ích cho chính mình, kể cả bằng cách gây hại cho người nghèo và trái đất (x. số 246, bài kinh A). Xu hướng ích kỷ cá nhân ấy, do mạng lưới tương quan hỗ tương trong đời sống xã hội, sẽ tạo ra “tình trạng ích kỷ tập thể” (x. số 204)

Việc biện phân và nhìn nhận như thế là then chốt cho giáo dục nói chung, còn đối với việc giáo dục sinh thái đang bàn, đích nhắm tích cực là phải thay đổi, phải phát triển những xác tín mới, những thái độ mới và những lối sống mới, chung quy giáo dục bao gồm “những tiến trình tái sinh lâu dài (x. số 202).

a/2. Song song với nghĩa từ nguyên “lôi ra, đưa ra…” của “e-ducare”, chúng ta cũng đã nghe rất nhiều lần ĐGH Phanxicô nhấn mạnh điều mỗi người và cả Giáo Hội cần làm, là từ bỏ “thái độ tự quy chiều về minh = attitude autoréférentielle”, “đi ra khỏi chính mình” để đến với kẻ khác (x. số 208), nhất là với những người đang sống tại “những vùng ngoại biên của cuộc nhân sinh (les périphéries existentielles)” (x. tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, số 46; 49; 87…). Đây cũng là một chiều kích thiết yếu của Giáo dục Kitô giáo.

b) Theo quan điểm của Phúc Âm và Kitô giáo, việc GIÁO DỤC (Educatio) phải được nối dài và bổ túc bởi việc HUẤN LUYỆN (Formatio), nghĩa là nắn đúc người thụ huấn theo một khuôn mẫu hoặc mô hình nhất đnh (FORMA). Theo thánh Phaolô trong Rm 8,29, mô hình lý tưởng đó chính là Đức Kitô, Trưởng Tử của Thiên Chúa Cha và Anh Cả của một đoàn em đông đúc là những môn đệ của Thánh Tử, mà Thiên Chúa Cha muốn rằng họ trở nên “đồng hình đồng dạng với Thánh Tử (conformes imaginis Filii sui = summorphous tès eikonos tou Uhiou autou = dịch sát là: đồng dạng với hình ảnh của Thánh Tử).

c) Tiến trình giáo dục toàn diện gồm hai thì “educatio” và “formatio” vừa nêu đã được chính Chúa Giêsu diễn tả bằng hai mệnh lệnh để hành động: (1) “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình từng ngày…” (Lc 9,23), điều này tương đương với việc phải liên tục “ra khỏi chính mình; rời bỏ xu hướng quy ngã, vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa”; và (2) “Hãy đi theo tôi” (Lc 9,23), “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39), và sau khi “xem, xét” thì kẻ được gọi quyết định “làm”, là “ở lại với Thầy Chí Thánh” (x. Ga 1,39), “trở thành môn đệ” của Người (x. Lc 14,27). Mà người môn đệ đích thực thì luôn suy nghĩ, cảm nhận, nói năng, sống và hành động như Thầy Chí Thánh (x. Pl 2,5). Chương trình “năm như ” này được ĐGH Phanxicô ám chỉ ở cuối chương Hai (“Tin Mừng về Sáng Tạo”) trong mục VII: “Cái nhìn của Chúa Giêsu” về “mầu nhiệm Vũ Trụ”, mà chúng ta sẽ liên kết với linh đạo sinh thái trong chương Sáu.

4. Là Kitô hữu, hơn nữa là những linh mục có nhiệm vụ hướng dẫn Dân Chúa, chúng ta càng phải cố gắng thực hiện việc GIÁO DỤC SINH THÁI đúng cách nhìn của vị Mục Tử tối cao của chúng ta trên trần gian. Thông điệp Laudato Si’ cho thấy ngài có một tầm nhìn rất quân bình, vừa rộng, vừa sâu, về đề tài này. Hình như trong cách trình bày tư tưởng của mình, ngài thích dùng những “cặp đôi” theo nghĩa biện chứng: hoặc là hai vế của cặp đôi tương phản và đối lập nhau, hoặc là liên kết và bổ túc lẫn nhau.

5. Cặp đôi cơ bản nhất trong tư duy của ĐGH Phanxicô là ngài nhìn “ngôi nhà chung của mọi người”, nghĩa là Trái Đất và loài người đang sống trong đó, bằng cả hai con mắt, tượng trưng cho hai “nhãn quan” hoặc hai “quan điểm”:

A. Nhìn bằng con mắt lý trí theo quan điểm xã hội học (bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật nói chung),

B. và bằng con mắt đức tin theo quan điểm thần học và linh đạo.

Cặp đôi cơ bản này mang tính liên kết, liên đới và bổ túc. Chúng ta cần coi trọng và giữ thăng bằng cả hai “nhãn quan” A+B đó. Và nói chung, mọi cặp đôi mang tính liên kết và bổ túc cần được sự quan tâm đồng đều dành cho cả hai vế, không nên để xảy ra tình trạng “bên trọng bên khinh”.

Cặp đôi cơ bản lý trí và đức tin bao trùm lên toàn bộ thông điệp, thì tất nhiên phải bao trùm lên những cặp đôi khác mang tính cục bộ, được ĐGH nhắc tới trong nội dung của văn kiện.

6. Có một cặp đôi cục bộ, nhưng rất lớn, mang tính đối lập và tương phản: A/1 # B/1:

A/1: Chủ thuyết hiện đại đặt con người làm trung tâm (modern anthropocentrism = anthropocentrisme moderne, số 115-121) bao gồm cả chủ nghĩa tương đối thực dụng (số 122), các công nghệ sinh học mới (sô130-136): đây là chủ thuyết nhân văn vô thần, một đề tài rất phức tạp.

B/1: Linh đạo sinh thái mang màu sắc chủ thuyết nhân văn Kitô giáo. Đề tài này cũng rất lớn, đối trọng với A/1. Chúng ta có thể đưa vào nội dung của linh đạo sinh thái toàn bộ chương Hai: Tin Mừng về sáng tạo (số 62-100) và toàn bộ chương Sáu: Giao dục và linh đạo sinh thái (số 202-246, NB: trong số 246 kết thúc thông điệp, ĐGH Phanxicô đề nghị hai lời kinh với nội dung đáng được coi như bản tóm tắt tầm nhìn của ngài trong thông điệp).

7. Nhưng cũng có những cặp đôi cục bộ mang tính liên kết và bổ túc:

7.1. Một cặp đôi lớn thuộc loại này là Khoa sinh thái học toàn diện (A/2), tự nó có giá trị tích cực, sẽ đạt được sự hoàn thiện trong “linh đạo sinh thái Kitô giáo” (B/2) – Nên lưu ý: B/2 đồng nhất với B/1.

A/2: Khoa Sinh thái học toàn diện gồm nhiều nội dung:

a) Khi đề cập “Sinh thái học toàn diện” (x. chương Bốn: số 137-162), ĐGH Phanxicô cung cấp một cái nhìn tổng hợp quân bình và tích cực về sinh hoạt của lý trí dưới các khía cạnh thiết yếu của khoa sinh thái học hiện đại: cụ thể là: (1) “sinh thái học môi trường”, (2) “sinh thái học kinh tế”, (3) “sinh thái học xã hội”, (4) “sinh thái học đời sống hằng ngày”; và trong các lĩnh vực đó, ngài muốn chúng ta đặc biệt lưu tâm tới nguyên tắc về thin ích chungđức công bằng giữa các thế hệ hiện tại và tương lai, nhưng khi nói tới người nghèo, thì phải ưu tiên hiểu người nghèo của hiện tại (x. số 162).

b) Khoa sinh thái học toàn diện đó sẽ được phát huy tối ưu, nếu mọi người ứng dụng sự đối thoại ở mọi cấp: quốc tế, quốc gia, địa phương; đối thoại giữa giới chính trị và giới kinh tế nhằm phục vụ sự sống, đặc biệt là sự sống con người; đối thoại giữa các tôn giáo và khoa học (x. chương Năm, số 163-201). Chương Năm này đúng là một chuyên luận về đề tài “Đối Thoại”.

B/2: Khoa linh đạo sinh thái Kitô giáo dưới ánh sáng đức tin vào Mạc Khải Kinh Thánh (x. chương Sáu, số 202-246) có khả năng kiện toàn hay hoàn thiện khoa sinh thái học toàn diện, kết quả của sinh hoạt lý trí (= A/2).

7.2. Một cặp đôi khác rất quan trọng mang tính xã hội học: Trái Đất và Người Nghèo là nạn nhân của các hoạt động phản sinh thái của loài người (x. số 2 của thông điệp):

A/3 = Trái Đất, “người Chị” của chúng ta, theo cách gọi của thánh Phanxicô, đang bị áp bức và hủy hoại;

B/3 = Người Nghèo đang bị bỏ rơi và đối xử tàn tệ.

Sự kết nối A/3+B/3 này là một chọn lựa độc đáo của ĐGH Phanxicô. Nó chạy xuyên suốt dọc chiều dài của thông điệp từ đầu đến cuối (x. Bài I).

7.3. Và có thêm những cặp đôi mang tính phương pháp luận:

A/4: tự giáo dục mình

B/4: để có thể giáo dục kẻ khác cách hữu hiệu.

A/5: nhận thức, hiểu biết

B/5: phải dẫn tới sự dấn thân hành động.

A/6: lời nói

B/6: phải dẫn tới việc làm.

A/7: Nhận thức và lập trình ở cấp cao (toàn cầu hay quốc gia, vùng miền)

B/7: phải được bắt đầu thi hành ở cấp địa phương (cá nhân, gia đình và cộng đồng địa phương: thôn xóm, làng xã…). Gia đình mang một tầm quan trọng đặc biệt (x. số 213).

Việc chăm sóc Trái Đất và Người Nghèo

A/8: phải đi từ những việc nhỏ

B/8: đến những công trình lớn (x. số 211-212…; 231).

Nhìn chung, khi thực hiện việc GIÁO DỤC SINH THÁI, mọi người, trong đó có các Kitô hữu và đặc biệt các Linh mục, cần quan tâm tới những cặp đôi như vừa nêu. Có ít nhất 9 cặp: bao quát và cục bộ, đối lập và liên kết, lớn và nhỏ.

Phần II: Chọn lựa ưu tiên

Đối với các Linh mục có nhiệm vụ GIÁO DỤC SINH THÁI, ngoài những cặp đôi mang tính phương pháp luận hoặc sư phạm (x. A/4+B/4; A/5+B/5; A/6+B/6; A/7+B/7 A/8+B/8), mà chỉ cần biết và xác tín về giá trị của chúng, chúng tôi thiển nghĩ các ngài nên đặc biệt đào sâu hai cặp đôi A/2+B/2 và A/3+B/3.

Mục 1: Về cặp đôi A/2+B/2

Cần tự mình nhận thức đúng mức và giúp kẻ khác (cụ thể là Dân Chúa) nhận thức đúng mức về nội dung và tầm quan trọng của khoa sinh thái học toàn diện (écologie intégrale).

(1) Sau đây chúng ta tìm hiểu việc giáo dục về nội dung của vế A/2 trong cặp đôi lớn này.

- Về sinh thái học môi trường (écologie environnementale: số 138…), người bình dân hôm nay biết và hiểu cụ thể là cần giữ môi trường gia đình, thôn xóm, làng xã…“XANH+SẠCH+ĐẸP”, chắc hẳn nhờ sự tuyên truyền và các khẩu hiệu được gắn ở những nơi công cộng. Nhiều giáo xứ, giáo điểm đã và đang có những kế hoạch hành động cụ thể theo chiều hướng này. Chỉ cần nhân rộng ra và gây ý thức cho dân chúng hiểu: đó là việc phải làm thường xuyên, chứ không chỉ là “phong trào” kéo dài it tháng để lập thành tích báo cáo lên cấp trên.

Còn vấn đề ô nhiễm môi trường (do các thứ rác thải, các hóa chất độc hại từ các nhà máy thải ra sông, biển –như vụ Formosa tai tiếng ở Miền Trung…– v.v…, dĩ nhiên thuộc trách nhiệm của công quyền cấp cao. Quả là một vấn đề to lớn, nhưng việc giáo dục dành cho cá nhân, gia đình và địa phương… vẫn cần thiết, với hy vọng rằng từ thế hệ trẻ hôm nay được giáo dục nghiêm túc về sinh thái, sẽ xuất hiện những người hữu trách trong hệ thống công quyền vừa có tầm vừa có tâm, để không sa chước cám dỗ hy sinh môi trường với ý đồ đạt lợi nhuận kinh tế cho riêng mình hoặc các nhóm lợi ich.

Cần cung cấp kiến thức và gây ý thức về hậu quả cực kỳ tại hại của hiện tượng làm ô nhiễm môi trường, khiến nhiệt độ Trái Đất tăng lên do “hiệu ứng nhà kính”. Hậu quả trực tiếp là sự biến đổi khí hậu. Song song đó, “việc sử dụng và lạm dụng một cách vô trách nhiệm những của cải do Thiên Chúa tặng ban” (x. số 2), như khai thác cát bừa bãi ở các dòng sông…, xây dựng quá nhiều đập thủy điện trên dòng sông Mêkông chẳng hạn…, kéo theo biết bao tai họa mà báo chí ở Việt Nam đưa tin hầu như hằng ngày. Hiện tượng biến đổi khí hậu đang de dọa tính mạng và tương lai của loài người, đến nỗi một nhà khoa học lỗi lạc như Stephen Hawking, một nhà vật lý lý thuyết “ngồi xe lăn” của Anh quốc, vừa lên tiếng cảnh báo: “Thế hệ tới sẽ cần phải chinh phục một hành tinh khác trong vòng một thế kỷ nữa nếu loài người muốn tiếp tục tồn tại” (theo Tuỏi Trẻ Online 04/05/2017). Hy vọng lời tiên tri báo họa này không ứng nghiệm đúng mặt chữ…, nhưng đáng cho mọi người suy ngẫm.

- Về sinh thái học kinh tế, việc giáo dục cần gây ý thức cho mọi người, nhất là giới doanh nhân, biết xây dựng một nền kinh tế “sạch”, không nhiễm bẩn bởi hiện tượng gian lận, tham nhũng, là hiện tượng được báo chí thường xuyên đề cập mà vẫn chưa thấy tình hình sáng sủa hơn…

- Giáo dục về sinh thái học xã hội và văn hóa thì lại càng phải nhắm tạo nên một xã hội với một nền văn hóa “sạch và đẹp”.

- Chương Bốn của Laudato Si’ cống hiến những suy nghĩ rất xác đáng về “thiện ich chung” (x. số 156-158) và “công bằng”: công bằng giữa các thế hệ, (x, số 159-162) và thiết thực hơn nữa, công bằng với tha nhân đang sống chung quanh ta trong hiện tại. Hai đề tài này gắn liền với nhau và chiếm một vị trí then chốt trong chương trình giáo dục sinh thái kinh tế và xã hội. Nói theo ngôn ngữ của khoa thần học luân lý Công giáo, việc giáo dục này phải nhắm xây dựng cho mỗi tín hữu một lương tâm ngay thẳng, trong sáng, bén nhạy, biết tôn trọng quyền lợi chính đáng của tha nhân và tôn trọng thiện ích chung. Một “nố” luân lý cụ thể đối với người công giáo của giáo phận Đalạt –và dĩ nhiên nhiều nơi khác cũng có những nố tương tự–, đó là hiện tượng mua khoai tây Trung Quốc giá rẻ –nhưng đã ngấm hóa chất độc hại…–, rồi dùng đất màu hồng Đàlạt bôi lên, mặc cho củ khoai tây Trung Quốc chiếc áo khoai tây Đà Lạt hấp dẫn để bán với giá khoai tây Đàlạt thứ thiệt có giá cao hơn.

Và biết bao “nố” lương tâm khác nữa, như dùng hóa chất tạo nạc trong chăn nuôi, dùng thuốc sâu độc hại cho sức khỏe con người trong việc trồng trọt…, với một lương tâm lệch lạc khi quyết định dùng các sản phẩm đó để bán cho người ngoài, còn gia đinh ta chỉ dùng thứ sản phẩm sạch đươc chăm sóc riêng.

Giáo dục đức công bằng và ý thức về thin ích chung đáng được chọn làm một đề tài thảo luận.

Đề tài “đối thoại” cũng rất quan trọng. Trong thực tế, khi Linh mục giáo dục Dân Chúa về đức công bằng và ý thức về thin ích chung cũng như những đề tài khác, thì đó là một khởi đầu thiết thực để học “nghệ thuật đối thoại”, mà điều cần học trước tiên là biết lắng nghe, và bàn hỏi, bởi lẽ “một trái tim biết lắng nghe” là một dấu hiệu của sự khôn ngoan, theo kinh nghiệm của vua Salomon (x. 1V 3,9-12).

(2) Giáo dục về vế B/2 của cặp đôi A/2+B/2

a) Giáo dục linh đạo sinh thái, là tiêu đề nói lên nội dung của chương Sáu (số 202-246). ĐGH Phanxicô dùng liên từ “”, mà chúng ta cần hiểu thấu chính xác. Sau đây là bản Latin chính thức và 5 bản dịch sinh ngữ hiện đại:

Latin: “Educatio et spiritalitas oecologica” (tính từ này ở số ít về phương diện văn phạm, nhưng cũng có thể hiểu theo số nhiều về phương diện logic để cho nó chi phối cả hai danh từ chứ không chỉ một danh từ đi sát phía trước nó mà thôi).

Ý: “Educazione e spiritualità ecologica (như Latin).

Pháp:“Éducation et spiritualité écologiques”(tính từ ở số nhiều, rõ ràng có giá trị cho cả hai danh từ đi trước!).

Đức: “Oekologische Erziehung und Spiritualität” (như Latin và cũng có thể như Pháp).

Anh: “Ecological Education and Spirituality” (như Latin và cũng có thể như Pháp).

Việt/Caritas: “Giáo dục linh đạo sinh thái” (như Anh).

Chúng tôi thiên về cách hiểu của bản dịch tiếng Pháp: hiểu tính từ Latin “oecologica” theo “acácord logique” (sự tương hợp giữa tính từ với cả hai danh từ đi trước nó dưới góc độ logic), chứ không theo “acácord purement grammatical” (sự tương hợp giữa tính từ với duy nhất danh từ đi sát trước nó dưới góc độ thuần túy văn phạm), và như thế tính từ “oecologica” cần được kết hợp với cả hai danh từ đi kèm (trước hoặc sau tính từ, tùy ngôn ngữ). Bản Pháp minh bạch hóa ý tưởng ngầm chứa trong cụm từ Latin của ĐGH: “Educatio et spiritalitas oecologica”.

Để diễn tả rõ ràng, chúng ta nên dịch tiêu đề chương Sáu như sau: “Giáo dc sinh thái và linh đo sinh thái” theo nghĩa chính xác là “việc giáo dục liên quan tới sinh thái nền linh đạo về (hoặc có liên quan tới) sinh thái”.

b) ĐGH Phanxicô đã dành trọn chương Bốn để triển khai “khoa sinh thái học toàn diện”, vậy thì nội dung của chương trình giáo dục sinh thái (trong chương Sáu) phải là “khoa sinh thái học toàn diện” đó, như đã mô tả tại mục 7.1 của Phần I trên đây, và vừa được triển khai cụ thể hơn tại mục 1 của Phần II này. Chính chữ cho thấy rõ ràng cặp đôi A/2+B/2 là một cặp đôi mang tính liên kết và bổ túc. Thật vây, chương trình giáo dục sinh thái toàn diện như sinh hoạt lành mạnh của lý trí cần được kiện toàn, hoàn thiện, và thăng hoa lên tầm cao nhất bởi linh đạo sinh thái Kitô giáo. Giáo dục “sinh thái toàn diện” là một chương trình mang đậm tính nhân văn, vì nó nhằm phát huy “óc sáng tạo có khả năng làm cho phẩm chất cao quý của con người nở hoa cách mới mẻ, bởi lẽ việc sử dụng trí thông minh, với sự táo bạo và tinh thần trách nhiệm, để tìm ra những phương thức phát triển bền vững và công bằng trong khuôn khổ của một quan niệm rộng lớn hơn về chất lượng cuộc sống, điều đó xứng đáng hơn với nhân phẩm. Ngược lại, việc kiên định tìm kiếm những cách cướp bóc thiên nhiên chỉ để có được những món hàng tiêu dùng mới và lợi nhuận nhanh chóng, thì quả là ít xứng đáng hơn, ít sáng tạo hơn và nông cạn hơn” (x. số 192).[2] Chương trình giáo dục sinh thái, tức giáo dục về sinh thái toàn diện như một dạng chủ thuyết nhân văn đáng trân trọng, thì, để thực sự mang tính toàn diện theo nghĩa sâu sắc nhất, chương trình giáo dục sinh thái đó cần được thấm nhập bởi linh đạo sinh thái Kitô giáo như men làm dậy bột (x. Mt 13,33). Như thế chữ “VÀ” không chỉ có nghĩa cọng thêm yếu tố thứ hai vào yếu tố thứ nhất ở bề mặt để tăng số lượng, nhưng là hòa nhập linh đạo sinh thái Kitô giáo vào bề sâu của sinh thái học toàn diện và của chương trình giáo dục về sinh thái học toàn diện, để nâng cao chất lượng của nó. Trong trường hợp này chữ “VÀ” biểu thị số lượng cọng với chất lượng, mà chất lượng thì luôn là tiêu chuẩn mang tính quyết định. Cũng theo hướng hiểu sâu ý nghĩa của chữ “VÀ”, chúng ta cần kết hợp chương Hai: “Tin Mừng về sáng tạo” (số 62-100) với chương Sáu bàn về giáo dục sinh thái và linh đạo sinh thái, để tạo ra nền linh đạo sinh thái Kitô giáo toàn diện. Điều này chắc chắn gia tăng tác dụng hữu hiệu của men linh đạo sinh thái Kitô giáo toàn diện để làm dậy bột nền sinh thái toàn diện.

c) Trong chương Hai, ĐGH đã lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho “sự phong phú mà các tôn giáo có thể đóng góp cho một nền sinh thái học toàn diện (an integral ecology = une écologie intrégrale) và cho sự phát triển toàn vẹn (a full developpment = un développement entier) của nhân loại” (x. số 62). Và ngài đặc biệt chỉ cho mọi người thấy sự cống hiến đc thù của Kitô giáo cho nỗ lực tìm kiếm giải pháp chăm sóc ngôi nhà chung của loài người, với ánh sáng đến từ đức tin (x. số 63-64) và từ s khôn ngoan của trình thut Kinh thánh về công trình tạo dựng (x. số 65-75), nhất là từ cái nhìn sâu sắc và nếp sống quân bình mẫu mc của Chúa Giêsu (x. số 96-100). Thật vậy, chính Chúa Giêsu dạy cho mọi người biết rằng Thiên Chúa Tạo Hóa là Cha của Người (Mt 11,25…), đồng thời là Cha giàu lòng thương xót của mọi người không phân biệt tốt xấu (x. Mt 5,44-48) và Cha của mọi loài thụ tạo mà Ngài không bỏ quên một vật nào (x. Lc 12,6), nhưng luôn ân cần chăm sóc và dưỡng nuôi chúng (x. Mt 6,26-30) - (x. số 96). Chúa Giêsu cũng sống hài hòa trọn vẹn với mọi thụ tạo: Người hoàn toàn xa lạ với những triết lý khinh thường thân xác, vật chất và những sự thuộc về thế giới này; Người làm lụng bằng đôi tay của một thợ mộc để sinh sống và phục vụ, và qua đó thánh hóa việc lao động của con người (x. số 98). Người thấm nhuần và hoàn thiện truyền thống Do thái giáo nhìn “tạo thành” không như “thiên nhiên” trung tính, lạnh lùng –đối tượng của phân tích khoa học và sự quản lý của con người–, nhưng là quà tặng từ cánh tay vươn ra của Thiên Chúa là Cha muôn loài và như một thực tại được soi sáng bởi tình yêu mời gọi chúng ta cùng nhau đi vào s hiệp thông hoàn vũ” (x. số 76).

d) Sự hiệp thông hoàn vũ được xây trên chân lý là “các thụ tạo tồn tại trong sự lệ thuộc vào nhau, để hoàn thiện lẫn nhau, phục vụ lẫn nhau” (trích GLHTCG số 340). Chính Thiên Chúa muốn như thế (x. Laudato Si’ số 86). Và khi nhận thức rằng ý muốn đó của Ngài được phản chiếu vào trong mọi sự đang hiện hữu, nghĩa là mọi thụ tạo phản chiếu hình ảnh của Ngài, thì trái tim chúng ta –những tín hữu– cảm nghiệm một ước muốn tôn thờ Chúa với muôn loài thụ tạo như thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả trong bài ca tuyệt đẹp: “Laudato sie, mi’ Signore… Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi…” (số 87).[3]

e) Một việc làm khác cũng đầy ý nghĩa là ĐGH đưa đề tài “của cải (là) để mưu ích cho mọi người” (số 93-95) vào trong chương Hai: “Tin Mừng về sáng tạo”, trong đó ngài triển khai những khía cạnh nổi bật như “mầu nhiệm vũ trụ”, “Sư hiệp thông hoàn vũ”, với nhân vật tiêu biểu là vị Thánh Nghèo thành Assisi. Việc làm này hoàn toàn hợp lý: hợp với ý muốn của chính Thiên Chúa, vì “Ngài đã tạo dựng nên thế giới cho mọi người”, và hợp với nhận thức chung của loài người hôm nay, dù là người có hay không có niềm tin tôn giáo, rằng “Trái Đất chủ yếu là một tài sản thừa kế chung (của mọi người)”. Do đó, “truyền thống Kitô giáo chưa bao giờ nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân là tuyệt đối hay bất khả xâm phạm (nghĩa là chỉ nhìn nhận quyền đó theo nghĩa tương đối), và đã từng nhấn mạnh đến mục đích xã hội của mọi hình thức sở hữu tư nhân” (x, số 93). ĐGH đi đến một lời khẳng định rất mạnh: “Môi trường thiên nhiên là một thiện ích chung, là gia sản của toàn thể nhân loại và trách nhiệm của mọi người. Khi ai sở hữu riêng một phần nào đó, thì chỉ để quản lý cho thiện ich chung của mọi người” (số 95). Trong chương trình giáo dục sinh thái toàn diện và thấm nhuần linh đạo sinh thái toàn diện, chắc hẳn cần gây ý thức cho Dân Chúa về điểm giáo huấn quan trọng này trong học thuyết xã hội của Giáo Hội Công Giáo.

f) Với những gì vừa trình bày cách tóm lược, chúng ta nên nhận thức thêm rằng: Vũ Trụ không chỉ là một sự vật, nhưng là một mầu nhiệm (huyền nhiệm = mysterium, x. số 76-83), mầu nhiệm của những mối tương quan chằng chịt cấu tạo nên từng sự vật và sinh vật, do đó không một cá thể sự vật hoặc sinh vật nào, ngay cả cá thể người, có thể hiện hữu đơn độc, bởi lẽ “trong vũ trụ này, được cấu tạo bởi những hệ thống mở và liên thông, chúng ta có thể phát hiện vô số các hình thức tương quan và sự thông phần” (x. số 79). Tuy nhiên, trong vũ trụ liên thông và liên đới đó, “mỗi thụ tạo đều có một mục đích riêng của nó, không có thụ tạo nào là dư thừa” (x. số 84). “Riêng con người, ngay cả khi người ta đưa ra giả định về quá trình tiến hóa, vẫn được hưởng một cái gì đó mới mẻ, không thể giải thích đầy đủ bởi sự tiến hóa của các hệ thống mở khác. Mỗi người chúng ta có căn tính riêng và có khả năng đi vào cuộc đối thoại với những người khác và với chính Thiên Chúa”. Các khả năng đa dạng của con người… chứng tỏ nó có một cái gì đó độc đáo, độc nhất vượt quá phạm vi vật lý và sinh học. Mỗi con người là một chủ thể, không bao giờ có thể giản lược xuống phạm trù vật thể (x. số 81). Tuy nhiên mục đích cuối cùng của các thụ tạo khác không phải là chúng ta, vì chúng đang tiến bước cùng với chúng ta và qua chúng ta, hướng về điểm tới chung là chính Thiên Chúa trong sự viên mãn siêu việt, nơi đó Đức Kitô Phục Sinh ôm lấy và chiếu sáng mọi sự. Hướng đi này của Vũ Trụ loại trừ mọi hình thức thống trị độc tài và vô trách nhiệm của con người trên các thụ tạo khác (x. số 83).

g) ĐGH Phanxicô dựa vào thư Côlôxê của thánh Phaolô để trình bày “Tin Mừng về sáng tạo” và “mầu nhiệm vũ trụtheo tầm nhìn Kitô trung tâm” (hoặc Kitô quy tâm: vision christocentrique) toàn vẹn, nghĩa là dưới cả góc độ công trình tạo dựng (x. Cl 1,16) và công trình cứu độ (x. Cl 1,19-20; xem thêm Laudato Si’ số 99-100 và Bài II của chúng tôi, Phần III, B: Phân tích bài thánh ca Cl 1,12-20 về Quyền Trưởng Tử của Đức Kitô).

-Dưới góc độ công trình tạo dựng, “định mệnh của tất cả mọi loài thụ tạo được tháp nhập với mầu nhiệm Đức Kitô ngay từ ban đầu (theo bản dịch của Caritas, nhưng câu Latinh là: totius creationis sors ex Christi mysterio pendet = định mệnh của tất cả mọi loài thụ tạo được treo từ mầu nhiệm Đức Kitô, nghĩa là tùy thuộc chặt chẽ vào mầu nhiệm Đức Kitô: “Vì trong Người muôn vật được tạo thành” (Cl 1,16) - (x. số 99).

-Dưới góc độ công trình cứu độ, “Thiên Chúa muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình, nhờ Máu Người đổ ra trên thập giá” (Cl 1,19-20) - (x. số 100). Ở đây ĐGH không chỉ nghĩ đến thập giá, mà còn đặc biệt nhấn mạnh sự hiện diện đầy vẻ uy linh của Đấng Phục Sinh với quyền chủ tể hoàn vũ đang bao phủ các loài thụ tạo cách nhiệm mầu và hướng chúng đến sự viên mãn như định mệnh tối hậu của chúng.

h) Mặc dù ĐGH không khai thác cách minh nhiên tước hiệu của Đức Kitô là “Trưởng Tử của muôn loài thụ tạo” trong Cl 1,15-16, nhưng tại số 228 ngài vẫn đề cập tới một “tình huynh đệ hoàn vũ = universalis fraternitas” theo nghĩa: mọi thụ tạo là anh chị em với nhau, vì tất cả là em của Trưởng Tử, tức Anh Cả Giêsu (xem Bài II của chúng tôi). Trước khi đề cập công trình tạo dựng và công trình cứu độ như là nền tảng kép của tình huynh đệ hoàn vũ này, ĐGH đã lấy cảm hứng từ toàn bộ Kinh Thánh, và đặc biệt từ Bài Ca Anh Mặt Trời của thánh Phanxicô, để suy niệm về “mầu nhiệm vũ trụ”(x. số 76-83), về “thông điệp của mỗi thụ tạo trong sự hài hòa (= harmonia) của toàn thể công trình sáng tạo” (x. số 84-88) và về “sự hiệp thông hoàn vũ” (x. số 89-92). Đây là những khía cạnh đặc trưng của “linh đạo sinh thái Kitô giáo” được trình bày trong chương Hai mà chúng ta cần liên kết với chương Sáu.

i) Chương Sáu nối dài và bổ túc chương Hai, theo nghĩa chương Sáu đưa nội dung chương Hai vào chương trình GIÁO DỤC sinh thái toàn diện, được trình bày chi tiết trong chương Bốn; và chương trình giáo dục đó phải thấm nhuần linh đạo sinh thái Kitô giáo. Nhưng để cho linh đạo sinh thái Kitô giáo toàn diện thấm nhập vào chương trình giáo dục sinh thái toàn diện, tất nhiên các nhà giáo dục cần lên chương trình giáo dục Dân Chúa VỀ linh đạo sinh thái Kitô giáo. Ở đây chúng tôi mạn phép dùng thêm chữ “VỀ”, sau khi cố gắng hiểu ý nghĩa của chữ “” được ĐGH sử dụng trong tiêu đề chương Sáu.

j) Trong chương quan trọng này, mục tiêu ngài nhắm đạt tới khi đề cập việc giáo dục sinh thái và linh đạo sinh thái là thiết lập một lối sống khác, một phong cách sống khác (aliam vitae formam instuere), bắt đầu bằng việc giúp nhận thức rằng mọi người có một nguồn gốc chung, mọi người thuộc về nhau và chia sẻ một tương lai chung, để từ đó phát triển những xác tín mới, những thái độ mới và những lối sống mới (x. số 202-208). Ngoài những gì đã triển khai trong chương Hai, ngài đặc biệt nhấn mạnh thêm ba đề tài cụ thể:

j/1. Đề tài 1: Giáo dục về giao ước giữa nhân loại và môi trường (x. số 209-215).[4] Ý niệm giao ước mang sắc thái Thánh Kinh và bao hàm một sự cam kết song phương với đòi hỏi phải có sự tương kính và lòng trung thành. Quan điểm Giáo dục phải giữ được sự thăng bằng giữa ý thức về “tính cách công dân sinh thái” (citoyenneté écologique),[5] nghĩa là “tính cách công dân Trái Đất”, và ý thức về “tính cách công dân Nước Trời”. Người Kitô hữu phải sống trọn vẹn hai tính cách đó, theo định hướng do Chúa Giêsu vạch ra khi tuyên bố: “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mc 12,17). Việc xây dựng tính cách công dân sinh thái cho người tín hữu đòi hỏi các nhà giáo dục phải soạn ra những lộ trình sư phạm dẫn tới một nền đạo đức sinh thái (une éthique écologique) có khả năng làm cho người tín hữu trưởng thành thực sự về tinh thần liên đới, tinh thần trách nhiệm và sự che chở đầy lòng trắc ẩn (dành cho Trái Đất) (x. số 210). Cụm từ “tính cách công dân Trái Đất = citoyenneté terrestre” đã có từ lâu. ĐGH Phanxicô tạo ra cụm từ mới “citoyenneté écologique” =“tính cách công dân sinh thái”, vì khoa học sinh thái (écologie) là một khái niệm mới xuất hiện trong thế kỷ XX, từ khi loài người bắt đầu đối diện với vấn đề bảo vệ môi trường và “chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta”.

-Khái niệm “tính cách công dân sinh thái” kéo theo mối bận tâm của các nhà giáo dục về nhiệm vụ khơi dậy và phát huy “tình yêu dân sự và chính trị” (x. số 228-232), nghĩa là những biểu hiện của tình người, tình đồng bào, tinh làng nghĩa xóm giữa những con người, với quyền tự do chọn lựa niềm tin tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau, nhưng vẫn kính trọng nhau trong tư cách con người và công dân bình đẳng. Tình yêu dân sự và chính trị đó được thể hiện nơi việc sống chung và hiệp thông với nhau trong cùng một môi trường thiên nhiên, mà mọi người có bổn phận bảo vệ và chăm sóc (x. số 228).

j/2. Đề tài 2: Tuy nhiên, khi ngỏ lời riêng với các Kitô hữu, ĐGH kêu gọi họ thực hiện “cuộc hoán cải sinh thái = conversion écologique” (x. số 216-221). Ở đây chúng ta gặp lại cách suy tư của ngài theo cặp đôi liên kết và bổ túc. Thật vây, ý thức về tính cách công dân sinh thái được kiện toàn và hoàn thiện bởi ý thức về tính cách công dân Nước Trời hoặc con cái Thiên Chúa. Trên bình diện thứ hai này, người Kitô hữu, ngoài cuộc hoán cải theo nghĩa truyền thống cổ kính là thay đổi cách suy nghĩ, cách cảm nhận và cách sống (metanoia bên tiếng Hy Lạp), quay lưng cho con người cũ bị chi phối bởi xu hướng ích kỷ, quy ngã, để tin vào Phúc Âm và, dựa vào sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh (x. Gl 5,25), bước theo dấu chân Chúa Kitô đến với Thiên Chúa là Cha và đến với mọi người là anh em, thì còn phải thực hiện một cuộc hoán cải mới nữa, được mệnh danh từ thời ĐGH Gioan Phaolô II, là “cuộc hoán cải sinh thái” (x. số 5).

j/2.1. Giáo huấn của ĐGH Phanxicô về cuộc hoán cải sinh thái chỉ lôi ra ánh sáng một vài yếu tố đã có sẵn trong giáo huấn và cách sống của Đức Kitô làm nên linh đạo Kitô giáo, nhưng bị một số người lãng quên hoặc coi thường (x. số 217). Khi đề cập linh đạo Kitô giáo, chúng ta đừng nói về những ý tưởng, nhưng hãy nói về những động lực phát sinh từ linh đạo đó để nuôi dưỡng niềm đam mê bảo vệ thế giới. Chúng ta không thể dấn thân vào những chuyện lớn chỉ bằng những học thuyết, mà thiếu vắng một nền thần bí (une mystique) làm chất xúc tác linh hoạt chúng ta, thiếu vắng những động lực nội tâm thúc đẩy cá nhân và cộng đoàn hành động, cùng động viên, khích lệ và mang lại ý nghĩa cho các hoạt động đó (x, số 216).[6]

Vậy “nền thần bí sinh thái” (cụm từ này không có trong văn bản của ĐGH, nhưng do chúng tôi tạo ra, và sẽ giải thích sau) đòi hỏi phải có “cuộc hoán cải sinh thái” với những đặc điểm sau đây:

j/2.2. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta “làm người bảo vệ công trình tay Người dựng nên” (x, số 217). ‒Tại số 67 của thông điệp, ĐGH đã dựa vào St 1,28 và St 2,15 để làm rõ ơn gọi đó. Xem chú thích 4 trong Bài I của chúng tôi)‒. Vậy việc sống ơn gọi đó phải được coi là mt yếu tố thiết yếu của đời sống nhân đức, chứ không phải là một chọn lựa hay một khía cạnh thứ yếu của kinh nghiệm Kitô giáo (x. số 217). Làm cuộc hoán cải sinh thái có nghĩa là: ra khỏi thái độ coi thường mối bận tâm về môi trường, để đi vào linh đo mà Chúa Kitô đã sống và truyền đt cho các môn đ trong Phúc Âm là linh đo không hề tách lìa chúng ta khỏi thân xác chúng ta, hoc khỏi thiên nhiên và các thc ti của thế giới. Mối tương quan lành mạnh với tạo thành là một chiều kích của cuc hoán cải cá nhân toàn din (x, số 218). Nói cách khác: chăm sóc Trái Đất, ngôi nhà chung của chúng ta, là một yếu tố không thể thiếu của ơn gọi Kitô hữu.

j/2.3. Cuộc hoán cải sinh thái diễn ra trong đời sống cá nhân phải trở thành một cuộc hoán cải cng đồng mới có khả nặng tạo ra sự thay đổi lâu dài trong cái nhìn và thái độ sống của loài người đối với môi trường. Điều này đối trọng lại với hiện tượng tiêu cực là: xu hướng ích kỷ cá nhân sẽ tạo ra “tình trng ích kỷ tp thể” (x. số 204).

Vậy “hoán cải sinh thái”, ở cấp độ cá nhân cũng như cộng đồng, có nghĩa là trở vể với Trái Đất bằng một nhn thức mới về ơn gi bảo v và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta như Thiên Chúa muốn.

Cuộc hoán cải sinh thái là một đề tài tương đối mới. ĐGH Phanxicô không những tiếp nối giáo huấn của các Giáo Hoàng hậu Vaticanô II, nhất là Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mà còn trich dẫn cách trân trọng những lời phát biểu mạnh mẽ của Đức Thượng Phụ Chính Thống Giáo Bartolomaios, đặc biệt ý tưởng sau đây: mọi hành động xâm phạm tới Trái Đất, công trình của Thiên Chúa, đều là tội lỗi, là tội ác vừa chống lại loài người, vừa chống lại chính Thiên Chúa; thế nên kẻ phạm tội phải sám hối (x. số 8). Trong thư đề ngày 6-8-2015 gửi hai ĐHY Peter Turkson và Kurt Koch, về việc thiết lập ngày cầu nguyện cho sự chăm sóc thiên nhiên (ngày 1 tháng 9 hằng năm), ĐGH nhắc tới việc chúng ta phải “cầu xin Thiên Chúa thương xót chúng ta vì những tội chúng ta đã phạm chống lại thế giới trong đó chúng ta đang sống”.

Một đề tài đáng được chọn để thảo luận giũa các Linh mục là: Chúng ta phải hiểu thế nào là tội chống lại Trái Đất, và giải thích thế nào cho giáo dân hiểu, để xưng tội.

j/3. Đề tài 3: “Không thể thiếu mt nền thần bí”.

ĐGH Phanxicô đã tuyên bố mạnh mẽ như thế tại số 216 của thông điệp, khi bàn về “cuộc hoán cải sinh thái”. Chúng tôi dựa vào những lời sau đây của ngài để chứng minh rằng ngài vun đắp cho mình mt đời sống thần bí mang màu sắc sinh thái theo nghĩa một dạng đặc biệt của nền linh đạo sinh thái, và mời gọi mọi tín hữu cũng đi vào hướng sống đó.

j/3.1. Trong tiêu đề chương Sáu, ngài dùng cụm từ “linh đạo sinh thái” và nhắc lại một lần nữa tại số 216, trong đó ngài đề cập tới “linh đạo Kitô giáo”. Theo ngữ cảnh, “linh đạo sinh thái” là một khía cạnh hay một bộ phận của “linh đạo Kitô giáo”. Và khi “linh đạo sinh thái” đạt tới một cường độ vừa cao vừa sâu đến mức “làm phát sinh những động lực nuôi dưỡng niềm đam mê bảo vệ thế giới”, thì ngài nói tới sự cần thiết của “mt nền thần bí” (une mystique) có khả năng “linh hoạt chúng ta”, và cũng theo ngữ cảnh, dường như ngài đồng hóa “nền thần bí” ấy với “những động lực nội tâm có khả năng thúc đẩy, cung cấp lý lẽ, khích lệ và mang lại ý nghĩa cho hoạt động cá nhân và cộng đoàn của chúng ta (nhằm chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta)”. Vì đặc điểm nổi bật của “nền thần bí” ấy là nó đồng nghĩa với “động lực nuôi dưỡng niềm đam mê bảo v thế giới ”, nên chúng tôi mạo muội đặt cho nó cái tên “nền thần bí sinh thái”, mặc dù ĐGH không trực tiếp dùng cụm từ này.

j/3.2. Ngoài ra, khi đắc cử Giám mục Rôma, ngài chọn tông hiệu Phanxicô “như một sự hướng dẫn và gợi hứng cho mình” và coi Vị Thánh Nghèo thành Assisi “như một gương mẫu tuyt diu về vic bảo v những gì yếu ớt và về mt nền sinh thái toàn din được thực hành trong cuộc sống một cách vui tươi và chân thực” (x. số 10). Ngài cũng gọi thánh Phanxicô là “mt nhà thần bí (un mystique) và một người lữ hành giản dị, hòa hợp trọn vẹn với Thiên Chúa, với người khác, với thiên nhiên và với chính bản thân mình” (x. số 10).

Vậy thì, không có gì sai lầm hay lạ lẫm, khi kết luận rằng ĐGH Phanxicô muốn tiếp nối nền thần bí sinh thái của nhà thần bí gốc Assisi.

j/3.3. Nhưng điều quan trọng và mang tính thuyết phục hơn, chính là những gì ngài viết trong phần cuối của chương Sáu.

- Khi đề cập “Niềm vui và bình an” (số 222-227), ngài nhìn vào đề tài lớn “linh đạo Kitô giáo”. Linh đạo này khích lệ một lối sống mang tính ngôn sứ và chiêm nim như một cách hiểu “phẩm chất đời sống” rất khác với quan niệm của những người bị ám ảnh bới xu hướng tiêu thụ và hưởng lạc tối đa (x. số 222).

- Một nếp sống giản d, tiết đ và khiêm tốn mang lại một sự giải thoát, mở cửa cho niềm vui và sự bình an đi vào ni tâm. Nếp sống này hoàn toàn phản nghĩa với thái độ kiêu căng, tự cho mình là người sở hữu và làm chủ trái đất mà minh được phép hủy hoại, bằng việc sử dụng và lạm dụng một cách vô trách nhiệm những của cải do Thiên Chúa tặng ban (x. số 2), để hưởng thụ một cách ích kỷ.

- Vì thế sự bình an nội tâm không những có liên hệ gần gũi với việc chăm sóc sinh thái và thin ích chung, mà còn tạo tâm thế thuận lợi cho sự suy tư về lối sống và lý tưởng của chúng ta, nhất là cho việc chiêm ngưỡng Đấng To Hóa đang sống giữa chúng ta và xung quanh chúng ta (x. số 223-225). Chính Chúa Giêsu là gương mẫu và thầy dạy của chúng ta về thái độ chiêm ngưỡng Chúa Cha với tâm tình tri ân cảm tạ và nhìn tha nhân với lòng trìu mến (x. số 226-227).

Tất cả những điểm nhấn trên đây trong “linh đạo Kitô giáo” lại càng sâu đậm trong “nền thần bí sinh thái Kitô giáo”.

- Chiều kích chiêm niệm của kinh nghiệm Kitô giáo (một tên gọi khác của “linh đạo Kitô giáo”) được ĐGH Phanxicô triển khai đậm nét hơn nữa trong mục VI (số 233-237): “Các dấu chỉ bí tích và sự nghỉ ngơi để cử hành lễ hội” (= “signa sacramentorum celebrationisque requies”), và mục VI (số 238-340): “Thiên Chúa Ba Ngôi và mối tương quan giữa các thụ tạo” (= “Trinitas et necessitudo inter creaturas”). Nội dung của hai mục rất súc tích này cho thấy rõ tầm nhìn thần bí (vision mystique) của ĐGH Phanxicô. Chắc chắn ngài hiểu “đời sống thần bí” theo nghĩa được sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo trinh bày tại số 2014.

- Chính số 2014 của sách GLHTCG đã định nghĩa cách đơn giản rằng: sự kết hợp ngày càng mật thiết hơn với Đức Kitô được gọi là sự kết hợp (mang tính chất) thần bí” (unio “mystica”), và giải thích tính từ “thần bí” (= mystica) này bằng cách quy chiếu nó về danh từ mysterium” (mầu nhiệm) theo ba bước: (1) nhờcác mầu nhiệm thánh (sancta mysteria”) tức “các bí tích (sacramenta)” –nghĩa là bằng việc cử hành hoặc lãnh nhận các bí tích trong Hội Thánh–, (2) chúng ta thông dự vào “mầu nhiệm Đức Kitô (mysterium Christi)” –nghĩa là kết hợp ngày càng mật thiết hơn với Người–, và (3) trong Người chúng ta thông dự vào mầu nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh (Sanctissimae Trinitatis mysterium)”. Ba bước này làm thành con đường nên thánh hoặc ơn gọi nên thánh chung của mọi Kitô hữu. GLHTCG số 2014 nói rõ: Một số người nào đó, khi sống đời sống thần bí theo nghĩa cơ bản và thông thường như vừa mô tả, lại được Thiên Chúa ban thêm cho một số đặc sủng hoặc những dấu chỉ ngoại thường,[7] với mục đích duy nhất là biểu lộ tính nhưng không của hồng ân do Thiên Chúa ban cho mọi người. Vậy cụm từ “con người thần bí” hoặc “nhà thần bí” (homo mysticus) trong một câu do ĐGH Phanxicô trích từ tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá (tại số 234 của Laudato Si’) không nhất thiết chỉ dành riêng để gọi những vị thánh được những ơn ngoại thường nào đó, nhưng có thể được dùng để chỉ mọi tín hữu đang cố gắng sống đời sống thần bí theo nghĩa thông thường, tức là đời sống thiêng liêng của mình một cách xác tín và say mê.[8]

- ĐGH Phanxicô triển khai bước thứ nhất và bước thứ hai trong đời sống thần bí của người Kitô hữu bằng những lời cô đọng, sâu sắc, nhưng trực tiếp quy chiếu về linh đạo sinh thái.

(1) Các bí tích là một cách thế ưu việt được Thiên Chúa dùng để đảm nhận thiên nhiên và biến đổi thiên nhiên thành phương tiện trung gian thông chuyển sự sống siêu nhiên”. “Nước, dầu, lửa và các sắc màu, với tất cả sức mạnh biểu tượng của chúng, được đảm nhận và tháp nhập vào lời ngợi khen (dâng lên Thiên Chúa)” (x. số 235).

(2) Tất cả mọi thụ tạo của vũ trụ vật chất được thăng hoa và tìm thấy ý nghĩa đích thực trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (x, số 235).

(3) Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể mọi thụ tạo được siêu thăng tới đỉnh điểm, và khi hiệp nhất với Con Thiên Chúa Nhập Thể hiện diện trong bí tích này, toàn thể vũ trụ dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Quả thật Hy Lễ Tạ Ơn là hành động của vũ trụ bày tỏ tình yêu dành cho Thiên Chúa. Trong Bánh Thánh Thể, toàn thể tạo thành hướng về sự thần hóa, hướng đến tiệc cưới thánh, hướng đến sự hiệp nhất với Đấng Tạo Hóa” (x. số 236).

(4) Trong đời sống thiêng liêng của Kitô hữu, ngày Chúa Nhật, một phiên bản mới và sự kiện toàn của ngày Sabat Do thái giáo, mang ý nghĩa là ngày chữa lành các mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, với chính mình, với người khác và với thế giới, và là ngày kết hợp sự nghỉ ngơi với việc cử hành lễ hội, một cách thế nhẹ nhàng nhưng hữu hiệu phòng ngừa chúng ta khỏi rơi vào chủ nghĩa duy động và ham làm giàu một cách mù quáng (x. số 237).

- Bước thứ ba trong đời sống thần bí theo GLHTCG số 2014 được ĐGH Phanxicô trình bày như một bài suy niệm ngắn tại các số 238-240: “Trong Đức Kitô chúng ta thông dự vào mầu nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh”, nhưng ở đây ngài nới rộng tầm nhìn để bao trùm toàn thể các thụ tạo trong vũ trụ, chứ không chỉ nhắm vào loài người mà thôi.

(1) Thế giới được tác tạo bởi Ba Ngôi hành động như một nguyên lý thánh thiêng duy nhất, nhưng mỗi ngôi vị thực hiện công việc chung này theo đặc tính riêng biệt. Do đó khi chúng ta chiêm ngắm vũ trụ vĩ đại và tươi đẹp, chúng ta phải ngợi khen cả Ba Ngôi Thiên Chúa (x. số 238).

(2) ĐGH trích dẫn hai nhà thần học lớn của thời Trung Đại: thánh Bonaventura và thánh Tôma Aquinô thuộc thế hệ tiếp theo sau thánh Phanxicô để chỉ cho mọi người thấy: “Mỗi thụ tạo đều mang trong mình cấu trúc theo khuôn mẫu Ba Ngôi”. Theo như vị thánh tiến sĩ của Dòng Phan Sinh[9] khẳng định, thì: “Trước khi phạm tội, con người có khả năng khám phá ra cách mỗi thụ tạo minh chứng Thiên Chúa là Ba Ngôi”. Nghĩa là (con người) có thể nhận ra dấu vết của Ba Ngôi trong thiên nhiên “khi cuốn sách đó chưa trở thánh lu mờ và đôi mắt chúng ta chưa ra tối tăm”. Qua đó, thánh nhân thách đố chúng ta phải đọc thực tại dưới ánh sáng của Ba Ngôi (x. số 239).

Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô của Dòng Đa Minh thì nhấn mạnh các mối tương quan giữa Ba Ngôi thần linh như là mẫu mực cho các mối tương quan giữa các thụ tạo[10]. Vì được tạo dựng theo mẫu mực thần linh, nên thế giới là một mạng lưới các mối tương quan. Mọi sự đều có liên hệ với nhau, và điều này mời gọi chúng ta phát huy nền linh đạo về tình liên đới toàn cầu phát sinh từ mầu nhim Thiên Chúa Ba Ngôi (x. số 240).

Tóm lại, “tầm nhìn thần bí sinh thái (vision mystique écologique)” của ĐGH Phanxicô được xây trên mối liên hệ ngữ nghĩa giữa “(vita) mystica = đời sống thần bí, thần hiệp hay nhiệm hiệp” với “mysterium = mầu nhiệm (cụ thể là mầu nhiệm Đức Kitô và mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh”), và “mysteria = các bí tích”, theo cách hiểu của sách GLHTCG số 2014. Để thấy mối liện hệ giữa nền thần bí (mystica), mà ĐGH Phanxicô hiểu theo hướng của GLHTCG số 2014, với linh đạo sinh thái, và sự hiệp thông hoàn vũ…, chúng ta nên chú ý tới sự kiện ngài sử dụng nhiều lần cụm từ “ Mầu nhiệm Vũ Trụ” (Mysterium Universi ” (đó là tiêu đề của Mục III trong chương Hai, gồm các số 76-83; rồi tại số 243…). Hình như đây là kiểu nói của riêng ngài, trong lúc sách GLHTCG dùng cụm từ đồng nghĩa “Mysterium creationis = Mầu nhiệm công trình tạo dựng”(x. số 287; 295-301).

Mục 2: Về cặp đôi A/3+B/3

Tiếp theo là cặp đôi được ĐGH đặc biệt chú ý và nêu bật ngay trong phần mở đầu và phần kết thúc thông điệp như một thủ vĩ ngâm: Chị Đất và Người Nghèo đang bị đối xử tàn tệ… (x. số 2…, và 246 với hai lời kinh kết thúc). Trong Bài I, chúng tôi đã trình bày khá rõ cặp đôi này. Ở đây chỉ cần nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng để hiểu đúng ý tưởng chủ đạo trong Laudato Si’ và đưa thông điệp này vào cuộc sống cho đúng với ý ĐGH, thì trong việc giáo dục Dân Chúa về cách sống linh đạo sinh thái, chúng ta phải luôn luôn liên kết việc chăm sóc ngôi nhà chung là Chị-Mẹ Đất với việc chăm sóc Người Nghèo dưới nhiều dạng thức khác nhau. Không chỉ gìn giữ Trái Đất theo nghĩa “địa lý” và “vật lý” là môi trường quanh ta XANH+SẠCH+ĐẸP, mà đồng thời phải bảo vệ phẩm giá và quyền lợi của mọi người nghèo đang sống giữa và quanh chúng ta. Đối với cặp đôi này là nạn nhân của sự đối xử tàn tệ, ĐGH kêu gọi mọi người dấn thân liên lỉ vào cuộc chiến đấu cho công lý, tình yêu và hòa bình. Ưu tiên là chiến đấu cho công lý để trả lại và bảo vệ những quyền lợi chính đáng cho Chị-Mẹ Đất và cho Người Nghèo, đang kêu gào trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa nữa.

Một việc làm mang ý nghĩa tiêu biểu là: Sau khi thiết lập ngày thế giới cầu nguyện cho việc chăm sóc Trái Đất (ngày 1/9 hằng năm), mới đây ĐGH quyết định chọn ngày Chúa Nhật XXXIII thường niên của Năm Phụng Vụ làm Ngày thế giới của Người Nghèo (x. Tông thư Misericordia et misera (lòng thương xót của Thiên Chúa và tình trạng bần khốn của con người), ngày 20-11/2016, số 21). Đúng là một cặp đôi được ngài quan tâm đặc biệt, và hai quyết định vừa nêu là một cách thiết thực ngài đưa Laudato Si’ vào đời sống của Giáo Hội, dĩ nhiên quyết định thứ hai cũng có thể được coi là kết quả của Năm Thánh ngọai thường về Lòng Thương Xót.

 

 

Kết luận

Chương trình giáo dục sinh thái toàn diện dành cho các Kitô hữu

a) khởi đi từ việc gây ý thức và thúc đẩy mọi người dấn thân hành động nhằm chăm sóc và bảo vệ Trái Đất là ngôi nhà chung hiện nay của chúng ta sao cho XANH+SẠCH+ĐẸP, nhìn dưới góc độ địa lý và vật lý;

b) việc này phải diễn ra song song với cuộc chiến đấu cho công lý, tình yêu và hòa bình nhằm gia tăng chất lượng cuộc sống của loài người, đặc biệt các người nghèo, đang sống trong ngôi nhà chung đó, nhìn dưới góc độ xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa…;

c) hai khía cạnh then chốt ấy của đời sống loài người được ĐGH Phanxicô đưa vào chiều sâu bằng cách dùng linh đạo sinh thái Kitô giáo, với nét tinh hoa là “nền thần bí sinh thái” mà ngài nói “không thể thiếu” trong Giáo Hội,[11] như chất men thiêng liêng linh hoạt mọi sinh hoạt nhân bản của các tín hữu, là công dân của Trái Đất mang tính cách công dân sinh thái, để từng bước biến họ thành công dân Nước Trời. Theo ngài, cuối cùng chính linh đạo sinh thái Kitô giáo đặt chúng ta, những công dân Nước Trời, “đối diện với vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, và chúng ta có thể đọc được mầu nhiệm của vũ trụ với sự ngưỡng mộ mang lại niềm vui, bởi lẽ vũ trụ này sẽ cùng thông dự với chúng ta vào sự viên mãn bất tận. Còn bây giờ chúng ta đang trên hành trình tiến về ngày Sabat vĩnh cửu, về thành Giêrusalem mới, về ngôi nhà chung của chúng ta trên Thiên Quốc” (x. số 243).

Một chương trình giáo dục sinh thái Kitô giáo, để mang tính toàn diện đúng nghĩa, phải biết hướng con mắt tín hữu nhìn lên “ngôi nhà chung trên Thiên Quốc” đó nữa.

Phụ Trương 1

Sau đây chúng tôi thử dựa trên bản Latin dịch lại thật sát hai lời kinh cầu nguyện do ĐGH Phanxicô đề nghị ở cuối thông điệp (số 246).

(Chúng tôi mạn phép gạch dưới những câu trong đó ĐGH nhắc tới cặp đôi nạn nhân “Người Nghèo và Trái Đất”, Người Nghèo trước, Trái Đất sau, trong cả hai bài Kinh mà chúng tôi đánh ký hiệu A và B. Cuộc “chiến đấu cho công lý…” là nhằm bảo vệ quyền lợi cho cặp đôi này).

A.- Lời Cầu Nguyện Cho Trái Đất Của Chúng Ta

(có thể chia sẻ với tất cả những ai tin vào Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa Toàn Năng)

Lạy Thiên Chúa Toàn Năng,

Chúa hiện diện trong toàn cõi vũ trụ

và cả trong thụ tạo nhỏ bé nhất của Chúa,

Chúa dịu dàng ôm ấp tất cả mọi loài hiện hữu,

xin đổ xuống trên chúng con sức mạnh tình yêu của Chúa

để chúng con có thể chăm sóc sự sống và vẻ đẹp (của muôn loài).

Xin làm cho sự bình an ngập tràn chúng con,

để chúng con sống với nhau như anh em, chị em

mà không làm hại một ai.

Lạy Thiên Chúa của người nghèo,

xin giúp chúng con biết cứu vớt

những người bị bỏ rơi và bị quên lãng trên trái đất này

họ thật quý giá trước mặt Chúa.

Xin chữa lành đời sống chúng con

để chúng con bảo v chứ không cướp bóc thế giới,

để chúng con gieo trồng vẻ đẹp

chứ không gieo rắc sự ô nhiễm và hủy hoi.

Xin chạm đến trái tim

những người chỉ biết tìm lợi ich cho mình

mà lại gây hại cho người nghèo và trái đất.

Xin dạy chúng con khám phá giá trị của từng sự vật,

chiêm ngưỡng với thái độ thán phục,

xin dạy chúng con nhận biết mình được liên kết sâu sắc với mọi loài thụ tạo

trên con đường tiến về ánh sáng vô biên của Chúa.

Chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa hằng hiện diện với chúng con mỗi ngày.

Chúng con cầu xin Chúa nâng đỡ chúng con

trong cuộc chiến đấu cho công lý, tình yêu và hòa bình.

B.- Lời cầu nguyện của Kitô hữu trong sự hiệp nhất với các thụ tạo

(để chúng ta là Kitô hữu biết đảm nhận những nhiệm vụ phải chu toàn đối với công trình tạo dựng do Phúc Âm của Chúa Giêsu đề xướng – Vì nhận ra bố cục bài kinh này gồm 4 khúc với khoảng cách lớn giữa các khúc, nên chúng tôi mạn phép thêm một gạch nhỏ đầu mỗi khúc).

-Lạy Cha, chúng con ngợi khen Cha cùng với muôn loài thụ tạo,

mà Cha đã dựng nên bằng đôi tay quyền năng của Cha.                

Chúng thuộc về Cha

và mang đầy sự hiện diện và sự dịu dàng của Cha.   

Chúng con ngợi khen Cha (Laudato Si’)!

-Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,

nhờ Chúa mà muôn vật được tác tạo.

Chúa được hình thành trong cung lòng từ mẫu của Đức Maria,

Chúa trở nên một phần của trái đất này,

Chúa chăm chú nhìn ngắm thế giới này bằng cặp mắt người phàm.

Hôm nay Chúa vẫn sống động trong mỗi thụ tạo

với vinh quang của Chúa là Đấng Đã Phục Sinh.

Chúng con ngợi khen Chúa (Laudato Si’)!

-Lạy Chúa Thánh Thần, nhờ ánh sáng của Chúa

Chúa điều khiển thế giới này hướng về tình yêu Chúa Cha

và đồng hành với tiếng rên siết của tạo thành,

Chúa cũng đang sống trong trái tim chúng con

để thúc đẩy chúng con làm điều thiện.

Chúng con ngợi khen Chúa (Laudato Si’)!

-Lạy Chúa là Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi,

cộng đoàn tuyệt diệu của tình yêu vô biên,

xin dạy chúng con chiêm ngắm Ngài

trong vẻ đẹp của vũ trụ,

trong đó mọi sự đều nói với chúng con về Ngài.

Xin khơi lên trong chúng con lời ngợi khen và lòng tri ân cảm tạ

vì tất cả mọi sự Ngài đã dựng nên.

Xin ban ân sủng cho chúng con, để chúng con

cảm nhận được rằng chúng con được liên kết mật thiết với mọi loài đang hiện hữu.

Lạy Thiên Chúa tình yêu,

xin chỉ cho chúng con thấy vị trí của chúng con trong thế giới này

như là khí cụ chuyển trao tình yêu âu yếm của Ngài

cho tất cả mọi thụ tạo trên trái đất,

vì không một thụ tạo nào bị lãng quên trong ánh mắt của Ngài.

Xin soi sáng cho những ai đang làm chủ quyền lực và tiền bạc

để họ tránh cái tội vô tâm,

để họ coi trọng thiện ích chung, thăng tiến người yếu đuối [12]

và chăm sóc thế giới mà chúng con đang sống.

Người nghèo và trái đất đang kêu gào:

Lạy Chúa, xin dùng quyền năng và ánh sáng của Chúa mà đón nhận lấy chúng con,

để bảo vệ mọi sự sống,

để chuẩn bị một tương lai tốt đẹp hơn,

để vương quốc của Chúa trị đến,

vương quốc của công lý, hòa bình, tình yêu và vẻ đẹp.

Chúng con ngợi khen Chúa (Laudato Si’)! Amen.

Phụ trương 2

Những gì chúng tôi đã trình bày tại điểm j/3, Đề tài 3: “Không thể thiếu mt nền thần bí”, cho thấy ĐGH Phanxicô rất coi trọng nền thần bí, hiểu theo nghĩa “đời sống thần bí” như được giải thích trong sách GLHTCG số 2014. Thế mà bản dịch của Caritas VN đã phớt lờ đề tài này, thậm chí hiểu sai nghiêm trọng tư tưởng của ĐGH.

1. Thật vậy, tại số 216, câu sau đây: Nam haud possibile erit magnis rebus operam dare tantum quasdam per doctrinas, absque mystica quae nos animet, absque ‘interioribus motibus qui impellunt, dant rationem, animum addunt et sensum praebent personali et communi actioni’”, đã được phiên dịch như sau: “Sự dấn thân cao cả này không thể được duy trì bởi học thuyết mà không có nền linh đạo gợi hứng, một ‘động lực nội tâm khích lệ, động viên, nuôi dưỡng và mang lại ý nghĩa cho hoạt động cá nhân và cộng đoàn của chúng ta’”.

Đáng tiếc là bản dịch của Caritas VN, vì theo sát bản Anh, nên đã tránh từ “thần bí” (mystica = une mystique) và thay thế bằng cụm từ mt nền linh đo gợi hứng = a spirituality capable of inspiring us. Cách làm này của bản Anh và bản Việt không phải là một sai lầm nghiêm trọng, nhưng có thể hiểu như một cách giảm nhẹ nghĩa của từ mystica trong nguyên bản Latin, mà các bản Ý, Tây Ban Nha, Pháp và Đức đã dịch rất sát. Phải chăng cố tình giảm nhẹ như thế là do có thành kiến tiêu cực hoặc mặc cảm đối với đề tài “đời sống thấn bí”?

2. Một sai lầm nghiêm trọng hơn đã xảy ra với câu đầu tiên của số 78 trong bản Việt của Caritas VN. Nguyên bản Latin của câu đó: “Eodem tempore mythicam rationem de natura detraxit Iudaica christiana schola” đã được phiên dịch như sau: “Đồng thời, tư tưởng Do Thái-Kitô giáo giảm bớt đi chiều kích thần bí của thiên nhiên”. Các dịch giả đã nhầm lẫn “mythicam” với “mysticam” – chỉ hơn thua nhau một chữ “s”, nhưng ngữ nghĩa của hai từ ấy thì cách xa nhau một trời một vực! “Mythicam rationem” là “chiều kích huyền thoại” với nghĩa bị Giáo Hội Công Giáo đánh giá tiêu cực, còn “mysticam rationem” là “chiều kích thần bí hoặc thần hip, nhim hipđược chính ĐGH Phanxicô đánh giá rất tích cực theo đúng hướng của sách GLHTCG (số 2014).

Bản Việt của Caritas VN phạm lỗi nhầm lẫn như thế, trong lúc bản Anh đã dịch rất đúng câu Latin đó: “At the same time, Judaeo-Christian thought demythologized nature”, giống như bản Ý (“il pensiero ebraico-cristiano ha demitizzato la natura”) và bản Đức (“Zugleich entmythologisierte das jüdisch-christliche Denken die Natur”). Điều này chứng tỏ họ cũng không trung thành với bản Anh mà họ đã chọn làm bản gốc! Về chi tiết đang bàn, bản Pháp cũng nhầm lẫn như bản Việt của Caritas: “En même temps, la pensée judéo-chrétienne a démystifié la nature”, đang lý phải dịch là “a démythifié la nature ” (nhưng hình như động từ tiếng Pháp “mystifier” (= lừa phỉnh ai để chọc ghẹo…, theo Petit Robert) mang một nghĩa tiêu cực, cho nên “démystifier” lại có nghĩa tích cực!).

Vậy phải hiểu chính xác câu đó như vầy: “Đồng thời, tư tưởng Do Thái-Kitô giáo đã khử trừ chiều kích huyền thoại ra khỏi thiên nhiên, (bởi lẽ) mặc dù không ngừng ngưỡng mộ vẻ huy hoàng và sự bao la của nó, tư tưởng này không coi nó là thần linh”.

Tại số 234, trong câu ĐGH Phanxicô trích từ tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá, có cụm từ “homo mysticus”, mà đáng lý các dich giả của Caritas đã phải chuyển ngữ thành “con người thần bí” hoặc “nhà thần bí” như bốn bản Ý, Pháp, Đức và Anh đã làm một cách trung thành, thì họ lại tránh né dịch trực tiếp cụm từ ấy và diễn giải nó theo cách của họ: “(nói như thế không có nghĩa là những thứ hữu hạn trong thế giới này đều thánh thiêng), nhưng vì mầu nhiệm của của sự nối kết thiết thân giữa Thiên Chúa và mọi hữu thể làm cho chúng ta cảm nhận ‘mọi sự đều là Thiên Chúa’”, thay vì dịch sát thành: “(nói như thế không có nghĩa là những thứ hữu hạn trong thế giới này đều mang tính chất thần linh), nhưng vì con người thần bí có một trải nghim về sự kết nối thân thiết giữa Thiên Chúa và mi hữu thể, khiến người đó cảm thấy rằng ‘mọi sự đều là Thiên Chúa’”.

3. Riêng những người chuyên phiên dịch các văn kiện của Tông Tòa sang tiếng Anh được đăng tải trên trang mạng Vatican, chúng tôi đã ghi nhận trường hợp họ dịch chữ “mystica” tại số 216 của Laudato Si’ theo hướng giảm nhẹ ngữ nghĩa của từ ấy (xem mục 1 của Phụ Trương 2 này). Chúng tôi phát hiện thêm trường hợp thứ hai, và lần này là trong tông huấn Evangelii gaudium (Niềm Vui của Tin Mừng) của ĐGH Phanxicô (văn kiện này không có bản Latin). Tại số 281, khi đề cập tới sức mạnh truyền giáo của kinh nguyện chuyển cầu, ngài viết một câu rất mạnh trong bốn bản Ý, Tây Ban Nha, Pháp và Đức như sau:

-Ý: “… perché la contemplazione che lascia fuori gli altri è un inganno”.

-TBN: “… porque la contemplación que deja fuera a los demás es un engaño”.

-Pháp: “… car la contemplation qui se fait sans les autres est un mensonge”.

-Đức: “… denn die Betrachtung, welche die anderen draussen lässt, ist eine Täuschung”.

Cả bốn bản này đều nói lên rằng: “việc chiêm niệm mà bỏ tha nhân ra ngoài (= không có chỗ cho tha nhân), thì đó là một sự đánh lừa (theo bản Ý, TBN, Pháp), hoặc một ảo tưởng (theo bản Đức).

Còn bản Anh chỉ viết nhẹ nhàng:

“… since authentic contemplation always has a place for others”, được Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng trực thuộc HĐGMVN dịch thành: “… vì chiêm niệm đích thực luôn có chỗ cho người khác”.

Dĩ nhiên là không sai ý của ĐGH một cách nghiêm trọng, nhưng bản Anh đã mài dũa cái mũi nhọn của câu nói ấy trong bốn ngôn ngữ lớn của châu Âu khiến nó bớt sắc bén đi rất nhiều. Mà trong thực tế người ta được phép tin rằng Ngài đã soạn hoặc nháp tông huấn ấy trước tiên bằng tiếng Ý là tiếng “mẹ đẻ”, hoặc tiếng Tây Ban Nha là “ngôn ngữ quốc gia” của ngài. Từ đó người ta mới dịch sang tiếng Anh và những ngôn ngữ khác. Vậy bản Anh có đáng tin bằng bốn bản kia không? Mà bản dịch chính thức do Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng thực hiện lại “dựa trên bản tiếng Anh chính thức của Vatican”. Đành rằng ai đó có thể phản biện: “bản Anh cũng được phổ biến trên trang mạng Vatican, thì cũng là chính thức, ngang hàng với các bản khác, nên không có gì sai đâu…”. Vậy bản dịch tiếng Việt chính thức sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo”, được chính Bộ Giáo Lý Đức Tin của Tông Tòa “chấp thuận cho ấn hành (imprimi potest)”, mà cũng có ít nhất hai lần (và có thể là không chỉ hai lần mà thôi) dịch sai ý của bản gốc Latin, tại số 486 (về việc xức dầu cho Đức Giêsu) và số 1241 (về việc xức dầu cho Kitô hữu), như chúng tôi đã chứng minh trong bài “Ai xức dầu cho Đức Giêsu và các Kitô hữu?”. Thế thì, phải chăng cứ chấp nhận cách tối mặt bản dịch chính thức ấy như chân lý tuyệt đối mà không được phép đề nghị chỉnh sửa những sai lầm có thật sao? Đối với hai bản dịch chính thức: tông huấn Niềm Vui của Tin Mừngthông điệp Laudato Si’ do hai cơ quan chính thức của HĐGMVN thực hiện, nếu dựa vào bản tiếng Anh của Vatican, thì cũng nên đối chiếu nghiêm túc với bản Latin, nếu có, như Laudato Si’, và bản Ý hoặc Tây Ban Nha… và cả bản Pháp nữa, như trường hợp Evangelii gaudium. Ít nhất nên có một ghi chú: dựa trên bản Anh thì dịch như thế đó, nhưng theo các bản Latin, Ý (và TBN, và Pháp…) thì có thể hiểu như thế kia…, để cho độc giả rộng đường suy nghĩ…

 

 

 

Phi Khanh Vương Dình Khởi, ofm

Chia sẻ tại khóa thường huấn

Linh Mục Đoàn Đàlạt, 21-22/6/2017

***

 

Hai đề tài được đề nghị cho các Nhóm thảo luận

(có thể theo ba bước “XEM-XÉT-LÀM”):

1. Giáo dục đức công bằng và ý thức về thiện ích chung, đặc biệt về đề tài tế nhị: “của cải (là) để mưu ích cho mọi người” (x. số 93-94) và “quyền sở hữu tư nhân tuy là chính đáng, nhưng chỉ là để quản lý cho thiện ích chung của mọi người” (x. số 95).

2. Chúng ta phải hiểu thế nào là tội chống lại Trái Đất, và giải thích thế nào cho giáo dân hiểu, để xưng tội (x. số 8-9 và thư của ĐGH Phanxicô đề ngày 6-8-2015 gửi hai ĐHY Peter Turkson và Kurt Koch, về việc thiết lập ngày cầu nguyện cho sự chăm sóc thiên nhiên (ngày 1 tháng 9 hằng năm).

 



[1] Latin là: latos regenerationis processus = Ý: lunghi processi di rigenerazione = Pháp: de longs processus de régénération = Anh: a long path of renewal). Chúng ta hiểu “Tái sinh” thay vì “canh tân” như Caritas đã dịch theo bản tiếng Anh! Vì “tái sinh” có nghĩa sâu sắc hơn “canh tân”.

 

[2] Chúng tôi buộc lòng phải dịch lại đoạn quan trọng này của số 192 theo sát bản Latin, đã được ba bản Ý, Pháp và Đức chuyển ngữ một cách vừa trung thành vừa rất hay, còn bản Anh mà Caritas VN đã theo sát thì lại đi hơi xa bản Latin!

[3] Bài ca này mang tên là Bài Ca Anh Mặt Trời hoặc Bài Ca Vạn Vật, hay Bài Ca các thụ tạo, gồm 14 câu, thì ĐGH Phanxicô đã trích nguyên văn vào thông điệp này 8 câu, mà cả một cụm sáu câu nằm gọn trong số 87 (tức các câu 3 và 4: về Ông Anh Mặt Trời; câu 5 về Chị Trăng và muôn Sao; câu 6 về Anh Gió+Không Khí+Mây Trời; câu 7 về Chị Nước; câu 8 về Anh Lửa); còn câu 9 về Chị và Mẹ Đất được trích ưu tiên vào số 1, mở đầu thông điệp; và câu 10 về những người biết thứ tha… được đưa vào số 91.

[4] Theo bản gốc Latin: “EDUCATIO AD FOEDUS INTER HOMINES ET AMBITUM”, ta phải hiểu là: giáo dục nhằm dẫn đưa Dân Chúa tới sự hiểu biết và thực hành giao ước giữa nhân loại và môi trường. Chữ “về” tiếng Việt có thể coi như tương đương với chữ “ad” Latin theo nghĩa “hướng về và nhằm đạt tới.

[5] không nên dịch thành “quyền công dân sinh thái” như Caritas VN đã làm!

[6] Xem Phụ Trương 2 ở cuối bài này.

 

[7] Ví dụ: ơn được mang năm Dấu Thánh của Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh, như thánh Phanxicô Assisi, thánh Piô Pietrelchina; Thánh Nữ Faustina Kowalsky được Chúa Giêsu mạc khải riêng về lòng thương xót …

[8] Để giảm bớt thành kiến tiêu cực đối với từ “thần bí” và tránh cách hiểu “đời sống thần bí” theo hướng nhấn mạnh và đề cao khía cạnh ngoại thường, thì có thể dùng kiểu nói “đời sống thần hiệp” hoặc “đời sống nhiệm hiệp” [x. Từ Điển Công Giáo 2016, mục từ “hiệp đạo”, tr. 391; chỉ tiếc rằng Ban Từ Vựng Công Giáo đã nhấn mạnh và đề cao khía cạnh “khác lạ”, “ngoại thường” khi định nghĩa “(nhà) thần bí” (tr. 818-819) và “kinh nghiệm thần bí ” (tr. 494). Tại trang 494 này Ban Từ Vựng có vẻ hiểu không chính xác nghĩa của GLHTCG số 2014, khi biến cái bình thường theo GLHTCG, mà họ gọi là “nghĩa rộng”, thành cái khác lạ, ngoại thường mà họ gọi là “nghĩa hẹp” và gán cho “kinh nghiệm thần bí”. Trái lại, khi nói “không thể thiếu một nền thần bí ” (tại số 216 của Laudato Si’), ĐGH Phanxicô hiểu “thần bí” theo nghĩa của GLHTCG số 2014: mọi Kitô hữu đều được kêu gọi đi vào đời sống kết hiệp ngày càng mật thiết hơn với Đức Kitô…; đó chính là đời sống thần bí, hoặc thần hiệp hay nhiệm hiệp mà họ phải vun đắp].

[9] Trong bản Latin, chúng ta đọc thấy: “Sanctus Franciscus nobis tradidit…= thánh Phanxicô đã truyền đạt cho chúng ta…”, nhưng chắc là đã xảy ra một lỗi in ấn (đáng lý, theo văn mạch, phải viết “sanctus franciscanus”), vì các bản Ý, Pháp, Đức và Anh đều dịch là “Vị thánh của Dòng Phan Sinh” (le saint franciscain), tức thánh Bonaventura, vừa được nhắc tên cách hai câu trước đó.

[10] Câu mở đầu số 240 là một định nghĩa tín lý rất khó phiên dịch và diễn giải: “Divinae Personae sunt relationes subsistentes”. Các bản Ý, Pháp, Đức, Anh đều dịch tính từ Latin “subsistentes” giống nhau: “Ý: relazioni sussistenti = Pháp: relations subsistantes = Đức: subsistente Beziehungen = Anh: subsistent relations”. Bản dịch của Caritas VN: “Các Ngôi Vị Thiên Chúa là (những) mối tương quan hỗ tương” hình như không đúng, vì “hỗ tương” có nghĩa là trao đổi qua lại song phương (réciproques = mutuelles). Có lẽ nên dịch là “những mối tương quan lập hữu” (dựa theo Từ Điển và Danh Từ Triết Học của Trần Văn Hiến Minh, Tủ sách Ra Khơi 1966, trang [115]). Tương quan giữa Ngôi Thứ Nhất và Ngôi Thứ Hai là tương quan nhiệm sinh và thụ sinh: Vì Ngôi I sinh ra Ngôi II, nên Ngôi I được “lập” làm Cha, còn Ngôi II được “lập” làm Con, nghĩa là đặc tính hữu thể của Ngôi I là “Cha”, và đặc tính hữu thể của Ngôi II là “Con”. Vì Ngôi I cùng với Ngôi II chủ động nhiệm xuy (spirare) ra Ngôi III, nên đặc tính hữu thể của Ngôi I và Ngôi II là nguồn gốc chủ động nhiệm xuy; đặc tính hữu thể của Ngôi III là “thụ xuy” (x. Từ Điển Công Giáo của Ban Từ Vựng Công Giáo, ấn bản 2016, tr. 646-647). – Việc phiên dịch và giải nghĩa câu mở đầu số 240 này, xin dành cho các giáo sư Thần học tín lý thẩm định.

[11] Xem Phụ Trương 2 dưới đây

[12] ĐGH dùng từ Latinh “infirmi”, mà các bản dịch sinh ngữ chuyển ngữ thành “i deboli” (Ý), “les faibles” (Pháp), “die Schwachen” (Đức), “the weak” (Anh): theo nghĩa thông thường là “những người yếu đuối, yếu ớt” về phương diện thể lý hay luân lý. Nhưng nếu hiểu theo ngữ cảnh của cặp đôi nạn nhân “Người Nghèo và Trái Đất” được ĐGH nhấn mạnh từ đầu (tức số 2) đến cuối (tức số 246) của thông điệp, thì có lẽ nên hiểu là “những người yếu thế” về phương diện xã hội.


Văn Kiện Giáo Hội