V. LINH ĐẠO TRUYỀN
GIÁO
Lm. Ant Nguyễn Đức Khiết
Hoạt động truyền giáo đòi hỏi một linh đạo đặc biệt. Linh đạo này liên
hệ đặc biệt tới những người được Thiên Chúa mời gọi để trở thành những nhà
truyền giáo. Đức Phaolô VI phác họa linh đạo truyền giáo trong chương VII của
Tông Huấn Loan báo Tin Mừng . Đức Gioan
Phaolô II trực tiếp đề cập tới linh đạo này trong chương VIII của Thông Điệp Sứ
vụ Đấng Cứu Thế . Ngài cũng nhắc đến
nhiều lần trong Giáo Hội tại Á Châu và
mới đây trong hai Tông Thư Bước vào ngàn năm mới và Kinh Mân côi của Đức Trinh Nữ Maria .
Chúng ta chia sẻ với nhau linh đạo này.
I. ĐỂ CHO CHÚA THÁNH THẦN HƯỚNG DẪN
Chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu để “Chèo ra chỗ sâu” (Duc in altum) là
chủ đề của Tông Thư Bước vào ngàn năm mới (Novo Millennio inuente). Chiêm ngắm
Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra chân lý này : Ngài đã là sứ giả Tin Mừng đầu
tiên và vĩ đại nhất, là sứ giả Tin mừng đã để cho Thần Khí hướng dẫn. Thần Khí
đã xuống trên Đức Giêsu Nadarét vào lúc Ngài chịu thanh tẩy và được Chúa Cha
giới thiệu là Con Chí Ái của Người (x. Mt 3,17). Chính vì “được Thần Khí dẫn
đưa” (Mt 4,1), mà Ngài đã trải qua trong sa mạc cuộc chiến đấu quyết liệt và
một cuộc thử thách lớn lao nhất trước khi bắt đầu sứ mệnh loan báo Tin Mừng.
Chính “với quyền năng của Thánh Thần” (Lc 4,14) mà Ngài đã trở về Galilê và mở
đầu tại Nadarét công cuộc rao giảng, khi áp dụng đoạn sách tiên tri Isaia cho
chính mình : “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Ngài công bố : “Hôm nay đã ứng
nghiệm lời Kinh Thánh này” (Lc 4,18.21 : x. Is 61,1). Nhờ quyền năng của Thần
Khí, Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ, như một dấu chỉ
Nước Thiên Chúa đã đến (x. Mt 12,28). Vào buổi chiều Phục Sinh, Ngài thổi hơi
trên các môn đệ sắp được phái đi mà nói với họ : “Các con hãy nhận lấy Thánh
Thần”(Ga 20,22).
Từ việc chiêm ngắm Đức Giêsu, sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất
đã để cho Thần Khí hướng dẫn, ta thấy linh đạo truyền giáo được thể hiện trước
hết qua việc nhà truyền giáo để cho con người của mình trở nên hoàn toàn dể dạy
đối với Chúa Thánh Thần, một sự dễ dạy để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn con người
bên trong càng ngày càng nên giống Chúa Kitô. Không thể rao giảng và làm chứng
về Chúa Kitô cũng như Tin Mừng của Ngài nếu bản thân nhà truyền giáo không
phảøn ánh gương mặt Chúa Kitô. Gương mặt Chúa Kitô sẽ trở nên sống động trong
chúng ta nhờ ân sủng và hoạt động của Thánh Thần.
Ngoài ra, sự dễ dạy đối với Thánh Thần còn làm cho chúng ta đón nhận
được những ân huệ khác của Ngài, đặc biệt là ơn can đảm và biện biệt. Hai ân
huệ này là những nét cốt yếu của linh đạo truyền giáo.
Trường hợp của các tông đồ là một điển hình : trong sứ vụ công khai của
Đức Giêsu, dù đã yêu Chúa nồng nàn với một tấm lòng quảng đại, dù đã được Chúa
huấn luyện trong nhiều năm, các tông đồ vẫn tỏ ra là những con người tối trí và
chậm hiểu. Nhiều lần Chúa giảng dạy mà các ngài chẳng hiểu gì hết, nhất là
khiếp sợ theo Chúa trên đường khổ nạn. Biến cố thập giá chiều thứ sáu tuần
thánh đã làm tiêu tan niềm tin và hy vọng của các ngài vào Đức Giêsu. Chúa
Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ trở nên những chứng nhân can đảm cho Đức
Giêsu và những người loan báo cách rõ ràng lời Ngài. Chính Thánh Thần đã hướng
dẫn các ngài trên những nẻo đường gian khổ và mới mẻ của sứ mạng truyền giáo.
Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh về vai trò của Chúa Thánh Thần trong công
cuộc loan báo Tin Mừng khi đọc lại những ngày đầu của Giáo Hội sơ khai :
“Sẽ không bao giờ có thể phúc âm hóa được nếu không có tác động của
Chúa Thánh Thần …
[…] Thật ra, chỉ sau khi Chúa Thánh Thần đến, ngày Hiện Xuống, các tông
đồ mới lên đường đi đến khắp các chân trời trên thế giới để khởi sự công cuộc
phúc âm hoá của Giáo Hội, và thánh Phêrô giải thích biến cố như đã thực hiện
của lời tiên tri Giôel : “Ta sẽ đổ Thần Khí Ta” (Cv 2,17). Thánh Phêrô được đầy
Thánh Thần để nói với dân chúng về Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x. Cv 4,8). Thánh
Phaolô, cũng thế, “được đầy Thánh Thần” (Cv 9,17) trước khi hiến thân cho sứ
mệnh tông đồ ; thánh Stêphanô cũng vậy, khi được chọn để làm phó tế và sau đó
đã đổ máu làm chứng (x. Cv 6,5.10 ; 7,55). Thần Khí khiến Phêrô, Phaolô hay nhóm
Mười Hai lên tiếng và soi sáng cho họ những lời lẽ phải nói, thì cũng ngự xuống
“trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa” (x. Cv 10,44). Chính nhờ
Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Giáo Hội tăng tiến (x. Cv 9,31). Ngài là linh hồn
của Giáo Hội này. Chính Ngài giải thích cho tín hữu hiểu ý nghĩa thâm sâu của
lời Đức Giêsu giảng dạy và mầu nhiệm con người của Đức Giêsu. Ngày nay cũng như
vào buổi đầu của Giáo Hội, Ngài là Đấng hoạt động trong mỗi sứ giả Tin Mừng,
nếu họ chịu thuộc về Ngài và để Ngài hướng dẫn mình, Ngài đặt nơi môi miệng họ
những lời mà một mình họ không thể tìm ra được, và đồng thời chuẩn bị cho tâm
hồn người nghe biết cởi mở đón nhận Tin Mừng và Triều Đại được loan báo.
Có những kỹ thuật phúc âm hóa là điều tốt, nhưng những kỹ thuật hoàn hảo
nhất vẫn không làm sao thay thế được tác động âm thầm của Thần Khí. Không có
Ngài thì sứ giả Tin Mừng có sửa soạn hết sức tinh tế cũng chẳng làm được gì cả.
Không có Ngài thì biện luận thuyết phục nhất cũng không ảnh hưởng gì được trên
trí tuệ con người. Không có Ngài, những lược đồ xã hội học và tâm lý học được
soạn thảo kỹ lưỡng nhất cũng chóng tỏ ra vô giá trị.
Chúng ta đang sống trong Giáo Hội những giờ phút đặc biệt của Thần Khí.
Đâu đâu người ta cũng tìm biết Ngài hơn, đúng như Thánh Kinh mạc khải. Người ta
sung sướng tự đặt dưới quyền lực Ngài. Người ta họp nhau quanh Ngài. Người ta
muốn để Ngài hướng dẫn mình.
Vậy, nếu Thần Khí Thiên Chúa có một vị trí ưu việt trong toàn thể đời
sống Giáo Hội, thì chính trong sứ mệnh phúc âm hóa của Giáo Hội là chỗ Ngài
hoạt động hơn cả. Không phải tình cờ mà cuộc khởi đầu vĩ đại đi phúc âm hóa đã
xảy ra vào sáng ngày Hiện Xuống, dưới hơi thổi của Thần Khí” .
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của
hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, là tác giả đầu tiên của việc đối thoại giữa
Giáo Hội và tất cả các dân tộc, văn hoá và tôn giáo . Chính Ngài thúc đẩy mỗi người loan báo Tin Mừng, chính Ngài, từ
chiều sâu ý thức, làm cho người ta đón nhận và hiểu Lời cứu độ. , và chính Ngài
liên tục gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, tôn giáo, văn hoá và
triết học của họ. Nhờ Chúa Thánh Thần, vị Thầy Nội Tâm, gương mặt và giáo huấn
của Chúa Kitô sẽ tỏ hiện lên trong lòng người đón nhận và đặc biệt hơn trong
chính cuộc đời và bản thân của nhà truyền giáo.
Ngày nay cũng như ngày xưa, công cuộc truyền giáo vẩn có nhiều khó khăn
và phức tạp. Ngày nay cũng như ngày xưa, nó đòi hỏi lòng can đảm và ánh sáng
của Thánh Thần. Chúng ta vẫn thường đang sống trong thảm kịch của các Kitô hữu
tiên khởi khi họ thấy đám đông bất tín và thù nghịch “đang rập mưu đồ chống lại
Đức Chúa và chống lại Đấng Người đã được xức dầu phong vương” (Cv 4,26). Cũng
như ngày xưa, chúng ta phải cầu nguyện để Thiên Chúa ban cho chúng ta lòng can
đảm loan báo Tin Mừng, để bước đi trên những nẻo đường huyền nhiệm đầy bất ngờ
của Thiên Chúa và để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn đến chân lý vẹn toàn (x. Ga
16,13).
II. SỐNG MẦU NHIỆM ĐỨC KITÔ “ĐƯỢC SAI ĐI”.
Sống hiệp thông với Đức Kitô là một yếu tố căn bản của linh đạo truyền
giáo. Người ta không thể hiểu cũng như không thể sống sứ mạng truyền giáo nếu
không quy chiếu về Đức Kitô như Đấng được sai đi để loan báo Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã nói về tâm tình của Đức Kitô, Đấng được Thiên Chúa sai
đến trong bài thánh thi thời danh : “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những
tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không
nghĩ là phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn
toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như
người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự” (Pl 2,5-8).
Trong bài thánh thi này, thánh Phaolô chiêm ngưỡng và suy tư về mầu
nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Các mầu nhiệm này được diễn tả như một sự hoàn
toàn từ bỏ bản thân, dẫn Đức Giêsu đến việc sống hoàn toàn như con người và gắn
bó với chương trình của Chúa Cha cho tới cùng. Đây là mầu nhiệm tự hủy mang dấu
ấn của tình yêu và diễn tả tình yêu.
Sứ mạng truyền giáo cũng đi trên con đường này, một con đường cuối cùng
dẫn tới chân thập giá. Sứ mạng này đòi hỏi nhà truyền giáo “từ bỏ chính mình và
những gì mình có, để trở nên tất cả cho mọi người”. Sự từ bỏ được thể hiện qua
nếp sống nghèo khó trong sự thanh thoát của nội tâm. Nếp sống này làm cho nhà
truyền giáo được tự do để loan báo Tin Mừng, tự do để trở nên người anh em của
tất cả mọi người mà ngài được sai đến để đem Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ cho họ. Đó
là linh đạo truyền giáo mà thánh Phaolô đã sống trên những nẻo đường truyền giáo
và muốn chia sẻ lại cho chúng ta : “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu để
chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi
cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để được
phân chia phần phúc của Tin Mừng” (1Cr 9,22-23).
Rõ ràng vì được sai đi, nhà truyền giáo cảm nghiệm được sự hiện diện
đầy an ủi của Đức Kitô đang đồng hành với mình trong mọi giây phút của cuộc
đời. “Đừng sợ ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con” (Cv 18,9-10).
III. YÊU MẾN GIÁO HỘI VÀ CON NGƯỜI NHƯ CHÚA
KITÔ ĐÃ YÊU MẾN.
Linh đạo truyền giáo còn được thể hiện bằng tình yêu của người tông đồ
dành cho Giáo Hội và cho con người. Người có tinh thần truyền giáo sẽ chiêm
ngắm Đức Giêsu, vị Mục Tử tốt lành biết chiên của mình, tìm kiếm chiên và hy
sinh mạng sống vì đàn chiên (Ga 10) mà bày tỏ tình yêu đối với các tâm hồn và
đối với Giáo Hội.
Nhà truyền giáo được thúc bách nhờ “lòng nhiệt thành vì các linh hồn”,
một khi được tình yêu của chính Đức Kitô soi chiếu, sẽ biết chú tâm, nhẹ nhàng,
thương cảm, đón tiếp, có một con tim sẵn sàng và cởi mở, biết lưu tâm đến những
vấn đề của người khác. Như Đức Giêsu, nhà truyền giáo tiên vàn là con người của
tình thương. Để có thể loan báo cho mỗi người trong anh em mình rằng họ được
Thiên Chúa yêu thương và họ có thể yêu thương Thiên Chúa thì nhà truyền giáo
phải làm chứng về tình thương đối với mọi người bằng cách hy sinh mạng sống
mình vì người khác. Nhà truyền giáo là “người anh em của tất cả” (frère
universel), ngài mang trong mình tinh thần của Giáo Hội, sự cởi mở và quan tâm
của Giáo Hội đối với mọi dân tộc và toàn thể nhân loại, đặc biệt đối với những
người bé nhỏ nhất và nghèo khổ nhất. Ngài phải vượt qua mọi ranh giới và khác
biệt về chủng tộc, giai cấp xã hội hay ý thức hệ. Ngài là dấu chỉ của tình yêu
Thiên Chúa trong thế giới, nghĩa là một tình yêu không loại trừ ai cũng như
không thiên vị người nào.
Trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh rằng thời
đại hôm nay chờ đợi những nhà truyền giáo trung thực. Sự trung thực được bày tỏ
nơi chính bản thân và trong nếp sống Tin Mừng của nhà truyền giáo :
“Ngày nay, người ta thường hay lặp đi lặp lại
rằng : thế kỷ này khao khát sự trung thực. Nhất là khi nói tới giới trẻ, người
ta quả quyết rằng họ ghê tởm những gì là giả tạo, giả mạo và tìm kiếm chân lý
và sự trong sáng trên tất cả.
Chúng ta phải tỉnh táo trước những “dấu chỉ
thời đại” ấy. Âm thầm hay lớn tiếng, thiên hạ luôn luôn vặn hỏi chúng ta : Các
người có thực sự tin điều các người loan báo không ? Các người có sống điều các người tin không ? Các người có rao
giảng thực sự điều các người sống không ? Hơn bao giờ hết, làm chứng bằng đời
sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để việc rao giảng có hiệu quả thâm
sâu. Bằng ngả này, chúng ta lại chịu trách nhiệm, đến một mức độ nào đó, về
bước tiến của Tin Mừng mà chúng ta công bố.
Ở đầu bài suy niệm này, Chúng tôi đã tự hỏi :
“Mười năm sau khi Công Đồng kết thúc, Giáo Hội hiện như thế nào ?”. Giáo Hội
phải chăng đã cắm neo giữa lòng thế giới và phải chăng tuy vậy vẫn khá tự do và
độc lập để lên tiếng nói với thế giới ? Giáo Hội có chứng tỏ mình liên đới với
loài người và có đồng thời làm chứng cho sự Tuyệt Đối của Thiên Chúa không ?
Giáo Hội có nồng nhiệt hơn trong việc chiêm niệm và thờ phượng, mà cũng nhiệt
thành hơn trong công việc truyền giáo, bác ái, giải phóng không ? Giáo Hội phải
chăng đang dấn thân hơn mãi vào những nỗ lực nhằm tái lập sự hiệp nhất hoàn
toàn giữa các Kitô-hữu, sự hiệp nhất vốn cần để việc làm chứng thêm hiệu lực
“ngõ hầu thế giới tin”. Chúng ta tất cả đều có trách nhiệm về những câu trả lời
mà người ta có thể đem lại cho các câu hỏi trên”
Công cuộc truyền giáo giả thiết nhà truyền giáo có một lòng thương yêu
ngày càng lớn hơn mãi đối với anh chị em mà mình được sai đến để nói với họ về
Thiên Chúa Tình Yêu, về Tin Mừng cứu độ. Thánh Phaolô, sứ giả Tin Mừng mẫu mực
đã viết cho tin hữu Thessalônica lời sau đây là một chương trình cho tất cả
chúng ta : “Chúng tôi đã thương yêu anh em thắm thiết đến nỗi muốn giao phó cho
anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa mà còn chính mạng sống chúng tôi
nữa, bởi chưng anh em đã trở nên chí thân chí thiết với chúng tôi” (1 Tx 2,8 ;
x. Pl 1,8).
Tình thương yêu mà thánh Phaolô biểu lộ ở đây rõ ràng là tình thương
yêu của một người cha, và còn hơn nữa, của một người mẹ (x. 1 Tx 2,7-11 ; 1Cr
4,15 ; Gl 4,19). Chắc chắn, Thiên Chúa mong thấy tình thương yêu như thế ở mỗi
người rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta sống trên lục địa Á châu, một lục địa mà đại đa số là người
nghèo, cho nên, ta không ngạc nhiên gì khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn
mạnh đến việc phục vụ người nghèo qua
việc đề cao Mẹ Têrêxa Calcutta trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu : “Mẹ là
hình ảnh của sự phục vụ mạng sống mà Giáo Hội đang dâng hiến tại Á châu, can
đảm đi ngược lại nhiều quyền lực đen tối đang hoành hành trong xã hội” . Ngài suy nghĩ rằng trong bối cảnh của Á
Châu với đông dân nghèo và bị áp bức thì ơn gọi đặc thù của Giáo Hội tại Á châu
là bầy tỏ cách riêng trong việc phục vụ đầy tình yêu đối với các người nghèo và
người cô thế cô thân .
Người ta đễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính những Kitô
hữu sống đơn sơ, theo gương Đức Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống, đức tin sâu
xa và tình yêu không giả dối đối với mọi người, nhất là người nghèo và người bị
loại trừ, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động.
Tình thương yêu nơi nhà truyền giáo không chỉ được diễn tả qua hình ảnh
người bạn, người cha, người mẹ mà còn qua nhiều dấu chỉ khác nữa được Đức
Phaolô VI nhắc đến trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng :
“Một dấu chỉ của tình thương yêu là mối quan
tâm cho người khác chân lý và đưa vào sự hiệp nhất. Một dấu chỉ nữa là hy sinh
trọn vẹn và dứt khoát cho việc loan báo Đức Giêsu Kitô. Chúng tôi xin kể thêm
vài dấu chỉ khác của tình thương yêu kia.
Trước tiên là sự tôn trọng hoàn cảnh tôn giáo
và tinh thần của những con người đang được phúc âm hóa. Tôn trọng nhịp điệu
riêng của họ, không thúc ép quá đáng. Tôn trọng lương tâm và những xác tín của
họ, không can thiệp thô bạo.
Một dấu chỉ khác của tình thương yêu kia là
biết lo tránh làm tổn thương người khác, nhất là khi họ còn yếu đức tin (x. 1Cr
8,9-13) bằng những quả quyết có thể là sáng sủa đối với những người đã thông
thạo, nhưng đối với các tín hữu thì lại có thể là nguồn dao động và cớ vấp
phạm, như một vết thương trong tâm hồn.
Một dấu chỉ nữa của tình thương yêu là biết
cố gắng truyền đạt cho các kitô hữu, không phải những ngờ vực và những điều mập
mờ phát sinh từ một sự học rộng mà không tới nơi tới chốn, nhưng là những điều
chắc chắn vững vàng vì được neo vào Lời Thiên Chúa. Các tín hữu cần những điều
vững chắc ấy cho đời sống Kitô giáo của họ ; họ có quyền được những điều chắc
chắn ấy, với tư cách là con cái Thiên Chúa phó thác mình hoàn toàn cho những
đòi hỏi của tình thương yêu, trong tay Ngài”.
Cuối cùng, như Đức Kitô, “đã yêu thương Giáo Hội và hiến mình vì Giáo
Hội” (Ep 5,25), nhà truyền giáo phải yêu mến Giáo Hội. Tình yêu của Chúa Kitô
đối với Giáo Hội, một tình yêu đến nỗi trao ban mạng sống, sẽ là tấm gương soi
và điểm quy chiếu cho nhà truyền giáo. Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng chỉ
với một tình yêu sâu xa dành cho Giáo Hội mới có thể nâng đỡ lòng nhiệt thành
của nhà truyền giáo, như thánh Phaolô nói về nỗi ray rứt hàng ngày của ngài là
“mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” (2Cr 11,28).
Đối với mỗi nhà truyền giáo, lòng trung thành với Chúa Kitô không thể
tách rời khỏi lòng trung thành đối với Giáo Hội, bởi vì “có một mối liên hệ sâu
xa giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc loan báo Tin Mừng. Trong “thời của Giáo Hội”
này, chính Giáo Hội có bổn phận phúc âm hóa. Bổn phận không thể hoàn tất mà
không có Giáo Hội, càng không thể hoàn tất nếu chống lại Giáo Hội” .
IV. NHÀ TRUYỀN GIÁO ĐÍCH THỰC LÀ MỘT VỊ THÁNH
Lời mời gọi truyền giáo tự bản chất phát xuất từ lời mời gọi nên thánh.
Nhà truyền giáo chỉ thực sự là nhà truyền giáo khi ngài dấn thân trên con đường
thánh thiện “Sự thánh thiện là nền tảng cốt lõi và điều kiện không thể thay thế
được để chu toàn sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội”.
Ơn gọi phổ quát hướng tới việc nên thánh liên hệ mật thiết với ơn gọi
phổ quát hướng tới sứ mạng truyền giáo, bởi vì mỗi người tín hữu được mời gọi
nên thánh và truyền giáo. Linh đạo truyền giáo là con đường dẫn tới sự thánh
thiện.
Sức năng động mới hướng tới muôn dân (Ad Gentes) đòi hỏi các nhà truyền
giáo thánh thiện. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc đến điều này với một lòng
xác tín :
“Thật không đủ khi chúng ta chỉ nghĩ tới việc
đổi mới các phương pháp mục vụ cũng như làm thế nào để tổâ chức nhân sự và tài
lực tốt hơn hay đào sâu nền tảng kinh thánh và thần học của đức tin. Phải gợi
lên một sức năng động mới về sự thánh thiện nơi các nhà truyền giáo và trong
từng cộng đoàn kitô hữu, đặc biệt nơi những người cộng tác gần gũi nhất của các
nhà truyền giáo.
Chúng ta hãy nhớ lại sức năng động truyền
giáo nơi các cộng đoàn tín hữu sơ khai. Mặc dù lúc bấy giớ còn thiếu phương
tiện di chuyển và truyền thông, nhưng việc loan báo Tin Mừng đã sớm đi đến mọi
miền thế giới. Và cho dù đó là một tôn giáo của một Người đã chết trên thập
giá, “một cớ vấp phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với dân ngoại”
(1Cr 1,23). Tự nền tảng của sức năng động truyền giáo này, ta thấy có sự thánh
thiện của các cá nhân và của các cộng đoàn tín hữu sơ khai” .
Trong mọi trường hợp, rõ ràng là không thể có sự rao giảng Tin Mừng
đích thực, nếu người Kitô hữu không sống chứng tá phù hợp với sứ vụ rao giảng :
“Hình thức chứng tá thứ nhất là chính đời sống của vị thừa sai, của gia đình
Kitô hữu và của cộng đồng Giáo Hội, một cộng đồng bày tỏ một nếp sống mới … Mỗi
người trong Giáo Hội, khi cố gắng bắt chước Vị Thầy Thần Linh, thì có thể và
phải làm chứng theo kiểu này ; trong nhiều trường hợp, đó là phương cách duy
nhất có thể được, để trở thành nhà truyền giáo” .
Nhà truyền giáo phải là một nhà “chiêm niệm trong hành động”. Khi tiếp
xúc với các vị đại diện của các truyền thống thiêng liêng ngoài Kitô giáo, nhất
là của Á Châu, Đức Thánh Cha xác tín rằng tương lai của việc truyền giáo tuỳ
thuộc phần lớn vào sự thánh thiện. Nhà truyền giáo, nếu không phải là nhà chiêm
niệm thì không thể loan báo Chúa Kitô một cách khả tín được. Điều này chắc chắn
đúng trong bối cảnh Á Châu, nơi mà dân chúng được thuyết phục do đời sống thánh
thiện hơn là do luận chứng tri thức .
Như thế, để là chứng nhân cho kinh nghiệm về Thiên Chúa, nhà truyền giáo phải
có kinh nghiệm về Thiên Chúa, “Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng … về Lời hằng
sống … chúng tôi đã loan báo” (1 Ga 1,1-3).
Đức Thánh Cha chia sẻ với các Giáo Hội tại Á Châu rằng trong bối cảnh
của Á Châu, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà các cá nhân cũng như toàn
dân khao khát cái thiêng thánh, Giáo Hội được kêu gọi trở nên một Giáo Hội cầu
nguyện. Tất cả các Kitô hữu cần một tu đức truyền giáo thực sự gồm có cầu
nguyện và chiêm niệm .
Đức Thánh Cha còn ghi nhận rằng các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục Á
Châu đã nhấn mạnh nhiều đến chỗ đứng của chiêm niệm trong công cuộc truyền giáo
:
“ Việc công bình, bác ái và thương xót phải
gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy,
chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng
của chúng ta” .
Sự thánh thiện nơi bản thân nhà truyền giáo được nhìn thấy trong nếp
sống của Tám Mối Phúc. Nhà truyền giáo là con người của Tám Mối Phúc. Trước khi
sai các tông đồ đi rao giảng, Đức Giêsu đã huấn luyện nhóm Mười Hai bằng cách
cho họ thấy những con đường của truyền giáo : khó nghèo, hiền lành, chấp nhận đau
khổ và những bách hại, khao khát sự công chính và hoà bình, bác ái, hay nói
khác đi là con đường Tám Mối Phúc (x. Mt 5,1-12). Trong khi sống Tám Mối Phúc,
nhà truyền giáo có kinh nghiệm và cho thấy một cách cụ thể rằng Nước Thiên Chúa
đã đến và chính bản thân ngài đã đón nhận Nước ấy.
Sự thánh thiện không chỉ là lời mời gọi của Chúa, nhưng nơi bản thân
của nhà truyền giáo, nó còn là sự chờ đợi của thế giới hôm nay, như Đức Phaolô
VI nhận định :
“Thế giới tuy có vô vàn dấu hiệu từ khước
Thiên Chúa, nhưng một cách nghịch thường vẫn tìm kiếm Ngài bằng những đường nẻo
bất ngờ và vẫn xót xa cảm thấy cần đến Ngài, thế giới ấy đòi có những sứ giả
Tin Mừng nói về một Thiên Chúa mà họ biết và gần gũi như thể họ đã từng thấy
Đấng không thể thấy (x. Dt 11,27). Thế giới đòi hỏi và chờ đợi ở chúng ta đời
sống giản dị, tinh thần cầu nguyện, lòng yêu thương đối với mọi người nhất là
đối với những kẻ bé mọn và nghèo khó, đức vâng phục và khiêm tốn, sự siêu thoát
và từ bỏ chính mình và mọi sự. Không có dấu hiệu về sự thánh thiện như thế, lời
chúng ta nói sẽ khó đi vào lòng của con người thời nay. Nó có thể thành vô ích
và vô hiệu” .
Một trong những nét đặc sắc của cuộc đời nhà truyền giáo là niềm vui
nội tâm phát xuất từ đức tin. Trong một thế giới đầy lo âu và bị áp lực của
trăm ngàn vấn đề, một thế giới dễ làm cho con người bi quan, thì người loan báo
Tin Mừng phải là người đã tìm thấy nơi Đức Kitô nguồn hy vọng đích thực.
Đức Phaolô VI nhận xét rằng công cuộc truyền giáo trong thời đại chúng
ta gặp nhiều trở ngại bởi vì sự thiếu nhiệt tình và niềm vui nơi bản thân người
tín hữu. Nó càng trầm trọng bởi lẽ nó phát xuất từ bên trong ; nó biểu lộ trong
sự mệt mỏi và chán nản, sự làm lấy lệ và hờ hững. Đức Thánh Cha khuyến khích
tất cả những người có nhiệm phúc âm hóa với tư cách nào và ở cấp bậc nào cũng
vậy, hãy nuôi dưỡng nhiệt tình cho tâm thần mình (x. Rm 12,11).
“Chúng ta hãy giữ cho tinh thần được nhiệt
thành. Chúng ta hãy giữ niềm vui dịu dàng và khích lệ trong công việc phúc âm
hóa, ngay cả khi phải gieo trong nước mắt. Ước gì đó là một nhiệt tình mà không
ai và không gì có thể dập tắt được nơi chúng ta, cũng như nơi thánh Gioan Tẩy
Giả, nơi thánh Phêrô và thánh Phaolô, nơi các thánh Tông Đồ khác, nơi vô vàn sứ
giả Tin Mừng đáng khâm phục trong suốt cả lịch sử Giáo Hội. Ước gì đó là niềm
vui lớn lao cho những cuộc đời của chúng ta đã được hiến dâng. Và ước gì thế
giới thời đại chúng ta, đang tìm kiếm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hy
vọng, có thể nhận được Tin Mừng, không phải từ những sứ giả Tin Mừng buồn rầu
và chán nản, nôn nóng hay bứt rứt, nhưng là từ những thừa tác viên của Tin Mừng
có đời sống tỏa ấm nhiệt tình, đã nhận sẵn niềm vui của Đức Kitô trong bản thân
mình và chấp nhận đánh đổi mạng sống mình lấy việc Triều Đại được loan báo và
Giáo Hội được đưa vào giữa lòng thế giới”.
V. XÂY DỰNG HIỆP NHẤT
Đây là mối ưu tư đặc biệt của Đức Phaolô VI, vị giáo hoàng của đại kết
và đối thoại. Mối ưu tư này được nói lên một cách mạnh mẽ trong Tông Huấn Loan
báo Tin Mừng :
“Sức mạnh của việc phúc âm hóa sẽ bớt đi
nhiều nếu những người loan báo Tin Mừng lại chia rẽ nhau bằng đủ thứ gãy vỡ.
Phải chăng đó là một trong những vướng víu lớn nhất cho việc phúc âm hóa ngày
nay ? Thật vậy, nếu Tin Mừng mà chúng ta công bố lại cho thấy bị xâu xé bởi
những cãi cọ về giáo thuyết, những phân cực ý thức hệ hay những kết án lẫn nhau
giữa các kitô hữu, tùy theo những cách họ nhìn khác nhau về Đức Kitô và về Giáo
Hội, và ngay cả vì những cách họ quan niệm khác nhau về xã hội và các thể chế
nhân loại, thì làm sao những người được chúng ta rao giảng lại khỏi bị dao
động, lạc hướng nếu không nói là bị vấp phạm ?
Di chúc thiêng liêng của Chúa nói với chúng
ta rằng sự hiệp nhất giữa các môn đồ của Người không phải chỉ là bằng chứng
chúng ta thuộc về Người mà còn là bằng chứng Người do Chúa Cha sai đến, là trắc
nghiệm về sự đáng tin của các kitô-hữu và của chính Đức Kitô. Là những sứ giả Tin
Mừng, chúng ta cần hiến cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh những
con người chia lìa nhau vì những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình
ảnh những con người chín chắn trong đức tin, có khả năng gặp gỡ nhau bên trên
những căng thẳng thực tế, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý một cách chân
thành và vô vị lợi. Phải, số phận công cuộc phúc âm hóa chắc chắn được gắn liền
với việc Giáo Hội làm chứng cho sự hiệp nhất. Đó là một nguồn trách nhiệm mà
cũng là một nguồn khích lệ”.
Như vậy, nhà truyền giáo là sứ giả của hoà bình và người thợ xây dựng
sự hiệp nhất và đối thoại.
VI. NƠI TRƯỜNG HỌC CỦA ĐỨC MARIA, NHÀ TRUYỀN
GIÁO ĐẦU TIÊN
Trong thông điệp đầu tiên Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc con người),
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết rằng chỉ trong một bầu khí cầu nguyện sốt
sắng mới có thể “đón nhận Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và nhờ đó trở
nên những nhân chứng của Đức Kitô cho đến tận cùng trái đất, giống như những
người ra khỏi phòng Tiệc Ly tại Giêrusalem vào ngày lễ Ngũ Tuần”.
Tháng Mười năm ngoái, khi bước vào năm thứ 25 sứ vụ giáo hoàng, với
Tông Thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Trinh Nữ Maria), Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô đã công bố một Năm đặc biệt, gần như một sự tiếp nối lý tưởng
của Năm thánh, dành cho việc tái khám phá kinh Mân Côi, là kinh nguyện rất thân
thiết với truyền thống kitô giáo; một năm cần được sống dưới cái nhìn của Đấng,
theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, nhờ lời “Xin Vâng”, đã làm cho việc cứu
độ loài người có thể được thực hiện. Đồng thời ngài đặt Đức Trinh Nữ rất thánh
làm Thầy dạy các tín hữu trong việc chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Kitô để từ đó ra
đi truyền giáo trên đại dương bao la của thế giới.
Đức Thánh Cha ước mong rằng Năm Mân Côi sẽ tạo nên một cơ hội thuận lợi
để các tín hữu trên mọi lục địa đào sâu ý nghĩa của ơn gọi kitô hữu. Dưới mái
trường của Đức Trinh Nữ và noi gương ngài, mỗi cộng đoàn sẽ có thể làm nổi bật
hơn chiều kích “chiêm niệm” và “truyền giáo” của mình. “Kinh Mân Côi cũng là
một con đường loan báo và hiểu biết ngày một hơn, trong đó mầu nhiệm của Đức
Kitô được trình bày đi, trình bày lại ở nhiều mức độ khác nhau của kinh nghiệm
Kitô giáo. Đó là một trình bày mang tính cầu nguyện và chiêm ngưỡng, có khả
năng đào tạo người Kitô hữu theo trái tim của Đức Kitô … Kinh Mân côi vẫn giữ
được sức mạnh của nó và tiếp tục là một tài nguyên mục vụ có giá trị tố đẹp cho
mọi người loan báo Tin Mừng” .
Đức Thánh Cha chia sẻ với Giáo Hội rằng sự tin tưởng chạy đến cùng Đức
Maria, qua việc đọc kinh Mân Côi hằng ngày và việc suy niệm các mầu nhiệm đời
sống Chúa Kitô, sẽ nhấn mạnh rằng sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội trước hết
phải được nâng đỡ bằng việc cầu nguyện. Thái độ “lắng nghe” mà kinh Mân Côi gợi
lên, đem người tín hữu lại gần Đức Maria, Đấng “hằng ghi nhớ mọi điều ấy và suy
đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Việc siêng năng suy niệm Lời Chúa luyện tập
cho chúng ta sống hiệp thông sống động với Đức Giêsu. Dưới tác động của Chúa
Thánh Thần, Đức Maria giúp chúng ta đạt được “sự dạn dĩ thanh thản” làm cho
chúng ta có khả năng thông truyền cho người khác kinh nghiệâm về Đức Giêsu.
Dưới mái trường của Đức Maria, Giáo Hội chiêm ngưỡng dung nhan đầy lòng
thương xót của Đức Giêsu nơi những người anh chị em, đặc biệt nơi những người
nghèo khó và thiếu thốùn. Với sự ân cần từ mẫu mà Mẹ đã tỏ ra ở tiệc cưới Cana
(x. Ga 2,1-5), Đức Maria dạy nhà truyền giáo biết sống tế nhị, yêu thương và
quan tâm đến những vấn đề của con người.
Hình ảnh Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên đã để cho Thánh Thần thúc
đầy mà vội vã tiến bước (x. Lc 1,39-56) đem Chúa Giêsu trong cung lòng mình đến
cho nhà Elizabeth mời gọi các sứ giả Tin Mừng không được để cho nhiệt tình tông
đồ suy giảm đi, đặc biệt trong sứ vụ truyền giáo “đến với muôn dân” (Ad
Gentes).
Vào buổi sáng ngày Hiện Xuống, ai cũng biết là Mẹ Maria đã có mặt với
các Tông Đồ, hiệp nhất “cùng một lòng trong lời cầu nguyện” (x. Cv 1,14) trong
cộng đoàn tiên khởi được qui tụ sau khi Chúa lên trời, trong khi chờ đợi Chúa
Thánh Thần hiện xuống. Đức Maria đã tham dự vào buổi khởi đầu công cuộc phúc âm
hóa dưới tác động của Chúa Thánh Thần : ước gì Ngài là Ngôi Sao Sáng của công
cuộc phúc âm hóa luôn được làm mới lại mãi mà Giáo Hội, thừa lệnh Chúa, phải
xúc tiến và thực hiện, nhất là giữa thời buổi vừa khó khăn vừa đầy hy vọng này.
VII. KẾT LUẬN
Chúng ta vừa làm công việc tổng hợp một linh đạo truyền giáo được nói
đến trong một số văn kiện của các Đức Giáo Hoàng. Chúng ta hy vọng rằng linh
đạo truyền giáo sẽ làm cho lòng chúng ta bừng cháy lên nhiệt tình loan báo Tin
Mừng.
Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi
hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng. Tấm lòng với mọi người và với Giáo
Hội, một tấm lòng “dễ dạy” đối với Chúa Thánh Thần, một tấm lòng mới như của
Đức Maria