NIỀM TIN CƠ BẢN NƠI DÂN TỘC KƠHO
Cha Đaminh Nguyễn Huy Trọng
Giáo phận Đàlạt nằm trọn
trong lãnh thổ của tỉnh Lâm Đồng hiện nay. Cho đến cách đây chừng một thế kỷ,
thì tuyệt đại đa số dân cư ở trên lãnh thổ này đều là anh em Dân tộc bản địa.
Trong đó Dân tộc Kơho chiếm đa số. Không biết họ đã có mặt trên miền đất này từ
bao giờ, chỉ biết rằng, từ lâu lắm rồi, họ đã sinh sống rải rác trên khắp lãnh
thổ tỉnh Lâm Đồng này, và còn thấy họ sinh sống khá lâu rồi ở những tỉnh lân
cận khác nữa.
Năm nay, 2007, Giáo
phận Đàlạt mừng kỷ niệm tròn 80 năm có người Dân tộc Kơho đầu tiên được lãnh Bí
tích Rửa Tội, do tay Linh mục Jean Cassaigne, một nhà truyền giáo tiên khởi đầy
nhiệt huyết, quyết sống chết với anh em Dân tộc bản địa tại địa phương này. Đặc
biệt là với anh em Dân tộc mắc bệnh phong cùi. Tiếp nối công việc truyền giáo
của vị tiền bối đáng kính phục này, là từng lớp người, nam có, nữ có, kẻ trước
người sau, dưới sự điều hành của các Đấng Bản Quyền. Và kể từ năm 1960, Giáo
phận Đàlạt được thiết lập, thì các Giám mục Giáo phận đã trực tiếp và thường
xuyên, với tất cả khả năng và tâm huyết của mình, đưa công việc truyền giáo này
tới chỗ mỗi ngày một trọn vẹn hơn, hoàn hảo hơn và thánh thiện hơn. Hiệu quả
của công việc dấn thân này đã đem lại cho Giáo Hội một mùa gặt phong phú, cả về
phẩm lẫn về lượng.
Nói như vậy để thấy
rằng, công việc Truyền giáo đúng là thuộc bản tính của Giáo Hội toàn cầu.
Truyền giáo cho anh em Dân tộc bản địa là trọng tâm và ưu tiên của Giáo phận
Đàlạt. Điều này không ai chối cãi được. Nó đã là sức sống và gần như là chính
linh hồn của Giáo phận. Bằng chứng là Giáo phận Đàlạt, dưới sự điều hành của
Đức Cha Phêrô, đã dùng cả năm nay để cùng nhau cầu nguyện, suy tư và thể hiện
công việc này một cách quyết liệt hơn.
Mỗi Kitô hữu nói chung,
và cách riêng các linh mục tu sỹ trong Giáo Hội đều đã được huấn luyện, được
học hỏi để thi hành nhiệm vụ vừa quan trọng vừa bức thiết này. Ngay trong Giáo
phận Đàlạt, đã thấy có rất nhiều người, nữ có, nam có, cá nhân có, tập thể có
tham gia tích cực. Mỗi người, mỗi tập thể khi nhập cuộc, đã có quyết tâm cao,
thiện chí đầy mình. Và tất cả gần như đã có sẵn những bửu bối riêng gọi là
“hành trang tuổi trẻ” để thực hiện lý tưởng truyền giáo của mình.
Vậy ra truyền giáo
chính là mục tiêu tối thượng phải tìm đến của toàn thể Giáo Hội, và của từng
thành viên, tuỳ khả năng và nhiệm vụ được trao. Đã là lý tưởng thì mọi phương
tiện sử dụng cũng phải mang mầu sắc lý tưởng. Tựu trung là đòi hỏi hy sinh bản
thân, từ bỏ tất cả, đem mình vào chính cái môi trường sống, với những con người
cụ thể, mà mình phải chung sống và phục vụ.
Khả năng của mỗi người
tông đồ luôn là vô giới hạn, nếu biết cộng tác với ơn của Chúa và liên kết với
Giáo Hội. Câu thành ngữ chúng ta hay nói là “Sentire cum Ecclesia”. Chính đó là
cái luôn mới, luôn đặc biệt và luôn là phép lạ cho mọi người. Nó sẵn sàng đem
lại cho mỗi người lòng yêu mến trong sáng và sự say mê chuẩn mực với nhiệm vụ,
mà chúng ta hay gọi là “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”.
Những nhận định trên,
theo thiển ý, thì chắc chắn ai cũng cho là đúng, và hơn thế còn biết rõ cả rồi.
Có điều là mỗi người đã thực hiện, và đã có được nó ở mức độ nào. Nói ra đây
chỉ là vì chính bản thân đã cảm thấy thấm thía da diết, và một phần nào đó đã
đụng chạm được nó. Thế nên việc diễn tả nó ra chỉ như một chia sẻ kinh nghiệm
đã từng trải một cách nào đó, chứ không phải là một bài luận muốn được chấm
điểm.
Dựa theo suy nghĩ này
thì truyền giáo nói chung là đem điều mình học hỏi, tin, sống… trình bày cho
người khác. Truyền giáo theo nghĩa đạo Công giáo là đem Tin Mừng của Chúa Giêsu
mà mình đã học hỏi, tin theo, sống chết, đến với muôn dân. Giáo lý cũng như
phương thế đều là của Chúa Giêsu. Mỗi môn đệ đều phải chăm chỉ học hỏi nơi
Ngài, nghiền ngẫm để kiên trì sống cho chính mình, và đem áp dụng vào những
hoàn cảnh, những con người cụ thể. Giáo hội Công giáo đã thực thi mệnh lệnh này
suốt 20 thế kỷ qua. Bề dầy kinh nghiệm này càng ngày càng là bảo chứng cho
những người con ý thức và dấn thân.
Một suy nghĩ tương tự
khác : Nội dung chính của công cuộc truyền giáo chính là truyền bá đức tin. Đức
tin của Giáo Hội Công giáo mà mỗi người chúng ta đang dành cả cuộc đời để vâng
theo. Như vậy thì đương nhiên một đàng phải ý thức và sống đức tin của mình,
một cách đầy đủ, chuẩn mực, đúng luồng, một đàng phải am hiểu kỹ lưỡng về niềm
tin cố hữu của những anh em mà chúng ta đến sống chung và phục vụ. Nó vừa đòi
hỏi sự nhạy cảm về đức tin của mình, lại vừa
đòi hỏi sự đồng cảm và trân trọng tối đa về niềm tin của anh em.
Ở đây nói riêng nơi Dân
tộc Kơho. Từ khi Dân tộc này được hình thành, qua hàng ngàn năm phát triển và
tồn tại, họ đã có sẵn một niềm tin, mọi cung cách diễn tả niềm tin rất đặc thù.
Cộng vào đó là cả một rừng phong tục tập quán trong đời sống cá nhân, gia đình,
xã hội… mà người ta quen gọi là “ đậm đà bản sắc Dân tộc”, khác hẳn với mọi Dân
tộc khác, trong đó có Dân tộc Việt Nam, mà chúng ta là con cháu.
Nói như thế để thấy
rằng Giáo phận Đàlạt và mỗi một thành viên của Giáo phận này, khi thi hành
nhiệm vụ truyền giáo, là đương nhiên phải chạm trán với một “đối tượng nhân
linh” khác hẳn chúng ta về mọi mặt, trừ là con người nói chung. Vậy thử hỏi
chúng ta đã biết gì về những điều đặc thù của anh em Kơho, và đã biết đến đâu,
để có thể áp dụng được vào hai phạm trù hay được đề cập tới bây giờ, khi diễn
tả về công việc Tuyền giáo, đó là “hội nhập” và “nhập thể”. Xin được đặt vấn đề
ngược lại cho dễ hiểu hơn : Nếu không hiểu biết gì hoặc hiểu biết quá ít về anh
em Kơho, mà lại cứ đi truyền giáo cho anh em Kơho, thì ai cũng biết hậu quả sẽ
ra sao rồi. Chớ gì đừng có như vậy nơi chúng ta.
Khi Đức Giám Mục Đàlạt
muốn cho cả Giáo phận cử hành Năm Thánh kỷ niệm 80 năm Truyền giáo này, thì
ngài đã muốn mỗi người chúng ta phải cầu nguyện và suy nghĩ về mọi lãnh vực có
liên quan. Riêng tuần Thường huấn năm nay thì còn muốn làm nổi bật việc tìm
hiểu sâu xa hơn về mọi vấn đề của các anh em Dân tộc bản địa trên địa bàn của
Giáo phận. Và con rất hân hạnh được chia sẻ với anh em trong Giáo phận một đề
tài mang tầm vóc cốt lõi của anh em Kơho : đó là niềm tin cơ bản nơi Dân tộc
Kơho.
Là cốt lõi vì nó đã gắn
liền với Dân tộc Kơho, nếu không nói nó đã là chính sự sống của Dân tộc này từ
khi hình thành cho tới hôm nay. Vấn đề này sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn,
với các tư liệu sống động đã sưu tập được. Qua nguồn tư liệu này, còn chỉ cho
thấy một điều vừa rất đáng quý vừa có giá trị nổi trội, đó là niềm tin này cũng
như mọi cung cách thể hiện nó ra, vẫn luôn còn duy nhất và đồng bộ ở mọi nơi,
mọi thời, trong suốt dòng lịch sử Dân tộc Kơho. Và như vậy thì ai dám nói mình
có khả năng tìm hiểu cho hết, viết ra cho đầy đủ được. Đương nhiên thôi, đời
của một người, cho dù có là ai đi chăng nữa, thì đâu có thấm tháp gì với đời
của cả một Dân tộc. Cho nên với khuôn khổ của một bài được trình bày trong vòng
một giờ, thì cố lắm cũng chỉ gợi ra được một vài điều gọi là cơ bản thôi. Đúng
hơn đây là một kiểu dàn bài tổng quát hơn là một diễn tả có minh chứng.
Vài dòng sau đây có ý
gợi ra đôi nét về chính việc tìm hiểu này. Cụ thể hơn là đã dựa vào đây mà học
hỏi rồi đem áp dụng cách nào đó vào công việc hội nhập, khi được Bề Trên gửi
đến sống chung và phục vụ anh em Kơho.
Tìm về quá khứ, truy
cứu nguồn cội, để so sánh và xây dựng nếp sống hiện tại, luôn là túi khôn của
loài người, cách riêng nơi anh em Kơho. Những câu ca dao, tục ngữ nói về vấn đề
này có khá nhiều. Ví dụ : Jòi yau krau pàng (tầm cổ truy nguyên), Jòi
kồ lồ yau (tìm gốc nạy cổ), hoặc Jăk đòm lài, chài đòm yau (giỏi là
bắt chước xưa, tài là học đòi cổ)… là những câu cửa miệng của các bậc phụ huynh
khi dạy dỗ con cháu.
Như
vậy muốn tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, hay cái hồn sống của anh em Kơho, ngoài
những cách thông thường như sống hoà đồng, yêu thương, tôn trọng, truyện trò,
cảm thông, đồng lao cộng khổ… thì còn cần tìm qua phong tục tập quán, truyện
cổ, các dạng văn vần.
Đi vào cụ thể, muốn hội
nhập đức tin của mình vào với anh em Kơho, cần phải hiểu biết và đồng thuận
cách nào đó vời niềm tin của anh em. Ở đây không có ý đụng chạm tới niềm tin
của một tôn giáo, một thứ niềm tin dẫn tới đức tin, như được thị kiến hay mạc
khải, rồi trải qua lịch sử có giáo lý, giới luật, lễ nghi, hệ thống tổ chức… Ở
đây chỉ muốn đề cập tới niềm tin tiên thiên, một thứ tín ngưỡng dân gian. Tự nó
đã là vậy rồi, không thể cật vấn hay bàn cãi gì được. Nói khác, nó đã thế nào,
thì phải tìm hiểu và trình bày như thế đó, với những bằng chứng mà chính nó
diễn tả ra cho thấy. Cho nên phải loại bỏ mọi định kiến, mọi khuynh hướng muốn
áp đặt, ngay cả những hệ thống hoá có sẵn. Cần đi ngay vào hiện trạng, và từ
hiện trạng lần về quá khứ, càng xa càng tốt.
Để áp dụng vào đề tài
này, tôi thích suy diễn theo kiểu “niềm tin tiền mạc khải”. Qua đây thấy rằng
lịch sử Cựu Ước có nhiều điểm tương đồng với anh em Kơho, cả về mặt tôn giáo
lẫn xã hội. Ở phần Tân Ước, các đề tài về Bí tích, Giáo Hội, cầu nguyện, gia
đình… cũng có khá nhiều điểm dễ ăn nói. Những điều trình bày có vẻ lý thuyết
sau đây, tự nó đã gợi mở một đường hướng hội nhập khả dĩ :
I. Thần linh (Yàng)
II. Quỷ thần (Cà
yàng)
III. Vị Trung gian (Cau
Kòn-gùng)
IV. Hai tương quan :
Linh hồn (Sồp-swàn)Âm phủ (Làng-bồc)
Với anh em Kơho, nói tới
niềm tin là nói tới một quyền năng, một sức mạnh, một sự hiện hữu tự tại, siêu
nhiên, siêu hình… Con người không thể thấy, không thể hiểu, không thể biết, và
cũng không thể diễn tả thế nào cho đúng được. Nhưng lại như bị khựng lại, như
linh cảm được cái gì đó, và nhất là không thể thiếu được trong suốt hành trình
dài của Dân tộc.
Cụ thể hơn là trong mọi
khía cạnh của đời một con người, quyền năng đó vừa ở trên, vừa ở ngoài, lại vừa
ở trong mọi sự, mọi loài, cách riêng con người. Ai cưỡng lại là có vấn đề, có
sự cố không ổn…, nhưng đàng khác, dường như quyền năng này chưa phải là toàn
năng, vẫn có một giới hạn nào đó.
I. THẦN, THẦN
LINH, THƯỢNG ĐẾ, THIÊN CHÚA … (YÀNG)
Thần linh với con
người, một tương quan hữu cơ, đã có, đang có, và sẽ còn mãi. Thế nên, đó cũng
là đề tài cơ bản, phải đề cập tới trước tiên, để hiểu biết và có cơ sở hội
nhập. Không có dân tộc nào mà không cho đây là nền tảng, là lẽ sống, là sự tồn
vong… của cả đời này lẫn đời sau.
A. Thần linh vô
hình, vô danh
1. Từ Yàng là một
danh từ chung, một từ ngữ để nói, nghĩ, mường tượng ra Ngài. Quả thực, nếu từ Yàng
là tên Ngài, thì với người Kơho không thể chấp nhận được. Người con có một điều
tối kỵ là gọi tên bố mẹ cũng như các trưởng bối, dù bất cứ hoàn cảnh nào, huống
chi gọi tên Thần linh.
2. Qua sinh hoạt hằng
ngày, đặc biệt qua các lời cầu nguyện, khi nói đến từ Yàng, thì từ trong
đầu người Kơho nghĩ ngay đến một Đấng duy nhất, vô hình, vô danh, cao cả, quyền
năng, hiện diện khắp nơi… Ngài ở rất xa và cũng rất gần với con người. Hạnh
phúc nhất của đời người là được ở gần Ngài (rềp Yàng), hay được Ngài ở gần
(Yàng rềp). Tuyệt vời hơn nữa là được trở nên Ngài (Cau Yàng). [Linh
mục Jean Cassaigne đã dùng từ Yàng Cau để diễn tả cụm từ Chúa-làm-người,
Chúa Người]. Những người như vậy còn gọi là Thần ở (Yàng ơm),Thần đậu
(Yàng rơp).
3. Vị Thần này tạo dựng
tất cả (crơng-gơs), nắn tạo tất cả (klăc-mòn), ấn định tất cả (dŭ).
Con người có là gì, có làm gì nên chuyện, cũng đều do Ngài mà có, mà được,
mà nên. Khi người mẹ có thai, người ta nói về bào thai đó là Thần kết (Yàng
klăc), Thần tạo (Yàng mòn), Thần đặt nhau (Yàng ơn sò), Thần
phú hồn (Yàng crò swàn). Người có tài là Thần vạch mầu (Yàng cih gur),
người đẹp là Thần nắn đều (Yàng pơnring), kết bạn là Thần kết tóc (Yàng
kwăt che so), chết là Thần gọi (Yàng hòi)… Nói chung, mọi sự phải
được ý Ngài, được lòng Ngài (tăc tồr Yàng, ring tồr Yàng).
4. Vị Thần này rất
thích được con người gọi (hòi), cầu (răc), tế lễ (Lơh Yàng),
dâng kính (pơdơng). Ngài luôn luôn chấp nhận, không bao giờ từ chối. Vì
nó luôn xuất phát từ lòng thành kính của con người, và con người cũng chỉ muốn
làm hài lòng Ngài, và mong muốn được Ngài ở gần.
Trong ngôn ngữ có mời
Thần ăn uống chung (nô sa bal) nhưng là ăn uống kiểu hương hoa, thơm
thảo. Phần thịt dâng lên Ngài, người ta lấy xuống ăn hoặc chia nhau, coi đó như
là một sự liên kết với Ngài (tơrnăm Yàng). Ngược lại cái gì đã ném (cơm)
cho quỷ, thì không bao giờ lấy lại.
5. Một cám dỗ triền
miên với loài người nói chung là muốn tạc tượng Thần, định vị Thần. Người Kơho
cũng vậy, nhưng họ đã phải trần mình mày mò suốt dòng lịch sử Dân tộc mà cũng
không tìm ra. Nơi nhiều Dân tộc xem ra điều này có vẻ dễ dàng.
Nỗi khắc khoải của tiên
tổ Kơho như được Thần linh báo mộng (tờs mpau). Họ đã sáng chế ra một số
kiểu cách để chuyển tải niềm tin, để đặt tâm tư tình cảm tôn kính của Dân tộc,
để chứng tỏ lòng thành kính của mình, và như để lôi kéo sự hiện diện và chứng
giám của Ngài.
a.
Những nét hoa văn, những cách trang trí dịp lễ, những định vị nơi
ăn chốn ở của gia đình… cũng không loại trừ hàng trăm, hàng ngàn điều kiêng kỵ.
Tất cả và từng sự kiện đều diễn tả tâm tình và nhắc nhở nhau nghĩ tới Thần
linh.
b.
Nhưng trước hết và trên hết, nơi mà mọi người phải
hướng về, phải tôn kính, phải dè giữ… và phải nhìn nhận có sự hiện diện liên lỉ
của Thần linh, đó là bàn thờ Thần linh (jơnào Yàng). Mỗi gia đình phải
có một bàn thờ riêng kính Ngài, được đặt ở một vị trí đặc biệt nhất trong nhà.
Vì Ngài vô hình, vô danh, nên bàn thờ luôn để trống. Chỉ đặt của lễ lên đó khi
có Tế lễ, nhưng sau đó lấy xuống liền. Người ta cung kính gần như thái quá bàn
thờ này. Chỉ vị chủ sự (cau tờm lơh) hoặc Tư tế Thần linh (Kơiơng
Yàng), khi cử hành lễ, mới có quyền đụng tới. Các góc của bàn thờ này cũng
gọi là sừng bàn thờ (ngke jơnào).
6. Mọi nghi lễ Tế Thần (Lơh
Yàng), công hay tư, lớn hay nhỏ, đều phải có một sinh vật để sát tế. Trước
khi sát tế, vị chủ sự hay Tư tế ăn mặc chỉnh tề, tiến vào chỗ dành riêng (jơngrŭ)
để gọi Thần (hòi Yàng). Dứt lời là giết con vật. Việc đầu tiên là
lấy máu tế vật bôi lên sừng bàn thờ, các linh vật trong nhà, và xức trên trán
các người có liên hệ tới lễ nghi hôm đó.
B. Thần linh hữu
hình, hữu danh.
1. Như có nói ở trên về
vị Thần linh vô hình, vô danh, người Kơho đã có nhiều nỗ lực hòng đạt đáo phần
nào các đòi hỏi của niềm tin. Nhưng xem ra nỗi bức xúc về niềm tin này vẫn
không ngơi nghỉ, mỗi khi phải liên tưởng, nhất là khi phải thể hiện trong cuộc
sống hàng ngày. Nên trải qua năm tháng, họ đã tìm được cách thể hiện hoá, hữu hình hoá cái quyền lực, cái tình cảm của vị Thần
linh trên đối với con người.
Người Kơho đã gán nó
vào những tạo vật tốt, có liên hệ trực tiếp đến đời sống. Mỗi tạo vật tốt đều
thể hiện phần nào đó các ưu phẩm của Thần
linh. Từ đó phát sinh vô số Thần linh hữu hình, hữu danh.
2. Tất cả đều là Thần
lành, nuôi sống con người, giúp đỡ con người sinh hoạt. Có khi những vị đó còn
là chính sự sung túc của con người nói chung, và của mỗi gia đình nói riêng. Nó
chứng tỏ người đó, gia đình đó được Thần linh ở gần và bang trợ. Không có danh
xưng thần dữ nào nơi ngôn ngữ Kơho.
3.
Qua phong tục tập quán, qua cung cách tổ chức một buổi lễ, đặc biệt qua các lời
cầu nguyện, người ta cảm nhận ra rằng, các vị này chỉ là thứ yếu. Nói khác, các
vị chỉ như một cầu nối, một của lễ để tiến dâng. Hoặc có thể nói các vị như
những phương tiện chuyển tải lòng thành kính của con người, đồng thời cũng thể
hiện cách này cách khác lòng tốt, sự ưu ái của vị Thần Tối Cao đối với con
người. Chưa hề nghe có ai kêu Thần hữu danh ra để cầu nguyện như là mục đích
tối hậu.
4. Các vị này đều có
một giới hạn, có khi rất giới hạn. Giới hạn ngay trong cái tên của các vị.
Trong thực tế cũng thấy có sự khoanh vùng này. Đụng vào khu vực đó mới có vấn
đề, ngoài ra các vị cứ ở yên. Cũng không vị nào được xâm phạm lãnh thổ của các
vị khác. Không nghe nói có sự tranh chấp. Một kiểu như đất có thổ công, sông có
hà bá. Cũng dễ cho con người xử sự.
5. Dù vậy, người Kơho
cũng rất tôn trọng các vị này, nhất là những vị có liên hệ trực tiếp đến đời
sống con người. Mỗi vị đều có cách thế riêng để con người thể hiện sự cung
kính. Không thể nêu ra hết các ví dụ cụ thể, chỉ xin trình bày tóm tắt hai vị
tượng trưng :
a.
Thần nhà (Yàng hìu). Còn có một tên
chuyên biệt Drăp me (choé chủ).
Drăp me có hai chiếc, một đực một cái. Là hình ảnh của các thế hệ vợ
chồng tiên tổ. Nó tượng trưng cho linh hồn của gia đình. Là gia thần chăm sóc
gìn giữ gia đình.
Nghi thức chính khi lập
Drăp me là gia chủ đặt tay mình vào đó, rồi cầm tay mọi người trong gia
đình đặt vào. Mỗi khi gia đình tiếp nhận một thành viên mới, gia chủ đều làm
như vậy. Hàm ý tự giới thiệu, trình diện với tiên tổ, xin chấp nhận và bang
trợ. Có thể gọi đây là bàn thờ gia tiên.
b.
Thần lúa hay Thần nông (Yàng kòi). Vị này còn có một tên
khác gọi là Ndu. Theo cấp bậc,
thì sau Yàng hìu, vị này được tôn trọng cách đặc biệt. Chỉ qua vị này
thôi, mới có lễ tế chung cho cả làng. Ngoài ra còn có rất nhiều nghi lễ khác
riêng mỗi nhà hàng năm. Mọi hành vi cử chỉ đối với Thần lúa đều phải nhẹ nhàng,
chậm rãi, cẩn thận, kính cẩn, nhất là những công đoạn trực tiếp động đến lúa.
Xúc phạm cách nào đến Thần lúa, phải kể như xúc phạm đến chính Thần linh, gọi
là Lèt mơ Yàng, mbràng mơ kòi (bất cẩn với lúa là qua mặt Thần linh).
6. Mặc dù đã có cả trăm
tên vị Thần này, nhưng người Kơho vẫn có một tâm trạng chung, là sợ còn vị nào
đó chưa có tên, nên họ đặt chung một tên là Thần mồ côi (Yàng kòn đời).
Họ còn diễn tả một cách khác là Thần không nhớ hết, Thần quên gọi tên (Yàng
ờ jơh lah, Yàng ờ kah hòi). Suy nghĩ cũng thấy có tương đồng với trường hợp
Thánh Phaolô gặp ở Athène.
II. QUỶ (CÀ),
QUỶ THẦN (CÀ YÀNG).
Thần linh và Quỷ thần,
Thần lành và Thần dữ, Thánh thần và Sa tan… Những cặp từ như vậy hình như không
có rời nhau ở trong bất cứ một niềm tin sơ đẳng nào. Nó có thể gợi ra rất nhiều
câu hỏi. Nhưng để trả lời đáo lý thì lại không dễ. Cũng vậy, với anh em Kơho,
họ tin có vậy, chả ai nghĩ tới đặt vấn đề, còn nói chi trả lời.
Trong khi trình bày về
Thần linh, đã thấy có những nét liên hệ tới quỷ. Ở đây cũng sẽ thấy vậy. Mục đích
là để dễ biện phân.
A. Quỷ vô hình, vô
danh.
1. Quỷ hiểu chung là
Thần dữ, hay quyền lực sự dữ, chuyên làm điều ác, và tìm cách hành hạ con
người, kể cả sát hại. Chưa ai đã thấy hay chỉ mặt đặt tên được nó. Quỷ bàng bạc
ẩn hiện khắp nơi, len lỏi vào cả tâm khảm con người, rình rập con người từ khi
chào đời cho đến chết.
2.
Người ta rất sợ Quỷ. Trong mọi lời cầu, thường nói rõ cách này cách khác là xin
Thần linh cho khỏi gặp Quỷ thần. Trong thực tế, người Kơho vẫn tránh xa những
gì họ tin là có Quỷ. Cứ sự thường, gặp Quỷ là có sự chẳng lành. Người ta tin là
phải có “cái nhớp” nào đó thì Quỷ mới tìm gặp. Không ai dại gì mà để cho sự cố
này xảy ra, nên lập tức phải Tế Thần đuổi Quỷ (Lơh Yàng ting Cà).
3.
Vậy là từ ý niệm, ngôn ngữ đến cách diễn tả, đều có sự phân biệt rõ ràng giữa
Thần linh và Quỷ thần. Có thể tóm gọn trong hai từ :
tác
sinh (tơngkis) và tác tử (tơnchơt). Trong niềm tin dân gian cũng
diễn tả rằng : khi nào, nơi nào có Thần linh hiện diện thì không thể có Quỷ
thần, hoặc Thần linh vô hiệu hoá Quỷ thần. Thế nên muốn tránh Quỷ là phải ở xa
nó, phải cầu nguyện luôn, phải tìm mọi dịp để có thể Tế Thần. (Lơh Yàng)
4.
Trong tâm thức bình dân, người ta cũng tin chỗ này có nhiều Quỷ hơn chỗ kia,
làng này có nhiều Quỷ hơn làng kia… Nhưng trong thực tế, mọi người Kơho đều
muốn giàu Thần (păs Yàng), gần Thần (rềp Yàng)… Chả ai muốn ngược
lại, càng không muốn cho ai nghĩ mình như thế.
5.
Một điểm khá đặc biệt nơi anh em Kơho là không có nghi thức Tế Quỷ. Ngược lại, mọi
nghi thức Tế Thần là để đuổi Quỷ. Cũng vậy, không hề thấy họ bái lạy bất cứ một
thần tượng nào.
B.
Quỷ hữu hình, hữu danh.
1.
Tự bản chất, Quỷ là sự dữ, nhưng sự dữ thì muôn hình vạn trạng, có nhiều cấp độ
khác nhau. Người Kơho cố tình tách biệt nó ra, đặt tên, định vị, khoanh vùng
hoạt động cho nó. Một phần để dễ chỉ mặt, xếp hạng, một phần là để cảm nghiệm
được cái bậc thang, cái mức độ của sự dữ hay sự sợ hãi. Thực tế có người sợ thứ
Quỷ này mà không sợ thứ Quỷ kia.
2.
Sự phân biệt theo danh xưng chỉ có ý nói lên các sự dữ khác nhau của một tên
Quỷ ở trên các quỷ. Nói khác Quỷ vô danh hiện thân trong Quỷ hữu danh. Có điều
cách đặt tên ở đây, xét theo nội dung từ ngữ, có hơi khó phân biệt cho những ai
chưa quen sử dụng, bởi vì quá bán là danh từ trừu tượng, khó mà định vị. Nhiều
khi chỉ là cái ác riêng ghép thêm vào cái ác chung.
3.
Bên cạnh các từ có ghép từ Quỷ vào, còn khá nhiều từ chỉ nơi chốn mà mỗi khi
người Kơho nghĩ tới, nhắc tới … là nghĩ ngay đến Quỷ, đến sự dữ rình rập của
Quỷ. Người ta tránh những nơi đó. Ai dù vô tình đụng chạm tới cách nào đó sẽ
mắc hoạ. Nhưng chỉ những người yếu bóng vía (lơbơn
hwềng) mới bị nó hành, có khi đưa tới tử vong.
C.
Giải pháp thực hành : đuổi Quỷ (ting cà)
Ở
nhiều điểm khác xem ra tự nó đã gợi mở cho sự hội nhập. Ở đây có hơi khó. Tạm
thời mới chỉ thử so sánh và cầu nguyện. Có ý nói tới những phương tiện trần
gian mà chính Chúa Giêsu và Giáo hội vẫn sử dụng.
1.
Không thể mỗi lúc lại gọi Thần và Tế Thần. Hơn thế những sự cố xẩy ra đây
thường là đột xuất. Nên trong cuộc đấu tranh giành giật sự sống với Quỷ, con
người phải cố tìm ra những phuơng thế để đuổi Quỷ. Nói đúng hơn, Thần linh
dường như đã đặt để sức mạnh của mình trong một số sự vật, rồi cho con người có
khả năng tìm đến. Quả thực, trong khi sử dụng những phương tiện này, người Kơho
luôn lẩm bẩm, thầm thĩ cầu nguyện với Thần linh.
2.
Có một niềm tin rất mạnh vào những phương thế này. Trường hợp đã dùng mà không
thấy hiệu quả, thì người ta lại tin rằng Thần linh đã ấn định vậy. Và như thế
là đã quá đủ để an tâm, không phiền trách gì nữa. Dưới đây là vài phương
thế :
a.
Roi mây (gai wai). Giây này thuộc loại
mây rừng mọc từng sợi, rất dài. Người ta đào lấy cả rễ và lấy thêm một quãng
sát gốc, đem về làm roi đuổi Quỷ. Bất cứ lúc nào người ta nghĩ có Quỷ rình rập,
là đem roi này ra quất veo véo. Đặc biệt là khi vợ đẻ, đi báo tử, đi đòi hồn …
b.
Linh vật (đèk). Được gọi vậy, vì người Kơho tin rằng Thần
linh ban cho người nào, người đó mới bắt gặp. Nó có nhiều loại : một cục đá mầu
lạ, một hột cây khác thường, một cục trầm hương, hổ phách, răng và móng cọp…
nhưng phải là dạng tự nhiên hay tự rụng. Những vật này để kín trong nhà hay lận
vào người.
III. VỊ TRUNG GIAN (CAU
KÒN GÙNG).
Đây là một nét đặc sắc nhất,
một điểm son trong kho tàng niềm tin của Dân tộc Kơho. Nó làm cho niềm tin thêm
hoàn hảo và có giá trị đặc thù.
A. Lai lịch.
1. Lần dở lại các
truyền thuyết, truyện cổ, các câu văn vần nói về Ông, cộng thêm các nghi thức
mời và cầu tới Ông, có thể đưa ra một vài chi tiết về Ông như sau : Mẹ Ông là Kơ
Bìng, được Thần linh xuất hiện trong một Vầng Sáng lớn (có chỗ nói mặt
trời), dưới hình một cụ già râu tóc bạc phơ. Cụ cho Kơ Bìng thụ thai
bằng cách cho ăn một trái cây. Kơ Bìng sinh con trai, đặt tên là Sơđèn.
Ngoài tên tộc này, người Kơho còn đặt cho Ông nhiều biệt hiệu khác : Wàn,
Jù, Chah, Krăs, Wàm, Nàu… Những tên này có là vì mầu da Ông sạm đen. Người
ta chỉ gọi Ông bằng những biệt hiệu này mà thôi (kỵ huý).
2. Sơđèn sống
rất nghèo. Hồi còn nhỏ, thường bị bạn bè đồng trang lứa khinh dể. Khi lớn lên
có nhiều thể hiện tài giỏi xuất chúng, nên được nhiều người nhờ vả. Nhưng Ông
không tự phụ, luôn dùng mọi khả năng trời cho này để giúp đỡ mọi người.
3. Không thấy nói đến
cái chết hay hoá thân của Ông. Chỉ nói Ông đã về với Vầng Sáng. Như vậy, Ông
không có tiền thân, cũng chẳng có hậu duệ.
B. Theo niềm tin dân
gian
1. Ông là một vị Thần
Nhập Thể, một Thần Người. Cho đến hôm nay, Ông vẫn là một vị Trung Gian duy
nhất giữa con người và Thần linh cũng như Quỷ thần.
2.
Ông hoàn toàn đứng về phía con người, để cứu giúp mọi người, mọi nơi, mọi hoàn
cảnh. Ông có thần thế như tuyệt đối, lại rất năng nổ, tích cực. Mọi người già
trẻ, nam nữ đều có thể mời Ông đến xin giúp đỡ, can thiệp, trong mọi tình huống
mà con người vô phương đạt đáo.
3. Ông có mặt cũng như
khuất dạng chỉ vì con người, và cho con người. Chính sự khuất dạng của Ông lại
là cái cớ để Ông có mặt ở bất cứ nơi đâu, cho bất cứ ai.
C. Thực hành niềm tin.
1. Muốn có một dấu chỉ
tượng hình liên hệ tới Ông, mỗi khi cần mời và xin Ông giúp, cũng là một chứng
cứ tin là Ông có mặt và nhận lời. Người ta dùng chính cái nghĩa của biệt hiệu
Ông, rồi moi móc trí tưởng tượng, để rồi sau đó hình thành một nghi thức gọi là
“ Xối than” (Crùh chah, Cro krăs).
2. Công việc như sau :
lấy một vài cục than hồng, nhễu vào đó vài giọt nước. Khói sẽ bốc lên. Nương
theo khói, người ta suy nghĩ hoặc lẩm bẩm nói lên điều mình thỉnh cầu với Thần
linh. Vị Trung Gian sẽ có mặt tại chỗ, đem lời khẩn nguyện của mình đi để bầu cử.
3. Nghi thức này cũng
thường được cử hành trước các lễ nghi khác, khi đó là xin bầu cử cho nghi lễ
được tốt đẹp. Trong lễ nghi an táng, thì nghi thức này lại bao hàm ý xin Vị
Trung gian dẫn đường người mới qua đời về với tiên tổ.
IV. HAI TƯƠNG QUAN CỦA NIỀM TIN :
LINH HỒN, ÂM PHỦ.
Linh hồn và Âm phủ là
hai đối tượng của niềm tin có tính cơ bản. Nó thuộc con người và cho con người.
Con người tin về chính mình. Có điều mỗi sắc dân lại có một ý niệm khác nhau,
từ đó đưa đến những cách hành xử cũng khác nhau.
A. Linh hồn (Swàn,
Sồp-swàn)
Theo niềm tin Kơho,
linh hồn con người có một chỗ đứng rất quan trọng trong tâm tư tình cảm, và
trong rất nhiều nghi thức cúng tế, đàn tràng.
1. Xét theo nội dung từ
ngữ, thì cũng như quan niệm chung thường hiểu. Đó là cái phần thượng ở chung
với cái phần hạ, cái nội dung ở trong cái hình thức, cái ruột ở trong cái vỏ.
Riêng từ swàn của người Kơho còn có thêm nhiều nội dung ý : vật quý, cái tinh
chất, cái tinh hoa, cái sống của một vật.
2. Theo niềm tin : Linh
hồn là giống thiêng liêng, không thể thấy, không thể chết. Hơn thế, nó còn làm
cho vật chất có sự sống, có bản lãnh, có sự sung túc. Là cái gì đó thật bền
vững, không suy suyển, dù bất cứ tình huống nào, ngay cả cái chết phần xác.
3. Linh hồn vừa làm cho
vật chất có sự sống, nhưng nó còn có sự sống riêng, có thể tách rời. Ngược lại,
vật chất nào không có nó, thì kể như vô dụng. Nếu áp dụng cho sinh vật, cách
riêng cho con người, thì cho dù còn sống cũng kể như đã chết, hay sẽ chết cấp
thời.
B. Âm phủ (Làng-bồc)
1. Làng-bồc, nghĩa đen
là “tử dân”. Anh em Kơho cắt nghĩa là : Anih cau chơt ơm kis (nơi người chết
sinh sống) ; hay tiah cau chơt dê (miền đất
của người chết). Như thế, rõ ràng chỉ có duy nhất nơi này thôi, là nơi ở của
mọi người chết, không phân biệt sang hèn, tốt xấu. Người Kơho không có ý niệm
gì về thiên đàng, luyện ngục, hoả ngục.
2. Cuộc sống ở Âm phủ
xem ra cũng rất nhộn nhịp, chẳng khác gì thế giới người sống. Cũng ăn uống,
tiêu xài, làm việc, cưới xin (không thấy nói sinh con). Họ toàn dùng đồ thiệt
chứ không dùng đồ dổm. Các vật dụng đem đi với người chết toàn là đồ tốt, đắt,
quý.
3.
Không thấy nói có thưởng phạt. Thần linh không thấy có liên hệ gì ở nơi đây.
Quỷ thì có mặt, nhưng chỉ giữ vai trò canh gác, không cho ai ra khỏi đây. Nhưng
xem ra Quỷ vẫn thua trí khôn của Linh hồn. Nên hồn người chết, nếu muốn, có thể
qua mặt Quỷ để dễ dàng ra về (Lik rê).
4. Ra về (Lik rê). Là
Linh hồn có thể bỏ Âm phủ để về dương gian dưới nhiều hình thức : về để thăm
nom chăm sóc gia đình, về để đầu thai vào một người nào đó trong gia tộc, dòng
tộc, về để thẩm nhập cái hồn sống Kơho trong anh em Kơho còn sống, làm cho
người đó luôn sống trong cái âm hưởng của người đã khuất. Có lẽ ở điểm này mà
người ta lý giải được cái hồn thiêng hay cái bản sắc Dân tộc còn lưu truyền.
5.
Qua tư liệu và các thực hành, thì cốt lõi vấn đề chỉ có thể diễn tả được như
vậy. Bản thân người Kơho cũng chẳng thấy cần tìm hiểu tỉ mỉ, nên cũng chẳng ai
giải thích được gì hơn. Họ chỉ cần thi hành một số nghi thức theo phong tục tập
quán là yên tâm, và khép lại vấn đề.
Lời Kết :
Đề tài này vừa cơ bản,
lại vừa bao la.
Niềm tin cũng như đức
tin vẫn mãi mãi là một đối tượng phải học hỏi, phải tìm kiếm… nhất là phải cầu
nguyện, nài xin, và lúc nào cũng vẫn như chỉ là mon men.
PHẦN PHỤ THÊM
Ở phần này có ý kể ra
một vài chuyên đề quan trọng có liên hệ trực tiếp tới niềm tin cơ bản vừa đề
cập. Mục đích là để có một tầm nhìn đầy đủ hơn về niềm tin nói chung nơi Dân
tộc Kơho. Vì thấy chắc chắn không có giờ để kê khai ra hết mọi chuyên đề, chứ
đừng nói gì đến chuyện kể ra thêm một vài nét cụ thể nào đó của mỗi chuyên đề.
Nhưng theo thiển ý, khi kể tên nó ra thì tất cả chúng ta đều đã có thể có một
hình dung về nó rồi. Vì cụ thể là, kẻ ít người nhiều, mỗi người chúng ta đã có
trông thấy hay tham dự cách nào đó, hoặc chí ít cũng đã có nghe nói đến rồi.
I. Niềm tin suy
diễn.
1. Cau cà (người
quỷ)
2. Cau bơjơu, jơnăng,
jơnồng, jơnồt, gru (thầy cúng, thầy thuốc, thầy lang…)
3. Cau Yàng (người
Thần)
a. Một biệt danh
b. Cau bơrnoh boh brê (vị
quản lý đất)
c. Cau kơiơng Yàng (vị
Tư Tế Thần linh)
d. Cau jăk cau chài (người
tài người giỏi), (Cau kòn-gùng, cau kồn pàng)
II. Thực hành niềm
tin
1. Tế Thần nói chung :
a. Lịch sử
b. Vài mấu chốt
c. Việc chuẩn bị
2. Thời điểm cho các
dịp Tế Thần :
a. Theo mùa vụ
b. Lúc nông nhàn
c. Không theo mùa vụ
3. Vài dịp Tế Thần
chính :
a. Lơh Yàng nô wèr
b. Lơh Yàng nô sa rơpu
c. Lơh Yàng nô lềr bong
d. Lơh Yàng rào să
e. Lơh Yàng preh bòn
4. Vài ý nghĩa tiêu
biểu :
a. Khi tái hiện
b. Chuẩn bị xa
c. Chuẩn bị gần
d. Chính lễ