BẢN CHẤT, ĐỜI
SỐNG VÀ SỨ MẠNG
CỦA GIÁO HỘI TRONG THÔNG ĐIỆP
“THIÊN
CHÚA LÀ TÌNH YÊU”
NHẬP ĐỀ
Toàn
bộ Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, và đặc biệt Phần II, gợi lên trong
chúng ta những suy tư về Bản Chất, Đời Sống của Giáo Hội và nhất là hoạt động
bác ái như là Sứ Mạng của một Cộng Đoàn Yêu Thương. Và đó là chủ đề mà chúng ta
sẽ chia sẻ và trao đổi với nhau.
Ở
đây, xin được phép sử dụng hai tiếng “Yêu thương”, để có thể hiểu danh
từ “Caritas hay Amor”, như một thuật ngữ vừa bao gồm trong đó
tình yêu nam nữ, tình thương gia đình, tình bằng hữu, tình đồng bào, tình đồng
đạo, tình nhân loại, tình bác ái, đồng thời cũng vừa để xác định rõ hơn ý nghĩa
của Tình yêu, một Tình Yêu “bị đâm thâu”. Vì một tình yêu
chân thật bao giờ cũng gắn liền với hy sinh, nên trong hy sinh bao giờ cũng có
ít nhiều đau thương. Bước vào tình yêu là đi vào niềm vui, nhưng cũng là đi vào
đau khổ. Tình yêu mang đến cho ta những hạnh phúc ngọt ngào, nhưng không thiếu
những nỗi khốn khổ nhọc nhằn. Không biết có phải là bi quan, hay lãng mạn khi
chúng ta nghe bài hát của Trịnh Công Sơn và cảm thấy rất phù hợp : “Hãy
yêu nhau đi khi rừng thay lá… Hãy trao cho nhau muôn ngàn yêu dấu. Hãy trao cho
nhau hạnh phúc lẫn thương đau”. Vâng, “yêu là thế đấy !”
Và
từ kinh nghiệm của con người, tình yêu không phải chỉ là một cảm xúc “thật
mạnh” trong trái tim, vì “Cảm xúc đến rồi đi”, như Đức
Thánh Cha Bênêđictô nhận định : “Cảm xúc có thể là một tia sáng khai mở diệu
kỳ, nhưng tổng thể của tình yêu không phải như thế” (s.17). Vì thế,
tình yêu còn là một quyết định chọn lựa, một trách nhiệm dấn thân, bao gồm ý
muốn và hành vi tự hiến, “đòi hỏi cả ý chí và lý trí”
(s.17). Kinh nghiệm tình yêu cho biết : càng yêu mãnh liệt bao nhiêu thì càng
đớn đau nhiều bấy nhiêu.
Mầu
nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô cũng chính là kiểu mẫu của tình yêu đó. Chúng ta
không thể rao giảng Đấng Phục sinh mà không nói đến cuộc khổ nạn thương đau của
Người. Phục sinh là nụ cười chiến thắng của một tình yêu đạt đến tuyệt đỉnh,
của một trái tim “bị đâm thâu” (Ga 19,37), một trái tim bị thương tích. Thánh
Kinh mạc khải cho chúng ta biết vì “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga
4,16), nên Người là Đấng “chạnh lòng thương xót” (Lc
15,20-31) và tình yêu của Người là một tình yêu “tha thứ tất cả, tin tưởng, hy
vọng và chịu đựng tất cả” (1Cr 13). Theo ý nghĩa đó, thì chính Tình
yêu làm cho Thiên Chúa biết “đau khổ”, và chính đau khổ làm
cho Thiên Chúa “biết yêu”.
Mầu
nhiệm đau khổ của Thiên Chúa cũng là mầu nhiệm về sáng kiến, phương cách và
khả năng yêu thương vô tận của Người. Như Thông điệp nhấn mạnh : “Thiên
Chúa yêu thương con người đến độ trở thành con người, chạy theo họ đến độ đi
vào cõi chết và với cách thức này đã giao hòa công lý với tình yêu”
(s.10). Nơi Thiên Chúa, chẳng có sức mạnh nào mạnh mẽ hơn sức mạnh yêu thương
mà Đức Kitô đã khải mặc cho chúng ta : “Không có tình yêu nào cao cả hơn là chết cho
người mình yêu” (Ga 15,13). Với một tình yêu toàn năng, toàn tri,
toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ, và hoàn toàn tuyệt đối như thế đó,
Thiên Chúa mới có thể đồng hành và là một với con người trong mọi hoàn cảnh của
lịch sử. Như Đức Thánh Cha Bênêđictô đã khẳng định :
Đó là tình yêu
trong hình thức triệt để nhất. Chính cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức
Giêsu… (Ga 19,37) giúp chúng ta
hiểu được khởi điểm của Thông Điệp : Thiên Chúa là Tình yêu… Và cũng từ đó, có
thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Kitô hữu tìm được con
đường để sống và để yêu (s.12).
Trong
bối cảnh này, như là một cố gắng lắng nghe và học hỏi, để hiểu được những gì
mình đọc, và để sống được những gì mình hiểu, trước hết xin tóm lược một vài
nội dung chính yếu trong phần II của Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình yêu”,
với những câu hỏi :
·
Bản chất thực sự của Giáo Hội là gì ? Yêu thương
có phải là yếu tính của Kitô Giáo hay không ?
·
Tại sao yêu thương là đời sống của Giáo Hội ?
Phải chăng phục vụ và thực hiện yêu thương là lẽ sống, là ngọn nguồn duy nhất
mang ý nghĩa cứu thế và giá trị đến cho Giáo Hội ? Và đó có phải là trách nhiệm
không ngừng nghỉ để trở thành hiện sinh Kitô ?
·
Thế nào là sứ mạng yêu thương của Giáo Hội trong
thế giới hôm nay ?
Sau
đó, chúng ta sẽ chia sẻ một vài cảm nhận và nhận định tổng quát về Giáo Hội và
hoạt động yêu thương trong ánh sáng của Thông Điệp.
Yêu
thương là hơi thở của cuộc sống, là nhu cầu khẩn thiết (sát sườn, xa sườn ?)
của con người. Từ trong kinh nghiệm là người và làm người và qua những bươn
chải và chất vấn của cuộc đời, chúng ta có thể nhận thức rằng yêu là sống và
sống cũng là yêu. Yêu mới có thể sống được và được sống mới có thể yêu. Không
ai sống mà chẳng khao khát tình yêu thương, và cũng chẳng có ai yêu thương mà
lại không khao khát sự sống. Tình yêu và sự sống chỉ là một. Chẳng thế mà trong
trình thuật tạo dựng con người, Thiên Chúa đã “thổi hơi” vào Adam
và Eva, để trao ban cho họ sự sống từ tình yêu sung mãn của Người. Biết đâu từ
đó họ cũng phải “hít thở” nhau để mà sống. Nụ hôn là biểu tượng rất đẹp của
tình yêu, là một sự trao đổi “hơi thở”, chan hòa sự sống, sự
hiệp thông sâu thẳm của những người yêu nhau. Những chuyện tình trong nhân loại
khởi đầu từ thuở ấy.
Sự
sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi cũng thế, đó là sự sống vận hành đón nhận
và cho đi, là sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Đấng-Yêu-Thương, và Chúa Con, Đấng Được-Yêu-Thương,
và Chúa Thánh Thần là “Nụ Hôn” chung, là Tình Yêu và
Người Yêu của cả Chúa Cha và Chúa Con. Đó là tất cả mầu nhiệm, nguồn gốc và
nguồn mạch của tình yêu vĩnh hằng, đã tuôn đổ vào lòng đời, đã “nhập
thể” và “nhập thế”.
Vì
vậy, yêu hay không yêu, đó là vấn đề căn bản, là điều duy nhất cần thiết ở đời
này và đời sau. “Tôi yêu, nên tôi hiện hữu”. Đây không phải là vấn đề tranh
luận với chủ nghĩa duy lý khô khan : “Tôi tư duy, nên tôi hiện hữu”,
cũng như phong trào sùng bái tình cảm nhất thời : “Tôi cảm giác, nên tôi hiện
hữu”, hoặc là phản kháng thời đại : “Tôi lo âu, nên tôi hiện hữu”.
Thực ra, quan điểm về tình yêu như là lẽ sống, là nền tảng căn bản, để hiện hữu
của chúng ta phát lộ ra, là một đóng góp độc đáo và có thể tìm thấy trong bài
Thánh thi ca ngợi tình yêu của Thánh Phaolô (1Cr 13) mà Đức Thánh Cha nhận định
như là “Hiến Chương” cho mọi hoạt động yêu thương của Giáo Hội, cũng
như “cô đọng tất cả những suy tư” mà ngài triển khai trong Thông Điệp.
Giả như tôi có
nói được các thứ tiếng của loài người…, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng
là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác
tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi
(1Cr 13,1-3).
Chính
trong viễn tượng đó, chúng ta có thể xác định bản sắc làm người của chúng ta là
yêu thương, hay nói một cách triệt để hơn theo Thông Điệp, thì yêu thương chính
là “tính nhân bản đặc thù của con người” (s.28). Con người là
hữu thể yêu thương, hữu thể tương giao. Yêu thương là hiện hữu và tạo nên sự
sung mãn của hữu thể. Thật vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, chúng ta không
thể sống cũng như phát triển, nếu thiếu vắng yêu thương. Từ trong lịch sử tình
yêu mà Thánh Kinh đã tường thuật, chúng ta có thể suy tưởng và tin tưởng rằng yêu
thương là đặc ân của con người, con người đón nhận, vì trước hết “con
người là kẻ đã được yêu” (s.17), và được mời gọi vào đời để trở nên
yêu thương cho đời người, để “học yêu thương một cách từ từ, sao cho càng
ngày tình yêu đó càng ôm lấy tất cả mọi năng lực của chúng ta và mở ra cho
chúng ta con đường sống ngay chính” (Lời Giới thiệu Thông Điệp.) Do
đó, yêu thương không phải chỉ là một thuộc tính nhân văn, nhưng chính là thực
tại của mọi thuộc tính trong thân phận cũng như trong tiến trình là người và làm
người cho ra chất người. Và tính chất làm nên con thực sự là gì, nếu không phải
là nhân ái, là người có trái tim yêu thương rộng mở ? Con người trưởng thành
cuộc sống là con người có khả năng thiết lập được những tương giao tốt đẹp. Chỉ
có trưởng thành mới biết yêu và chỉ yêu mới biết mình trưởng thành. Trong ý
nghĩa đó, yêu thương là tiêu chuẩn đánh giá mức độ văn minh và trình độ văn hóa
cũng như sự phát triển tâm lý của một con người, của một xã hội. Gần đây, chúng
ta thấy trong các văn kiện, tài liệu học tập hay giáo huấn của Giáo hội, đặc
biệt là tư tưởng phát xuất từ Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, hay nhắc đến
một nền “văn minh tình thương”, trong một nền “văn hóa sự sống” là
như thế.
Có
một câu châm ngôn truyền thống của Giáo Hội, nghe nói là của Thánh Giáo Phụ
Irênê : “Deus homo factus est, ut homo fieret Deus” (Thiên Chúa làm
người để con người được làm Thiên Chúa). Ở đây, chúng ta có thể nói : Vì Thiên
Chúa là “Tình Yêu-ở-cùng-chúng ta” trong tất cả con người, cuộc đời
và sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu, nên nhờ kết hiệp với Người, ở trong Người và
tham dự vào tình yêu đó mà chúng ta có thể trở nên như Thiên Chúa là Tình yêu.
Điều này là do bản chất, ơn gọi và vận mạng của chúng ta. Trong yêu thương mà
con người có thể phát huy và thành đạt chính bản ngã đích thực của mình.
1. Giáo Hội :
Một Cộng Đoàn Yêu Thương
Nếu
nói với Thiên Chúa là nói với Tình yêu, hay nói về Thiên Chúa cũng là nói về
Tình yêu, thì khi bàn luận về Giáo Hội của Người, chúng ta không thể không đề
cập đến một Cộng Đoàn yêu thương, sống nhờ yêu thương và sống cho yêu thương.
Thánh Kinh diễn tả Giáo Hội, không phải như một xã hội lan rộng khắp hoàn cầu
và được tổ chức trong trật tự qui củ, nhưng trước hết như một sáng kiến đầy yêu
thương của Thiên Chúa. Giáo Hội được hiểu như một mầu nhiệm xưa kia ẩn tàng
trong lòng Thiên Chúa (Ep 1,9 ; Rm 16,25), được chuẩn bị từ muôn thuở trong
lịch sử Giao ước với Israel, nhưng đã đến thời được mạc khải như là “dân
mới của Thiên Chúa” (1Pr 2,10), được khai sinh dưới chân Thập giá,
trong mầu nhiệm Vượt qua của Đức Giêsu Kitô, và được chính thức thiết lập vào
ngày Lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2,4-41 ; 1,8).
Các
Giáo Phụ đã thường quan niệm về Giáo Hội với một hình ảnh rất đẹp, đầy yêu
thương, nhưng cũng rất bi thương. Giáo hội như là “Eva mới”, được
sinh ra từ cạnh sườn Đức Kitô, “Adam mới” (1Cr 15,45 ; Cl 3,10),
khi người đang an nghỉ trong kẻ chết, cũng như Eva xưa đã sinh ra bởi cạnh sườn
của Adam cũ khi ông đang ngủ say. Trong Tin Mừng Gioan, chúng ta nhớ đến trình
thuật về sự kiện “Máu cùng nước chảy ra” từ cạnh sườn của Đức Giêsu (Ga
19,34). Máu và nước trước hết là biểu trưng hy tế tình yêu của Con Thiên Chúa,
và đồng thời là biểu trưng Thần Khí được trao ban cho Giáo Hội, thông truyền sự
sống thần linh và tình yêu cho Giáo Hội, làm sống động Giáo Hội. Thần Khí yêu
thương ấy đã thấm nhập vào “xác thịt” Giáo Hội, làm cho Giáo
Hội chết đi và sống lại trong một đời sống mới.
Giáo
Hội là điểm hẹn của hai thế giới, là nơi gặp gỡ tình yêu giữa trời và đất, siêu
nhiên và tự nhiên, thần thiêng và phàm trần. Vì nối tiếp Thân thể Đức Kitô,
Giáo Hội trở thành “trung tâm bác ái”, “ngôi
nhà tình thương”, là “căn lều của tình yêu” Thiên Chúa
cắm giữa nhân loại. Đó là mầu nhiệm của một cơ chế “thần nhân”, bao
gồm những người được thừa hưởng ơn cứu độ trong Đức Kitô (Cv 2,47 ; 1Cr 1,18),
là nơi nhân loại có thể tìm gặp được ánh sáng ấm áp của tình yêu Thiên Chúa,
nhờ đó mà được phục hồi sự sống (Rm 5,12), được giao hòa và hiệp nhất với nhau
(Ga 11,52 ; Ep 2,15-18).
Chính
vì vậy mà khi suy nghĩ về bản chất hay nguyên lý thống nhất của đời sống Giáo
Hội, Đức Thánh Cha Bênêđictô, trong Thông điệp này, đã không nhấn mạnh đến khía
cạnh pháp lý, cơ chế, phẩm trật của Giáo Hội, nhưng đặc biệt hướng cái nhìn của
chúng ta về Giáo Hội, tập trung “vào cạnh sườn được khai mở của Đức Giêsu… và
qua đó chúng ta có thể nhận ra kế hoạch của Chúa Cha, Đấng vì yêu (Ga 3,16) đã sai Con yêu dấu của mình đi
vào trần gian, để cứu độ nhân loại” (s.19). Như thế Thân Thể của Giáo Hội phát sinh từ Thân Mình chịu
“đóng
đinh và phục sinh” của Đức Kitô. Đó là cội nguồn, là bản tính sâu xa
của Giáo Hội, nghĩa là Giáo Hội đến từ cạnh sườn của Đức Kitô, từ trái tim “bị
đâm thâu” của Người (Ga 19,37 ; Dcr 12,10).
Trong
cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá xưa như một biến cố vĩnh cửu của tình yêu,
Người đã “trao ban Thần Khí” cho Giáo Hội (Ga 19,30). Và như Thông
điệp nhận định, đó là sự “khởi đầu cho quà tặng là Chúa Thánh Thần mà
Người sẽ ban sau khi Phục sinh” (Ga 20,22), (s.19). Và Thánh Thần sẽ “tuôn chảy từ nội tâm của các
tín hữu” (Ga 7,38-39), vì
Người là “sức mạnh bên trong làm hòa nhịp trái tim của họ với trái tim của
Đức Kitô và thúc đẩy họ yêu thương anh em mình như chính Đức Kitô đã yêu họ,
khi Người cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-13) và đặc biệt khi Người hiến dâng mạng sống của mình cho
tất cả”. (Ga 13,1 ; 15,13)
(s.19).
Với
hình ảnh “trái tim bị đâm thâu” như một kinh nghiệm nguyên thủy về
Giáo Hội, Thông điệp giúp chúng ta xác tín rằng Giáo Hội trên hết và trước hết
là Cộng Đoàn của một “tình yêu tự hiến”. Không thể yêu
thương được nếu như trái tim không bị “đâm thâu”, để mở rộng và dâng
hiến. Chúng ta có thể nhận thấy Thiên Chúa đã đi bước trước trong lịch sử,
trong sáng kiến và hành động yêu thương của Người. Và Giáo Hội là ai, nếu không
phải là “Hiền thê” của Đức Kitô ? (2Cr 11,2). Giáo Hội được mời để
kết hiệp với Người mà sinh ra một “gia đình Công giáo” (theo đúng ý
nghĩa của từ ngữ), mang hình ảnh và đặc tính Chúa Ba ngôi. Nhờ vậy mà Giáo Hội
có khả năng liên kết mọi dị biệt của nhân loại, vượt qua mọi chia rẽ oán hờn,
thích ứng với mọi nền văn hóa (Cv 10,13 ; 1Cr 12,13 ; Cl 3,11 ; Gl 3,28), và mở
rộng vòng tay đón nhận toàn thể vũ hoàn.
(Mt 28,19).
Từ
viễn tượng Thánh Kinh đó, Thông điệp đã nói lên bản tính yêu thương và cách
thức yêu thương của mình. Bản tính và cách thức yêu thương ấy có cội nguồn sâu
xa và kiểu mẫu là chính sự thông hiệp tình yêu của Ba Ngôi hiện diện trong tất
cả mọi người và trong từng người (s.19). Đức Thánh Cha Bênêđictô đã nhấn mạnh ý
tưởng này, khi người trích dẫn câu nói của Thánh Augustinô : “Nếu
anh thấy tình yêu, anh thấy Ba Ngôi cực thánh”. Đó là
Đấng-Yêu-Thương, Đấng-Được-Yêu-Thương, và Tình-Yêu-Thương. Chính yêu thương là
bản chất của Thiên Chúa đã làm nên bản chất của Giáo Hội, đưa Cộng Đoàn tính
của Thiên Chúa vào Cộng đoàn tính Giáo Hội, để có thể cùng đưa toàn thể lịch sử
nhân loại vào lịch sử cứu độ. Phải chăng Cộng Đoàn Thiên Chúa phản ảnh trong
Cộng Đoàn Giáo Hội, hay phản ảnh trong bất cứ một Cộng đoàn nhân loại biết yêu
thương ? “Ubi caritas et amor, Deus ibi est”. Nếu Thiên Chúa là Tình
yêu, thì Người cũng là Thiên Chúa “cho chúng ta”. Như trong lời kết
thúc Phần I của Thông điệp, chúng ta đọc thấy :
Tình yêu mang
tính thiên linh vì từ Thiên Chúa mà đến và giúp chúng ta kết hợp với Thiên
Chúa, và trong tiến trình kết hợp này, giúp chúng ta trở thành một “chúng tôi”,
vượt thắng mọi chia rẽ và làm cho chúng ta nên một, để rồi cuối cùng “Thiên
Chúa có toàn quyền trên muôn loài (1Cr 15,28) (s.18).
Thiên
Chúa đã và đang thực hiện biết bao nhiêu điều kỳ diệu cho nhân loại chúng ta.
Do đó, “vì loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng ta”, mà Thiên
Chúa đã thực hiện yêu thương và làm cho yêu thương hiện diện bao trùm trong
toàn bộ các Mầu nhiệm Sáng tạo, Mạc khải, Cứu độ và Thánh hóa. Trong ý nghĩa
này, thì cùng đích của Giáo Hội không phải là hiện hữu cho chính mình, nhưng là
hiện hữu cho và hướng đến Vương quốc của Tình yêu vĩnh hằng, để Thiên Chúa có
thể ở cùng con người và con người có thể ở cùng Thiên Chúa và là một với Thiên
Chúa, trong một mối tình trọn vẹn đến bất tận. Đó là “giấc mơ nguyên thủy của con
người”, và sự kết hợp này, như Thông điệp triển khai thêm, “không
phải là sự tan biến, chìm sâu vào một đại dương vô danh của thần tính, nhưng là
sự hợp nhất tạo nên tình yêu, trong đó cả hai - Thiên Chúa và con người - ở lại
trong tình yêu và hoàn toàn trở thành một”. (s.10).
Có
yêu thương như thế, Giáo Hội mới là Hội “Thánh” (Ep 5,26), một Cộng đoàn
của các “Thánh” (Cv 9,13), vì tình yêu là “linh thánh”. Tuy
chỉ là một “đoàn chiên bé nhỏ” (Lc 12,32), nhưng Giáo Hội lại hàm chứa
một giá trị và phẩm giá vô biên, vì được xây dựng vững chắc trên nền tảng tình
yêu Thiên Chúa. Giáo Hội chính là Tình yêu Thiên Chúa nối dài. Giáo Hội không
có bản sắc và hiện hữu nào khác ngoài bản sắc và hiện hữu của chính Đức Kitô,
là vị Hôn phu của Giáo Hội, là hiện thân sinh động của một tình yêu hoàn hảo,
và tình yêu đó đã chọn lấy hy sinh làm lẽ sống. Như vậy, nói theo kiểu Thánh
Phaolô, để “Thập giá của Đức Kitô khỏi trở thành vô ích” (1Cr 1,17),
biến cố “đóng đinh và phục sinh” của Người vừa tỏ bày và khẳng định
yếu tính duy nhất của Thiên Chúa là tình yêu, vừa vén mở cho chúng ta thấy rằng
: có sống yêu thương mãnh liệt đến độ dám hiến dâng chính mình cho Thiên Chúa
và cho tha nhân, thì hiện hữu của chúng ta mới đạt đến mức thành tựu sung mãn.
Yêu thương là yếu tính, là trọng tâm và tuyệt đỉnh của đời sống Kitô giáo.
Trong ý nghĩa này, chiều kích “Eros” và “Agape” của tình
yêu gặp nhau.
2. Giáo Hội
sống cho Yêu Thương
Đó
là lý do tại sao yêu thương là cơ sở chủ yếu và cội nguồn của nền luân lý, lối
sống đạo đức hay “định hướng” linh đạo Kitô. Vì yếu tính của Giáo Hội là yêu
thương, nên “luật pháp” của Giáo Hội là giới răn yêu thương, theo gót
chân và kiểu mẫu tình yêu của Đức Kitô : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga 15,12). Đây là một “mệnh lệnh” duy
nhất (Mc 12,29-31 ; Mt 22,35-40 ; Lc 10,25-28), nhưng cũng là một lời “truyền
dạy” tha thiết nhất (Ga 15,14 ; 17) mà Đức Kitô đã ban bố cho Giáo
Hội, như điều kiện thiết yếu, như dấu hiệu cụ thể, để chúng ta có thể trở thành
môn đệ và bạn hữu của Người : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy
ở điểm này : là anh em có lòng thương yêu nhau” (Ga 12,34).
Thực
ra thì trong tình yêu, không ai có thể “ép buộc” hay “ra lệnh” cho chúng
ta phải yêu, vì bị ép buộc vì bất cứ lý do gì thì chúng ta không còn hoàn toàn
tự do nữa. Một tình yêu khống chế, áp đặt chỉ là một “ngục tù” làm ngộp
thở con người. Vì thế, nhiều người có thể ngộ nhận khi nghe đến thuật ngữ “giới
luật yêu thương”. Ở đây, chúng ta không nhất thiết phải hiểu giới
luật như là một thứ “lề luật” nghiêm khắc trong những
hệ thống pháp trị đáng sợ của con người, nhưng là một “đề nghị”, một lời
mời gọi khẩn thiết, một lời “van xin” tha thiết nhất, hướng
dẫn chúng ta bước vào con đường và lối sống yêu thương, bởi vì, như trong lời
giới thiệu, Thông Điệp đã giải thích rằng :
Thiên Chúa
không chỉ đã cống hiến cho chúng ta tình yêu, nhưng trước hết Ngài đã sống tình
yêu đó, và bằng rất nhiều cách thế, Ngài gõ cửa tâm hồn chúng ta để khơi dậy
tình yêu, chúng ta đáp trả tình yêu Ngài (s.4).
Tuy
nhiên, vì hành vi yêu thương là một hành vi tự do nhất. Con người yêu thương
trung thực là con người “vượt qua” mọi biên giới, mọi hàng
rào ngăn cách, dám vứt bỏ mọi sự, vượt qua chính mình, không “nhốt”
mình trong tồn tại ích kỷ, để có thể từ bỏ hay quên đi chính mình, trao ban bản
thân và hiến dâng chính mình cho yêu thương như một chủ thể tự do, như Đức
Giêsu, Đấng đã tự do “yêu thương cho đến cùng” (Ga
13,1) Thế nên, tự do không phải là muốn làm gì thì làm, nhưng là tự đảm nhận
một trách nhiệm, một chọn lựa cơ bản, để nhập cuộc, để gắn bó, để dấn thân, để
trở thành mình, để hoàn toàn tự do yêu thương. Yêu thương trở thành một thứ “kỷ
luật nội tâm” của con người có ý thức và trưởng thành trong lòng mến
hơn là “luật lệ bên ngoài”.
Trong
ý hướng đó, tự do là thuộc tính của tình yêu và chắp cánh cho tình yêu vươn cao
đến vô tận. Chính tình yêu réo gọi tình yêu, và tình đáp lời tình, nên Đức
Benedictô lập lại ngay trong phần dẫn nhập : “Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta
trước (1Ga 4,10), nên
tình yêu không còn là một “giới luật”, nhưng là lời đáp trả cho hồng ân tình
yêu, qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta” (s.1). Trước những chiều kích khác nhau và những cách thức tự do
hành động của Thiên Chúa, chúng ta chỉ biết đáp trả bằng lời chúc tụng và lối
sống yêu thương như một “luật mới”, luật của Tin Mừng, của
đời sống mới. Trong ý nghĩa này thì “tình yêu có thể trở thành “bó buộc” vì trước đó tình yêu đã được ban tặng”
(s.14). Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Người cũng biết mong biết chờ tình yêu
đáp trả của chúng ta. Khi biết chờ biết mong là lúc chúng ta bắt đầu biết yêu.
Như
thế, Thông điệp đã đề xuất những hệ luận tất nhiên của sứ vụ làm người Kitô
hữu, nghĩa là :
Cộng đoàn trở
thành chứng nhân cho tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn làm cho nhân loại trở
thành một gia đình duy nhất trong Con của Người. Mọi hoạt động của Giáo Hội đều
là sự biểu lộ một tình yêu muốn tìm sự thiện toàn vẹn cho con người… và tìm
cách phát triển con người trong những lãnh vực khác nhau của cuộc sống và sinh
hoạt nhân văn (s.19).
Chúng
ta thấy rằng Yêu thương chân thật không tự giới hạn trong những lời nói, nhưng
phải được thể hiện bằng hành động và chứng thực qua cuộc sống. Đây là lựa chọn
cơ bản của Giáo Hội, của hành vi tôn thờ, của niềm tin vào Thiên Chúa là Tình
yêu, gắn liền với một đời sống dấn thân yêu thương. Thông Điệp cũng xác nhận
mối tương quan này : “Đức tin, phương tự, ethos (đạo đức) thấm
nhập vào nhau như một thực tại duy nhất tạo thành agape trong sự gặp gỡ với
Thiên Chúa” (s.14). Từ sự lựa chọn cơ bản đó, chúng ta có thể rút ra
những yếu tố tiêu biểu liên quan đến Giáo Hội như một Cộng Đoàn yêu thương và
dấn thân sống đời yêu thương. Đó là một Cộng đoàn có trách nhiệm, một Cộng đoàn
hiệp nhất, và một Cộng đoàn phục vụ.
a. Cộng Đoàn Trách Nhiệm
Trước
hết, Giáo Hội sống đời yêu thương là một Cộng đoàn có trách nhiệm. Như Thông
Điệp nhấn mạnh, yêu thương là “trách nhiệm của từng người Kitô hữu, cũng là
trách nhiệm của toàn thể cộng đoàn Hội Thánh, đó là nghĩa vụ của mọi cấp : từ cộng
đoàn địa phương đến Giáo Hội cùng miền cho đến Hội Thánh hoàn vũ như một tổng
thể. Hội Thánh trên phương diện là cộng đoàn, phải thực thi bác ái” (s.20).
Điều này cho thấy yêu thương không phải chỉ là một tình cảm tự nhiên “chợt
đến rồi chợt đi”, nhưng còn phải được thể hiện cụ thể bằng trách
nhiệm tạo nên sự sống và hạnh phúc cho những người mình yêu thương.
Hiểu
như vậy, thì trách nhiệm của yêu thương trước tiên là khả năng biết lắng nghe,
biết nhìn thấy, biết quan tâm, biết tiếp cận, biết thông cảm, biết nhạy cảm,
biết phân định và chạnh lòng, rồi mới có thể đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết
của tha nhân. Chúng ta có thể đọc thấy rất nhiều trong các Thánh Vịnh : “Lạy
Chúa, Ngài nghe thấy ước vọng của kẻ nghèo hèn ; Ngài cho họ an lòng và lắng
tai nghe họ, để bênh đỡ kẻ mồ côi và người bị áp bức” (Tv 10,17),
hay là : “Con kêu lên Ngài, Lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con. Xin lắng tai và
nghe tiếng con cầu. Xin biểu lộ tình thương diệu kỳ của Chúa” (Tv
17,6-7). Cũng như trong Phúc Âm, rất nhiều lần, Đức Giêsu đã động lòng xót
thương khi Người “nhìn thấy” đám đông đói khát Tin Mừng (Mc 6,34), như đói cơm
bánh và khát nước sự sống (Mc 8,2). Người run lên bồi hồi vì lòng trắc ẩn với
những kẻ bạc phước trong xã hội, những người phong cùi (Mc 1,41), què quặt, mù
lòa, câm điếc (Mt 20,34), những bà mẹ mất con hay những người chị mất em (Lc
7,13 ; Ga 11,33) và ngay cả những người tội lỗi bất hạnh nhất (Lc 23,34). Nhưng
tình yêu của Người không chỉ biểu lộ và dừng lại ở những nỗi xót xa đó, mà còn
dẫn hành động nữa. Người đã ra tay cứu giúp những kẻ khốn cùng. Có như thế, thì
khởi đi từ khả năng biết lắng nghe, biết nhìn ra những nhu cầu và đau khổ của
người lân cận để đáp ứng, để đi đến những trách vụ hay nhiệm vụ phải thi hành
vì yêu thương.
Thế
nên, ý thức về trách nhiệm cũng là ý thức về trách vụ xây dựng một cộng đoàn
yêu thương, như sách Công vụ Tông Đồ mô tả thuở ban đầu của đời sống Giáo Hội :
“Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau,
và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi
người tùy theo nhu cầu” (Cv 2,44-45). Tương tự như thế, theo Thông điệp
nhìn nhận, thì hài hòa với trách nhiệm “cầu nguyện” và trách nhiệm “phục
vụ lời” là trách nhiệm “phục vụ bàn ăn”. Trách nhiệm phục
vụ bàn ăn cũng là “một thừa tác vụ thiêng liêng”, một
“trách
vụ cơ bản của Hội Thánh”. Nói theo kiểu của Thông Điệp, đó là “tình
yêu tha nhân có tổ chức” (s.21). Bởi vì, bảy người được tuyển chọn
để chăm sóc cho những ai thiếu thốn trong Cộng đoàn, đặc biệt là các bà góa,
như là khơi điểm cho phận vụ Phó tế sau này, đều là những người đầy “Thần
khí và khôn ngoan”
(Cv 6,1-6). Như thế, trong đời sống Giáo Hội, ở đâu có trách nhiệm thì ở đó mới
có tình yêu thương thực sự. Theo cảnh ngữ và nhận định của Thông điệp, thì
chính nhờ “thừa tác vụ yêu thương”
thực tế và cụ thể này, mà tinh thần hiệp nhất trong Cộng đoàn Giáo Hội sơ khai
được tăng trưởng, mọi chia rẽ đố kỵ và bất bình đẳng nơi các thành viên cũng
được xóa tan.
b. Cộng Đoàn Hiệp Thông
Như
vậy, hiệp thông trong yêu thương là yếu tố nền tảng làm nên Giáo Hội. Tuy Thông
điệp không triển khai nhiều về chiều kích này, nhưng đã đưa một nhận xét rất
xác thực : sự hiệp thông của Giáo Hội “nằm ở chỗ các tín hữu xem tất cả của cải đều
là của chung và giữa họ không có sự phân biệt giầu nghèo… không thể có sự nghèo
đói, như việc có người bị từ chối những nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống
xứng đáng với nhân phẩm” (Cv 4,32-37), (s.20). Trong diễn tiến của
lịch sử, chúng ta có thể nhận thấy rằng, dưới sự hướng dẫn của Thần Khí và nhờ
tình yêu của Đức Kitô thúc đẩy, tinh thần hiệp nhất của Giáo Hội được tỏ lộ qua
việc chăm sóc lẫn nhau (Cv 15,12 ; 21,20 ; 1Th 1,7 ; 2,14 ; 2Th 1,4) thăm viếng
lẫn nhau (1Cr 16,19) ; Rm 16,16 ; Ph 3,21), thương yêu đùm bọc lẫn nhau, và như
thế trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành đúng theo ý định của Thiên Chúa. Nếu Giáo
Hội phát sinh từ “trái tim bị đâm thâu” của Đức Giêsu trên Thập giá, thì yêu
thương phải có chỗ ưu tiên trong hữu thể và mọi sinh hoạt của Giáo Hội. Vì được
qui tụ do sự hiệp nhất tình yêu và sự sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, nên Giáo Hội là “gia đình của Thiên Chúa giữa trần gian”.
Và trong gia đình này, như Thông điệp nhấn mạnh, “không được phép có những
người túng thiếu” (s.25). Thật là ý nghĩa khi Thông điệp trích dẫn
Thư gửi cho Giáo đoàn Galata : “Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm
điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong đại gia đình đức tin”
(Gl 6,10). Điều kiện tạo nên sự hiệp nhất trong Giáo Hội là như thế, luôn
luôn được yêu thương khơi dậy và thúc đẩy.
c. Cộng Đoàn Phục Vụ
Như
chúng ta đã nói, Giáo Hội được sinh ra từ tình yêu Thiên Chúa, lãnh nhận tình
yêu, nên có bổn phận và trách nhiệm trao ban tình yêu. Vì thế, Giáo Hội nhất
thiết là một Cộng đoàn Phục Vụ Yêu Thương. Không có tình huống nào của dân
Chúa, nhất là trong tình huống đó, có đau khổ lầm than về tinh thần cũng như
vật chất, mà Giáo Hội lại có thể hững hờ, và tỏ ra xa lạ. Một Giáo Hội sống
tinh thần yêu thương là một Giáo Hội có khả năng đồng cảm, đồng hành và liên
đới với những lời van xin và những giọt nước mắt của tất cả và của từng anh chị
em trong gia đình. Trong ý nghĩa này, yêu thương trong Giáo Hội là một ơn gọi,
một đặc sủng, liên kết với một nhiệm vụ, đó là phục vụ, vì “anh em như thể tay chân”,
(nói theo kiểu Việt Nam) và có một mục đích duy nhất, đó là xây dựng Nhiệm Thể
Đức Kitô, (nói theo kiểu Thánh Phaolô). Do đó, như Thông điệp ghi nhận, “tình
yêu trở thành việc phục vụ mà Hội Thánh thực hiện để luôn đáp ứng với những đau
khổ và nhu cầu, kể cả những nhu cầu vật chất của con người” (s.19).
Đây là công việc phục vụ được thiết lập trong cơ cấu nền tảng của chính đời
sống Giáo Hội, mà chúng ta thấy Đức Thánh Cha Bênêđictô nhấn mạnh và lập lại
nhiều lần trong Thông Điệp :
Theo dòng thời
gian và với sự bành trướng dần dần của Hội Thánh, việc thực thi bác ái được xác
định như một lĩnh vực căn bản cùng với việc ban phát các bí tích và việc rao
giảng Lời Chúa : việc thực thi bác ái đối với các góa phụ và trẻ mồ côi, với
các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về
bản chất của Hội Thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc Âm.
Hội Thánh không thể chểnh mảng trong việc thực thi bác ái cũng như chểnh mảng
với bí tích và Lời Chúa (s.22).
Hơn
nữa, tiếp nối với truyền thống sinh hoạt của Cộng Đoàn Kitô hữu tiên khởi và
thần học của các Giáo phụ, Thông điệp còn nối kết phục vụ yêu thương với Bí
tích Thánh Thể trong bối cảnh của Ngày Chúa Nhật. Chúng ta đọc thay :
Khi đến tham dự
Nghi lễ “Bẻ Bánh”, những người khá giả ban phát theo khả năng của
họ, mỗi người ban phát bao nhiêu tùy ý. Đức Giám Mục sử dụng lễ vật đó để nâng
đỡ các trẻ mồ côi, các bà góa và những ngườ, vì bệnh hoạn hay những lý do khác,
đang bị túng quẫn, cũng như các tù nhân và cho những người ngoại kiều
(s.22).
Có
như thế thì Giáo Hội mới có thể là một Cộng Đoàn thực sự “đứng đầu trong tình yêu”
(s22). Hay nói cách khác, phục vụ yêu thương là dấu chứng quyết định cho Cộng
đoàn Kitô hữu, làm cho đời sống Giáo Hội có một ý nghĩa và một giá trị đích
thực. Chính ở đây hay trong yếu tố này mà chúng ta có thể cảm nhận niềm hứng
khởi sâu xa thúc đẩy Giáo Hội hiện diện trong những bối cảnh văn hóa, kinh tế,
chính trị và xã hội khác nhau của thế giới con người.
3. Sứ Mạng
Yêu Thương trong Thế Giới Ngày Nay
Vì
yêu thương là nguồn mạch và nguyên lý của mọi ân huệ và sứ mạng của Giáo Hội,
nên Giáo Hội là dấu chỉ, là “bí tích tình yêu” của Thiên Chúa
giữa trần gian. Nếu như yêu thương chân thật không chỉ giới hạn giữa hai người
yêu nhau, nhưng tất cả đều phải hướng tới những con người khác, thì từ vòng
tròn nhỏ bé của mình, Cộng Đoàn Giáo Hội cũng phải tỏa rộng yêu thương, vươn
tới cộng đoàn nhân loại. Giáo Hội biết mình không chiếm hữu tình yêu Thiên
Chúa, nhưng được tình yêu đó chiếm hữu và sai đi loan báo, thực hiện và thắp
sáng yêu thương trên cõi đời. Thông điệp nói rất rõ :
Caritas-Agape
phải vượt qua ranh giới của Hội Thánh. Dụ ngôn người Samaritano nhân hậu vẫn
phải là tiêu chuẩn, đòi buộc tính phổ quát của tình yêu, một tình yêu luôn
hướng đến những người túng quẫn mà chúng ta ‘tình cờ’ gặp gỡ (Lc 10,31), dù họ là ai đi nữa” (s.25) trong cuộc đời này.
a. Tình hình thế giới : hy vọng và thách đố
Là
“Người
Samaritanô nhân hậu” của thế giới hiện đại, chắc chắn Giáo Hội đã “lắng
nghe” và nhìn ra “những dấu chỉ của thời đại”, để
có thể đáp ứng và tìm được những cách thức thi hành sứ mạng và phục vụ yêu
thương cho thích hợp.
Có
thể nói, nhờ công cuộc canh tân về mọi phương diện của Công Đồng Vatican II, mà
một nguồn sinh lực mới đã làm cho Giáo Hội năng động, khả tín, hợp thời hơn và
có thể cảm nhận nhu cầu của con người một cách trực tiếp hơn. Vì chúng ta đang
sống trong một thế giới với những đổi thay nhanh chóng và tiến bộ khác thường
về mặt văn hóa và tôn giáo, về mặt tổ chức xã hội và hệ thống kinh tế, chính
trị, kinh doanh, nên các phương tiện truyền thông đại chúng đã làm cho con
người và các dân tộc rất khác biệt gần gũi nhau hơn. Cái “ngôi làng toàn cầu”
càng ngày càng hiện rõ như một thực tại sống động trong tiến trình “toàn
cầu hóa” của một thế giới mới, và một trật tự mới đang hình thành,
trong đó những quốc gia nhỏ bé như đất nước chúng ta cũng có thể nắm giữ một
vai trò, và có tiếng nói gần xa.
Từ
nhận thức mới hay ý thức mới về “tình liên đới giữa các quốc gia”
trong thế giới ngày nay, những gì, chúng ta có thể hy vọng ? Trước hết, chúng
ta nhận thấy ở nhiều nơi trên thế giới, sự văn minh và những tiến bộ của con
người thường mở ra những chân trời hứa hẹn, nơi các phong trào văn hóa vì tự do
dân chủ, vì nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền được tôn trọng hơn. Thêm vào đó
là những cuộc đối thoại và hòa giải giữa các tôn giáo, các phong trào phụ nữ và
cứu giúp trẻ em, các phong trào bảo vệ môi sinh, các cuộc tìm kiếm di sản và
giá trị tinh thần. Một hiện tượng quan trọng khác nữa là sự xuất hiện rất đa dạng
và triển nở của nhiều hiệp hội nhân đạo, nhiều hình thức thiện nguyện và phục
vụ bác ái. Trong bối cảnh thay đổi nói trên, Thông điệp có ghi nhận rằng : “Đây
là một phương diện vừa thách thức vừa động viên của việc toàn cầu hóa”
(s.30). Và như thế, Thông điệp nói tiếp :
Chúng có trong
tay không biết bao nhiêu là phương tiện để sử dụng hầu đem lại sự trợ giúp nhân
bản cho anh chị em đang túng quẫn, đặc biệt là các hệ thống tân tiến để phân
phát lương thực và quần áo cũng như sẵn sàng cho cá khả năng đón nhận và cung
cấp nơi trú ngụ. Như thế, việc chăm sóc tha nhân vượt qua ranh giới các tập thể
của quốc gia, để lan rộng đến mọi chân trời của thế giới. (s.30).
Theo
Thông điệp, thì cũng trong tinh thần liên đới giữa các dân tộc với nhau mà ngày
nay chúng ta có thể nhìn thấy “nhiều hình thức cộng tác giữa các cơ quan
Nhà Nước và Giáo Hội” (s.30). Và “việc cộng tác này đã mang lại nhiều kết quả”
tốt đẹp. Một trong những thí dụ là : “nhờ sự trong sáng trong hoạt động”
bác ái, cũng như sự trung tín hoàn thành nhiệm vụ làm chứng cho tình yêu, nên
Giáo Hội đã có thể “làm sinh động các cơ quan dân sự bằng tinh
thần Kitô giáo và đòi buộc một sự cộng tác hỗ tương” (s.30) khiến
cho việc phục vụ bác ái được thực hiện trên cơ sở của đạo đức và phẩm hạnh.
Thái độ trong sáng của Giáo Hội như “men trong bột”, như “hoa
thơm diệt trừ cỏ dại” và thách đố những cám dỗ biển thủ hay tham
nhũng. Do đó, Thông điệp xác nhận đã có “sự nối kết thật tốt đẹp giữa việc Phúc âm
hóa và hoạt động bác ái” (s.30).
Chúng
ta có thể cảm thấy phấn khởi và hy vọng trước những thành tựu về phương diện
đó. Tuy nhiên, qua các biến cố bi thảm, các cuộc tranh chấp và chiến tranh giữa
nhiều dân tộc, xẩy ra gần đây hay còn đang xẩy ra trên trái đất này, chúng ta
phải thận trọng và đặt lại vấn đề nhiều lắm. “Mỗi ngày chúng ta càng ý thức
hơn”, như Thông điệp nhận thấy, “có nhiều đau khổ trên thế giới do sự thiếu
thốn vật chất cũng như tinh thần gây nên, dù cho có nhiều tiến bộ về khoa học
và kỹ thuật” (s.30). Có nhiều thời cơ, nhưng cũng có lắm nguy cơ. Ở
đây chúng ta có thể trích dẫn nhận định của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, tuy
đã 40 năm rồi, nhưng còn rất chính xác về hiện tình thế giới :
“Chưa bao giờ
nhân loại dồi dào của cải, khả năng và quyền lực kinh tế như ngày nay, vậy mà
tới nay một phần rất lớn nhân loại trên thế giới đang quằn quại vì đói ăn và
thiếu thốn, rồi biết bao nhiêu người đang chịu cảnh mù chữ. Chưa bao giờ con
người ý thức mãnh liệt được sự tự do như ngày nay, đang khi đó lại thấy sống
dậy những hình thức nô lệ mới mẻ về mặt xã hội cũng như tâm lý. Trong lúc đang
mãnh liệt cảm thấy sự duy nhất cũng như sự lệ thuộc lẫn nhau trong tình liên
đới cần thiết, thì thế giới lại bị lôi kéo kịch liệt theo những chiều hướng
tương phản do những lực lượng chống đối nhau… Sau hết, người ta nỗ lực đi tìm
một tổ chức trần thế hoàn hảo hơn, nhưng lại không lo tiến tới sự phát triển
tinh thần tương xứng” (Gaudium et
Spes, s.4).
Nếu
đó là thân phận con người trong thế giới hiện đại chúng ta đang sống, thì Giáo
Hội có thể làm gì ? Giáo Hội có thể thi hành sứ mạng và phục vụ yêu thương bằng
những phương thế nào ?
b. Khía Cạnh Đặc Biệt của Sứ Mạng Yêu Thương
Để
làm chứng cho Tình yêu Thiên Chúa cách hữu hiệu, Giáo Hội có bổn phận đẩy mạnh
và “gia tăng nhiều tổ chức dấn thân cho con người trong những nhu cầu khác
biệt” (s.31) bằng cách cởi mở lòng mình ra với thế giới, đối thoại
với mọi thực tại trần gian, tham gia vào đời sống văn hóa xã hội của nhân loại
theo đúng tinh thần Phúc Âm. Bởi vì Thiên Chúa là Tình yêu đã khắc ghi “mệnh
lệnh của tình yêu tha nhân” (s.31) trong bản tính con người, nên sự
hiện diện của Giáo Hội giữa trần gian là một sự hiện diện có trách nhiệm “đánh
thức” mệnh lệnh tình yêu này, đã thường bị lu mờ hay quên lãng trong
dòng lịch sử (s.31). Thế nhưng có một điều quan trọng mà Thông điệp nhắc nhở là
làm sao trong mọi hoạt động yêu thương đó, Giáo Hội vẫn giữ vững được “sức
mạnh soi sáng trọn vẹn của mình, chứ không bị tan biến như một dạng hỗ trợ
chung chung vậy” (s.31). Điều đó có thể hiểu rằng : khi đem ánh sáng
tình yêu chiếu soi vào môi trường nhân sinh, Giáo Hội “đánh thức” con
người, hòa hợp với mọi người mọi giới, nhưng không “đánh mất” bản sắc
Kitô của chính mình. Vì thế, Thông Điệp đã nghĩ đến nhiều phương án nền tảng có
liên quan đến việc phục vụ yêu thương.
1)
Mẫu Gương “Người Samaritanô nhân hậu”
Trước
tiên, theo mẫu gương trong dụ ngôn về “Người Samaritano nhân hậu”, thì
mọi hoạt động yêu thương mang đặc tính Kitô giáo là “lời đáp trả những nhu cầu
khẩn cấp trực tiếp trong một hoàn cảnh cụ thể” (s.31). Giáo Hội thực
hiện yêu thương bằng cách, như Thông điệp dự kiến, “cho người đói lương thực, cho
người trần truồng quần áo, bệnh nhân phải được chữa trị, và tù nhân phải được
thăm viếng…” (s.31). (Nói theo kiểu Việt Nam, những hoạt động này là
những điều được cô đọng trong kinh “Thương người có 14 mối”, mà chúng
ta vẫn thường đọc trong các ngày Chúa Nhật).
Hơn
nữa, Thông điệp còn lưu ý đặc biệt đến “cách cho” cũng quan trọng như “của
cho” vậy, bởi vì “con người luôn cần đến tình người. Họ cần
đến sự quan tâm của trái tim” (s.31). Thế nên, khi làm việc bác ái,
không phải chỉ là thực hiện những gì cần thiết đúng nơi đúng lúc cho “người
thân cận”, nhưng còn phải tôn trọng và chú trọng đến con người của
họ với tất cả tấm lòng, để họ có thể “cảm nhận được sự phong phú của phẩm giá nhân
bản của họ” (s.31).
2) Sự Độc Lập khỏi các Đảng Phái và Ý Thức
Hệ.
Một
yếu tố căn bản khác của hoạt động yêu thương của Giáo Hội là sự độc lập khỏi
các đảng phái chính trị và ý thức hệ. Chương trình yêu thương mà Giáo Hội nhằm
thể hiện “ở đây và bây giờ” là chương trình của người Samaritanô, là
chương trình của Đức Giêsu. Đó là chương trình của một “trái tim biết nhìn”,
và như Thông Điệp diễn tả : “Trái tim này nhìn ra nơi nào cần tình yêu và
hoạt động dựa theo đó” (s.31). Tuy Giáo Hội mang lấy những niềm hy
vọng của nhân loại và thực sự hiện diện trong những bối cảnh văn hóa, kinh tế
và xã hội khác nhau, nhưng nhân danh cứu cánh tối hậu của mình là sự viên mãn
của Vương Quốc Tình Yêu, nên Giáo Hội không thể đồng hóa với bất cứ một ý thức
hệ nào, một đảng phái nào, cũng như không thể “phục vụ cho các chiến lược
trần thế” (s.31). Giáo Hội thực hiện điều thiện cho con người, theo
đúng bản chất yêu thương của mình, chứ không thể “nhân bản hóa thế giới này khi
từ chối hành động một cách nhân đạo” (s.31). Nói cách khác, Giáo Hội
không thể thực hiện bác ái với bất cứ ý đồ nào khác và bằng bất cứ một thủ đoạn
nào khác hơn là tình yêu. Có như thế, Giáo Hội mới có thể là “lương
tâm của tình yêu”, đủ tư cách đóng vai trò “ngôn sứ” để phê
phán những gì thực ra chỉ là giả tạo mưu đồ chính trị của thế gian.
3) Yêu Thương không phải là Chiêu Dụ Tín Đồ.
Và
cuối cùng, như tình yêu hoàn toàn tự hiến và vô vị lợi của Đức Kitô là tấm
gương và điểm quy chiếu cho Giáo Hội, nên mọi hoạt động yêu thương của Giáo Hội
“không
phải là phương tiện cho điều mà ngày nay người ta gọi là chiêu dụ tín đồ”
(s.31). Tuy chủ đích là nhắm đến con người trong tương quan với Thiên Chúa,
nhưng Giáo Hội không bao giờ tìm cách “áp đặt lên kẻ khác niềm tin của mình”
(s.31). Ngược với ý nghĩ của người đời, như Thông điệp diễn tả, chúng ta thấy
Giáo Hội ý thức sâu xa rằng : “tình yêu trong sự thuần khiết và vô tư là
chứng cớ tốt nhất về Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tin và thúc đẩy chúng ta yêu
thương” (s.31). Vì thế, theo sự khôn ngoan và kinh nghiệm của Giáo
Hội, chúng ta tin và biết rằng “Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8) và ngay lúc đó Người đang hiện
diện trong lúc tình yêu được thực hiện, chứ không phải bất cứ điều gì khác”
(s.31). Đối với Giáo Hội, “khinh thị tình yêu là khinh thị con người”.
Trong
ý nghĩa đó, thì phương cách làm chứng nhân cho niềm tin hữu hiệu nhất, hay theo
kiểu nói của Thông Điệp, “việc bảo vệ Thiên Chúa và con người cách tốt
nhất nằm ngay trong tình yêu” (s.31). Chúng ta thấy rõ là không thể
có sự loan báo và phục vụ yêu thương đích thực, nếu như ngươi Kitô hữu không
cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa nơi sâu thẳm hữu thể của mình và được tình
yêu đó chiếm đoạt, chinh phục và thúc đẩy. Và khi được tình yêu biến đổi, được
tuyển chọn và sai đi trong sứ mạng đem yêu thương thắp sáng cuộc đời, tâm tình
và chương trình của Giáo Hội chính là tâm tình và chương trình của Đức Giêsu,
vị Mục tử nhân lành.
4. Cảm Nhận
và Nhận Định tổng quát
Từ
những suy diễn trên, như những con người “đã nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa”,
Giáo Hội tiên vàn là một Cộng đoàn Yêu Thương. Chúng ta có thể tóm lược nội
dung chính yếu của những gì đã được trình bày trong những cảm nhận và nhận định
sau đây :
·
Một
“Thư Ngỏ” định hướng Yêu thương
Trước
hết, sau khi đọc xong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, một lần
hay nhiều lần, chúng ta có thể có cảm tưởng rằng Thông Điệp là một “Thư
Ngỏ” với tất cả tâm tình của một “Người Cha” muốn nói chuyện với
con cái mình về Tình yêu như là “yếu tính” của đời sống. Lời văn
giản dị, ngắn gọn và trong sáng, nhưng vừa sâu vừa rộng, vừa cao và vừa dài như
“tình
yêu đi tìm hiểu biết” (Amor quaerens intellectum). Và “tôi
yêu để hiểu biết” (Amor ut
intelligam), rất mênh mông như mối “quan tâm cuối cùng”
của con người. Có thể nhiều người sẽ bảo rằng : “Ôi, cứ lải nhải mãi về Tình
yêu, ai mà chẳng biết !” Hay là “Biết rồi, khổ quá nói mãi, coi chừng lẩm cẩm
và không thực tế đấy”. Thế nhưng, theo những kinh nghiệm ở đời, có
thể chúng ta yêu thì nhiều, nhưng thực sự “biết yêu” theo kiểu “trái
tim bị đâm thâu” thì chẳng bao nhiêu, nhất là trong xã hội ngày nay.
Nếu đã có nhiều thực sự biết yêu thương như thế, thì “tín nghĩa ân tình ‘đã’ hội
ngộ, hòa bình công lý ‘đã’ giao duyên” (Tv 85,11). Ngày xưa chúng ta
nghe nói đã có nhiều người “xả thân cứu nước”, nhưng ngày nay
lại thấy xuất hiện nhiều người “xả nước cứu thân”. Trước thì có
nhiều chuyện “xả thân cứu người”, nay thì “xả người cứu thân”
không phải là chuyện họa hiếm.
Hơn
nữa, ngày nay chủ nghĩa tương đối và chủ nghịa duy lý kinh tế đang lên ngôi
thống trị toàn cầu, tình yêu và hai tiếng tình yêu đã bị lạm dụng rất nhiều và
thêm vào đó có nhiều phong trào nhân bản muốn khai trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc
sống. Chúng ta hiện đang sống trong một nền văn hóa mà nhiều nhà Xã hội học
cũng như Tâm lý học gọi là “văn hóa khoái cảm” (erotic culture), buông lơi theo
cảm xúc và cần được thỏa mãn ngay lập tức. Nền văn hóa này ủng hộ lối sống “đừng
kìm hãm sự sung sướng”. Hay nói theo Thông điệp là “hạ
giá eros thành hàng hóa, thành vật phẩm” mua bán (s.5). Vậy nếu tình
yêu làm cho chúng ta biết đợi chờ, thì khi không còn biết chờ đợi, con người
cũng chẳng còn biết yêu theo đúng nghĩa của tình yêu. Vì thế Đức Thánh Cha
Bênêđictô không ngần ngại kể lại cho toàn thể gia đình Giáo Hội “chuyện
tình yêu” của Thiên Chúa Tình Yêu với nhân loại, trong mọi biến cố
ngay cả sự cố của lịch sử, để kích thích và làm phong phú một kiểu cách yêu
thương thích hợp hơn, mới mẻ hơn cho “những ai đau khổ trong thể xác cũng như tinh
thần và đang cần đến hồng ân tình yêu” (Lời giới thiệu Thông Điệp).
Dù
tình yêu là một huyền nhiệm cũng như cuộc đời, một lý tưởng thật đấy, nhưng
Thông điệp không phải là một bài luận thuyết về tình yêu, để lý tưởng yêu
thương có nguy cơ trở thành lý luận, lý sự và lý thuyết. Chủ đích của Thông
điệp không phải là sáng chế ra một “chương trình mới”, nhưng là “đổi
mới thái độ và lối nhìn của chúng ta về tình yêu” theo chương trình
của “Người Samaritanô nhân hậu” đã có sẵn trong Phúc Âm, để lý
tưởng yêu thương có thể trở thành “lẽ sống” và một “định
hướng” chân thực. Điều này thuộc về bản chất của Giáo Hội, nên không
thể “giao cho người khác”, vì bản chất thì “không thể từ bỏ”
được (s.25), nhưng có thể phát triển và thăng tiến toàn diện.
Tất
cả những điều ấy, và nhất là những tấm gương yêu thương, bác ái sáng ngời của
các Thánh Nhân trong lịch sử Giáo Hội, làm cho chúng ta suy nghĩ về thái độ và
lối sống đạo của chúng ta. Rất nhiều khi chúng ta cố gắng thực hiện yêu thương
để “toan tính” làm “Chúa” của thiên hạ, thay vì đón
nhận tình yêu và không “tính toán” điều gì khác hơn ngoài
việc làm “tôi tớ” hay “khí cụ” bình an để phục vụ cho
tình yêu Thiên Chúa, chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa trị đến. Ở đây chúng ta có
thể phân biệt hai lối hiện hữu, theo Tâm lý học chiều sâu và linh đạo Kitô
giáo. Đó là hiện hữu trong “tình yêu” và hiện hữu trong sự “phô
diễn”.
Nền
tảng của cuộc hiện hữu trong tình yêu chính là hiện hữu trong niềm tin, trong
niềm xác tín rằng chúng ta đã được yêu thương sâu thẳm từ muôn thuở như chính
chúng ta là. Hệ quả của lối sống này làm cho chúng ta cảm nhận được giá trị
chân thật của mình, nghĩa là biết mình thuộc về Thiên Chúa, có danh phận trước
dung nhan của Người. Chúng ta sống và hiện hũu “như Cha ở trong con và như
con ở trong Cha”, và “tất cả những gì của Cha đều là của con”.
Nếu tin rằng Chúa luôn ở bên chúng ta, thì còn gì có thể làm cho chúng ta sợ
hãi. Đó là đời sống trong Thần Khí, được tự do để sống theo lòng mến (Agape)
mà Phaolô đã đề cao và nhấn mạnh trong Thư Galata “Vì chưng tất cả Lề luật đã
được nên trọn trong một lời này : Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình”
(Gl 5,13-14). Và hoa trái của một đời sống trong Thần Khí là gì ? Như Phaolô
nói tiếp : “là mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín
trực, hiền từ, tiết độ” (Gl 5,22-23). Hiện hữu trong yêu thương
chính là biết mình thuộc về Đức Kitô, tình nguyện yêu thương, và hướng theo
Thần khí mà tiến bước (Gl 5,25).
Đối nghịch với hiện hữu trong tình yêu là hiện
hữu trong sự “phô diễn”. Đó là hiện hữu trong những “tham, sân, si”,
trong sự bất ổn, trong việc đi tìm hoài tìm mãi tình yêu và tiếng tăm để tự
khẳng định mình. Tình huống sống như thế sẽ dẫn đến một thứ bệnh trầm kha, đó
là bệnh thành tích, bệnh phô trương. Con người được lượng giá trên những thành
quả, những sản phẩm và tiền của họ làm ra hay chiếm được. Do đó, đời là những cạnh
tranh, so sánh, và hoài nghi. Chúng ta làm mọi cách để chinh phục tình cảm cũng
như thu hút sự chú ý của người đời, vì không biết phải “được yêu” như thế
nào mới cho đủ cho vừa. Hiện hữu trong phô trương thì luôn hướng về mình, và từ
đó phát xuất ra những mặc cảm tự ti, rồi đưa đến mặc cảm tự tôn, sinh ra oán
hận, nói những lời cay đắng bất mãn. Đó là hiện hữu trong lo sợ. Và lo sợ là “nguồn
gốc của mọi sự dữ” (Thomas Merton). Mặt khác, vì ngây ngất về những
thành công, đâm ra tự phụ cao ngạo, coi mình là trung tâm mọi sự, nên rất dễ
cho mình là tiêu chuẩn để đánh giá mọi người. Vì vậy, hiện hữu trong phô trương
sẽ làm cho sức năng động của yêu thương bị tê liệt, vì chỉ biết chiếm đoạt hơn
là ban tặng, nhận hơn là cho, “Eros” hơn là “Agape”.
Trong
chiều hướng đó, con người không thể vượt qua được chính mình, khong thể ra khỏi
mình, chỉ biết quanh quẩn với chính mình. Và nếu hiện hữu trong trong một lối
sống có tính cách trình diễn như thế, thì đó là một cuộc hiện hữu trong cô đơn,
cô độc, cô quạnh, cô liêu, cô tịch và cô hồn, thực sự đối nghịch với lối sống
hiệp thông cởi mở trong tình yêu. Xét về phương diện “văn minh tình yêu”
và “văn hóa sự sống”, thì hiện hữu như thế là hiện hữu thiếu
phát triển, chưa phát triển hay là chậm phát triển. Nói theo kiểu
Thông điệp, thì ở đây, “Eros” chưa được thăng tiến và
thanh luyện chiều sâu, để có thể “tan biến vào Agape” (s.10).
·
Con
Người như một nhân vị,
một
tổng thể duy nhất xác hồn
Như
vậy, ai sẽ làm cho con người có thể yêu thương ? Ai sẽ giải thoát chúng
ta ra khỏi chiếm đoạt để trao ban, ra khỏi cơn cám dỗ sở hữu để hiện hữu tràn
đầy ? Chúng ta có thể trực giác thấy một câu trả lời cơ bản trong Thông điệp : “Chúng
ta có thể yêu mến Thiên Chúa vì Người đã bước vào và còn đang bước vào đời
chúng ta” (Lời Giới Thiệu). Từ đó, chúng ta có thể yêu thương người
lân cận, vì chúng ta cảm nghiệm chúng ta là “bạn hữu” của Thiên Chúa, vừa là
người Chúa yêu, vừa là người yêu Chúa, nên có thể hướng đến việc yêu người khác
và “bắt đầu muốn điều tốt cho tất cả những ai mà Chúa yêu thương và những
kẻ cần ta trợ giúp”. Vì thế ở đây, phải chăng con người là quan
trọng, phải chăng con người sống động là vinh quang của Thiên Chúa ? “Phàm
nhân là gì để Người nhớ đến, hay con người là gì để Chúa phải bận tâm ?”
(Tv 8,5).
Khi
đối diện và đề cập đến một chất vấn của lịch sử về mối tương quan giữa phục vụ
yêu thương và công bằng, Thông điệp đã trình bày tình yêu như là động lực và
cùng đích của công bằng. Trong bối cảnh đó, Thông điệp chủ trương rằng tình yêu
“vẫn
luôn cần thiết” (s.28), và công việc phục vụ bác ái không bao giờ là
“thừa
thãi” (s.28), bởi vì “tình yêu mang đến cho con người không những
sự hỗ trợ vật chất, nhưng còn củng cố tinh thần và cứu chữa, là điều còn cần
thiết hơn cả các hỗ trợ vật chất” (s.28).
Đối
với Kitô giáo thì con người là một nhân vị, một tổng thể duy nhất xác hồn,
không thể giản lược vào bất cứ một một chiều kích nào. Con người không chỉ có
thân xác mà còn là thân xác. Con người không chỉ co hồn mà con là
linh hồn. Vì thế con người là chủ thể của tình yêu, là nguồn phát sinh ra các
giá trị nhân sinh, nên tình yêu và công lý phải tôn trọng phẩm gía của mỗi con
người toàn vẹn hồn xác như thế. Như Thông điệp nhấn mạnh : Chủ đích của mọi
hoạt động yêu thương là “nhắm đến con người trọn vẹn”
(s.31). Như vậy, Giáo Hội đề xuất một chủ nghĩa nhân bản đích thực khi “công
nhận hình ảnh Thiên Chúa nơi con người và giúp họ có được một cuộc sống xứng
đáng với phẩm giá này” (s.30). Nếu “ngày Sabbat là cho con người”,
thì con người không thể bị “tế hiến” cho bất cứ một chủ thuyết
và cơ cấu chính trị nào.
Giáo
Hội dấn thân, không phải để tìm lợi lộc cho sự tồn tại của mình như là kẻ có
quyền thế cai trị nơi trần gian, nhưng đứng về phía người nghèo và bênh đỡ kẻ
yếu đuối trong xã hội. Giáo Hội không đòi cho mình quyền nào khác hơn ngoài
quyền phục vụ. Như thế, trong mọi hoạt động mục vụ, Giáo Hội phát huy “quyền
lực yêu” chứ không phải “yêu quyền lực”. Chúng ta được
thúc bách bởi tình yêu của Đức Kitô, “Caritas Christi urget nos” (2Cr
5,14), chứ không để cho những “xung lực dục vọng” (libido dominandi) trấn áp và làm
cho chúng ta trở thành kẻ khống chế người khác nhân danh tình yêu. Yêu thương
chính là động lực sống động cho toàn bộ đời sống Kitô của Giáo Hội. Có yêu mến
Chúa và phục vụ con người như thế, chúng ta mới khỏi bị phê phán là chỉ bàn
luận về “cõi trên” mà quên mất “cõi đời”. Có chan hòa yêu thương
như vậy thì “công lý và tình yêu” mới có thể gặp nhau và hòa giải với
nhau.
·
Giáo
Hội : một Cộng đoàn yêu thương,
một trung tâm bác ái, một cơ quan tình yêu.
Từ
nhận định trên đây, để làm chứng cho Tình yêu Thiên Chúa một cách hữu hiệu,
Thông điệp mời gọi mọi thành viên trong Giáo Hội trong mọi cấp độ, Giáo phận,
Giáo xứ và các gia đình Công giáo, phải là và trở nên điều mình là, đó là một “trung
tâm bác ái” hay “cơ quan tình yêu”. Theo lẽ thường
tình của con người, thì không ai có thể “ép buộc” người khác phải yêu thương
mình. Trái tim con người thường quay về và tìm đến với những nơi ấm áp của yêu
thương. Muốn cho người khác chuyển tâm hồi ý, sám hối trở về và tìm đến, chỉ co
một cách là trở nên cõi ấm áp đó. Nếu mỗi người Kitô hữu, mỗi Giáo xứ, mỗi gia
đình là một “trung tâm bác ái” cho con người tìm về gặp gỡ, một nơi đón
tiếp ân cần, biết chia vui sẻ buồn, cảm nhận những ước vọng trong mọi hoàn
cảnh. Nếu biết sống và biết cộng tác với nhau để tao ra những môi trường tốt
đẹp, để bày tỏ sự hiếu khách của Thiên Chúa, thì chắc chắn lối sống yêu thương
này sẽ là nền tảng của một linh đạo truyền giáo thích hợp và thiết thực nhất
cho thế giới ngày nay. Trong kinh nghiệm ở đời, những cụm từ hay tên gọi khác
của yêu thương mà ai cũng cần đến là : hiểu biết, tôn trọng, củng cố, xác định,
khích lệ, quan tâm, lắng nghe, khâm phục, cảm kích, tri ân, nâng đỡ, tha thứ và
tin tưởng, nhất là cởi mở và tinh thần đối thoại trong tình yêu. Như Thông điệp
nhấn mạnh : “Ở đây nhắm đến con người, và con người luôn cần đến một cái gì hơn là
sự chăm sóc đúng đắn đầy kỹ thuật. Họ còn cần đến tình người. Họ cần đến sự
quan tâm của trái tim” (s.31).
Theo
chiều hướng này, một giáo xứ muốn phát triển mạnh cần có người lãnh đạo đứng
đầu trong yêu thương và cần có nhiều người biết yêu thương như thế. Từng người
biết yêu thì cộng đoàn mới biết yêu, và từng người mới cảm thấy mình được yêu,
cho dù yêu thương có đa dạng và phức tạp, dù có vô vàn mâu thuẫn trong đó,
nhưng sống động và phong phú. Khi không sẵn sàng để cho mình được yêu thương và
chấp nhận cho “trái tim bị thương tích” thì tình yêu bị phong tỏa. Khi
không còn muốn đến gặp gỡ người khác, thì tình yêu sẽ co cụm trong tâm hồn buồn
phiền, chán nản. Do đó, cuộc đời chẳng còn gì mới lạ và chúng ta sống rất ơ hờ
hay thờ ơ trong tiếng thở dài.
Vì
thế, Thông điệp mới nhắn nhủ hãy để cho tình yêu lên tiếng : “Người
Kitô hữu biết lúc nào có thể nói về Thiên Chúa, lúc nào thì nên thinh lặng và
chỉ nói về tình yêu mà thôi” (s.31). Như cuộc đời là một hành trình
để con người có thể học hỏi qua kinh nghiệm sống để trở nên chính mình và hoàn
thành lịch sử đời mình, thì tình yêu là một nghệ thuật sống. Chúng ta có thể
học hỏi yêu thương và cần được giáo dục trong yêu thương mới có thể “yêu
thương cho đến cùng”. Chúng ta có thể đọc thấy nhiều nơi trong Thông
điệp về tương quan mật thiết giữa tình yêu và giáo dục và nhất là việc “đào
tạo trái tim” (s.28 ; 30 ; 31). Một cộng đoàn Giáo Hội, dù lớn hay
nhỏ, phải là một trường học yêu thương, vì thế giới này vẫn luôn cần đến những
trái tim biết yêu thương cho công lý và hòa bình.
Vậy
thì làm thế nào để đào tạo và huấn luyện người Kitô hữu cho đạo đức và sứ mạng
yêu thương ? Nói theo tư tưởng của Thánh Phaolô, chúng ta chẳng “mắc
nợ” nhau điều gì cả, “trừ phi là yêu thương nhau”, vì “yêu
thương là chu toàn tất cả Lề luật” (Rm 13,8-10). Ngày xưa chúng ta
thường nhấn mạnh : “Qui regulae vivit, Deo vivit”,
ngày nay chúng ta có thể bổ túc : “Qui regulae caritatis vivit, Deo vivit”,
bởi vì “Deus Caritas est”.
·
Sống
trong tình yêu là sống trong cầu nguyện
Dựa
vào những gì vừa khai triển, chúng ta có thể khẳng định rằng không thể sống đời
yêu thương và phục vụ bác ái, nếu không có cầu nguyện. Bởi vì, như Thông điệp
xác nhận : “Bản chất của Hội Thánh được thể hiện qua một trách nhiệm có ba mặt :
rao giảng Lời Chúa (kerygma-martyria), cử hành các bí tích (leiturgia), phục vụ
bác ái (diakonia). Đó là những trách nhiệm lệ thuộc vào nhau và không thể tách
rời nhau được” (s.25). Theo nghĩa này, cầu nguyện là một cách thế
tìm được sức mạnh mới mẻ từ nơi Đức Kitô bị đóng đinh và phục sinh và từ trong
Thần Khí của Thiên Chúa. Như Thông Điệp nhắn nhủ : “Chúng ta cần liên hệ nội tâm
với Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Nhưng làm thế nào chúng
ta đạt được điều đó ? Chỉ qua cầu nguyện” (s.36).
Con
người biết cầu nguyện là con người biết yêu và con người biết yêu là con người
biết cầu nguyện, vì cầu nguyện là sự gặp gỡ của hai cơn khát : “Chúa
khát ta và ta khát Chúa”. Cầu nguyện là đi sâu vào đời sống hiệp
thông với Thiên Chúa tình yêu, đó là đời sống biết đón nhận va trao ban, là sự
liên đới, “ở với, sống cho và sống trong tình yêu”. Thế nên, cầu nguyện
thúc đẩy chúng ta hành đạo và là trường học đào tạo chúng ta sống tình liên đới
với tha nhân, mang thương đau và nỗi niềm của họ, biết đồng cảm và nhìn họ với
con mắt của “một trái tim biết nhìn” (s.31). Chúng ta có thể nhớ đến một
câu nói từ thời Trung cổ : “Ubi amor, ibi oculus” (Đâu có
tình yêu thương, ở đó có con mắt), vì ở đâu có yêu thương, thì ở đó chúng ta
hiểu và nhìn ra được điều chúng ta cần phải làm. Như Thông điệp cảm nhận : “Tôi
nhìn với đôi mắt của Đức Kitô và có thể trao ban cho tha nhân nhiều hơn là
những vật cần thiết bên ngoài : đó là cái nhìn của tình yêu mà họ cần”
(s.18).
Hơn
nữa trong lời cầu nguyện, chúng ta có thể “cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, cảm
nhận sự hiện diện của Người … Người yêu chúng ta và cho chúng ta thấy và cảm
nhận tình yêu của Người, và từ bước trước này, tình yêu nảy sinh trong chúng ta
như một lời đáp tra” (s.17). Từ việc cảm nhận và xác tín rằng mình
đã “được yêu” từ đáy sâu tâm hồn, chúng ta mới có thề thực hiện và phát huy yêu
thương. Cầu nguyện chính là “trung tâm huấn luyện tình yêu”,
dạy chúng ta biết quan tâm đến người khác, biết khiêm tốn lắng nghe và phân
định Thánh Ý Thiên Chúa và những nhu cầu của nhân loại. Cầu nguyện là nguồn
phát sinh ra bác ái Kitô giáo. Như thế, Thông điệp đã giúp chúng ta có một tầm
nhìn toàn diện về đời sống đạo, liên kết mọi chiều kích nền tảng của Kitô giáo,
mà chúng ta thường đề cập đến : “Lex orandi, lex credendi, lex sperandi, lex
amandi, lex vivendi”. Ngươi cầu nguyện là người biết “kết
hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người” (1Cr 6,17). Đây là
mầu nhiệm tình yêu, “Ubi Caritas et amor, Deus ibi est”,
được cử hành trong Thánh Thể, vì Thánh Thể là “bí tích tình yêu”,
là “nguồn mạch, trọng tâm và chóp đỉnh” của kinh nguyện và đời
sống Kitô.
Vậy
thì cử hành Thánh Thể như thế nào, để chúng ta “được lôi kéo vào hành động
tận hiến của Đức Giêsu” (s.13), vào sức năng động của một tình yêu
đón nhận và trao ban ? Làm sao để việc kết hợp hoàn toàn với Đức Kitô và với hy
tế của Người cũng đồng thời là một sự kết hợp với người lận cận, với những
người mà Chúa tự hiến cho ? Mỗi lần tham dự Thánh Lễ, phải ý thức và gây ý thức
như thế nào để sự “Hiệp lễ Thánh Thể” thôi thúc
chúng ta và người tín hữu ra khỏi bản thân đến với Chúa và đi vào tình hiệp
nhất, thành hiện hữu của một “Thân Mình” tan biến và chan hòa
trong nhau ? Vậy thì điều gì thích đáng nhất
mà chúng ta có thể thực hiện để cử hành những ân huệ tuyệt hảo toả rạng từ tình
yêu tự hiến và độ lượng của Thiên Chúa ? Chúng ta họp nhau để dâng lời cảm tạ
trong ngày Chúa Nhật, không phải vì cảm nhận đó là “lễ buộc”, nhưng vì
được sống trong một thế giới tràn đầy ân sủng và phúc lành.
Trong
ý nghĩa đó, chúng ta dâng lễ và cử hành làm sao để cho tình yêu tự hiến của
Thiên Chúa tỏ lộ trong tình yêu tự hiến của Đức Kitô, và tình yêu tự hiến của
Đức Kitô được tỏ lộ hơn trong đời sống của Giáo Hội, để cho những người khác có
thể được chia sẻ trong đó. Như Thông Điệp kết luận : “làm thế nào một tình yêu như
thế lại có thể hiện hữu đươc : qua việc được Thiên Chúa thấm nhập, điều này
giúp cho người uống lấy nguồn suối từ tình yêu Thiên Chúa, cũng trở thành suối
nguồn, từ đó tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,38) ? Là
những kẻ được lãnh nhận tình yêu, chúng ta trở thành người trao ban. Kẻ “thụ
ân” trong Thánh Thể trở nên người “thi ân” cho những
mảnh đời bất hạnh. Chúng ta trở nên chính điều mà chúng ta cử hành trong đức
tin, niềm hy vọng và lòng yêu mến.
·
Chiều
kích cánh chung của yêu thương
Cuối
cùng, một điểm rất quan trọng và đầy ý nghĩa mà Thông điệp nói đến, đó là đặc
tính cánh chung của yêu thương. Đức tin, đức cậy và đức mền đều lệ thuộc vào
nhau như chúng ta đã biết. Và như Thánh Phaolô đã viết : “Vậy nay, còn lại Tin, Cậy,
Mến. Nhưng trong bộ ba ấy, đức Mến lớn hơn cả” (1Cr 13,13). Thông
Điệp cũng giải thích :
Niềm tin, đó
là ý thức tình yêu của Thiên Chúa tự tỏ lộ nơi trái tim bị đâm thâu của Đức
Giêsu trên Thập giá, niềm tin đến phiên mình sẽ làm nảy sinh tình yêu. Và tình
yêu là ánh sáng - cuối cùng là ánh sáng duy nhất – sẽ làm cho thế giới đen tối
được sáng trở lại và ban cho chúng ta sự can đảm để sống và hành động
(s.39).
Như
thế chúng ta có thể xác tín rằng “Thiên Chúa gìn giữ thế giới này trong bàn
tay của Người” và Người sẽ dẫn đưa chúng ta và tất cả hoàn vũ đến
viên thành. Như những kẻ hành hương lên Núi Thánh Sion, chúng ta biết rằng
chúng ta đang tiến về cõi vĩnh hằng “Trời mới, Đất mới” (Kh 21,1).
Tình yêu Chúa tồn tại từ đời này đến đời kia qua mọi bóng tối âm u của lịch sử.
Và đó không phải là một viễn mơ hão huyền, nhưng là một động lực thúc đẩy chúng
ta góp phần thực hiện yêu thương, công lý và hòa bình trong thế giới này, nơi
chúng ta được một lần làm người. Yêu thương đa thắp sáng lên trong Giáo Hội
niềm hy vọng hồng phúc ấy, để một cách nào đó cuộc hiện hữu nơi trần gian của
chúng ta có thể trở thành hiện hữu trong tình yêu muôn thuở. Chính Đức Kitô đã
xác nhận giá trị vĩnh cửu của mọi hành vi yêu thương trong Phúc âm :
Hãy đến hỡi
những kẻ được Cha ta chúc phúc…Vì xưa ta đói mà các ngươi đã cho ta ăn, ta khát
mà các ngươi đã cho ta uống…Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những
người anh em bé nhỏ nhất của ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta (Mt
25,36-40).
Điều
này cho thấy chính yêu thương làm cho chúng ta hiện hữu và là nguồn gốc của tất
cả những gì giải thoát chúng ta khỏi sự chết và dẫn đưa chúng ta vào cuộc sống
muôn đời. Như Thư Thứ Nhất của Gioan viết : “Chúng ta biết là chúng ta đã được đi ngang qua sự chết mà vào sự sống vì hiện
chúng ta yêu mến anh em. Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết”
(1Ga 3,14). Như thế, yêu thương trong viễn tượng cánh chung bao hàm một ý nghĩa
chính đáng, vừa soi chiếu cho lối sống của chúng ta trong hiện tại, cũng như
hướng chúng ta đến tương lai vĩnh cửu, nơi đó “Thiên Chúa sẽ là tất cả trong
mọi sự” (1Cr 15,28).
Những
nỗi thống khổ, nhọc nhằn, và những giọt lệ đổ cho tình yêu trong cuộc đời, chắc
chắn chẳng có ai có thể đáp trả hết cho chúng ta, nhưng tất cả sẽ được dự phần
trong Mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô, Đấng ban cho nhân loại “niềm
hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27). Có nhiều người, khi đến lúc
nhắm mắt lìa đời, mới “tỉnh ngộ” và biết rằng mình phải
bỏ lại tất cả những gì thuộc về kiếp sống, và chỉ còn lại một “mối
tình” được mang theo : đó là yêu thương Thiên Chúa và bao dung với
đời. Hay xin mượn lời thơ của Trịnh Công Sơn : “Sống trong đời sống, cần có
một tấm lòng. Để làm gì ? Để gió cuốn đi. Cho mây qua dòng sông. Ngày vừa lên
hay đêm xuống mênh mông”. Và nghẫm nghĩ theo tư tưởng Á Đông : “Trăm
năm trước ta không có. Trăm năm sau, có cũng không. Cuộc đời có có không không.
Trăm năm còn lại tấm lòng mà thôi”.
KẾT LUẬN
Để
có thể làm cho thế giới tốt đẹp hơn và con người hiện đại có thể tin rằng họ
được Thiên Chúa thương yêu vô vàn và chính họ đều có khả năng yêu thương người
thân cận, thì hoạt động bác ái của Giáo Hội phải vượt qua mọi ranh giới và khác
biệt về chủng tộc, ngôn ngữ, giai cấp xã hội hay ý thức hệ. Tình yêu không loại
trừ một ai, cũng như không kỳ thị người nào. Vì thế, hơn bao giờ hết, làm chứng
cho Tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian bằng đời sống yêu thương chính là điều
kiện thiết yếu cho việc kiến tạo hòa bình và công lý có hiệu quả thâm sâu.
Đối
với Giáo Hội, chính tình yêu tự hiến của Đức Kitô, một “trái tim bị đâm thâu”
như thế đó thúc đẩy và nhắc nhở chúng ta về thái độ và cách sống mới theo kiểu
mẫu của “Người Samaritano nhân hậu” trong thế giới hôm nay. Qua Thông
Điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, chúng ta nhận thấy : yêu thương là
con đường duy nhất cần thiết và thích ứng nhất để Giáo Hội có thể đối thoại với
một thế giới đầy tính “đa phức”, vì yêu thương là ngôn
ngữ “phổ quát” mà mọi trái tim đều có thể hiểu được. Thế nên,
trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng Cứu độ, đưa Đạo vào đời cũng như mời đời vào
Đạo, yêu thương là dấu hiệu “bất khả ngộ” của sự hiện diện
tình yêu của Thiên Chúa nơi Giáo Hội. Tiếng nói của Giáo Hội có “khả
tín” hay không đối với con người hiện đại là tùy thuộc vào đời sống
thương yêu của mọi Kitô hữu. Thế giới này vẫn cần, khao khát và đợi chờ “một
trái tim biết nhìn”, “một trái tim bị đâm thâu”, một
trái tim cho yêu thương hòa bình. Tình yêu thì cổ xưa như trái đất, nhưng lúc
nào cũng mới mẻ như Mùa Xuân.
Lm. Phaolô Vũ Chí Hỷ sss.