TÌM HIỂU VÀI NÉT KHÁI QUÁT

VỀ TẬP TỤC MA CHAY CỦA NGƯỜI CHURU

Ở ĐƠN DƯƠNG – LÂM ĐỒNG

Lm. Phaolô B’ Nahria Yatine

 

Cộng đồng người Churu, đang sinh sống và làm ăn tại hai vùng chính mà trước đây người ta thường gọi là Quận Dran và Quận Đức Trọng. Nhưng họ chỉ sống và ở những nơi chạy dọc theo dòng chảy của sông Đa Nhim thuộc khu vực phía nam của con sông, gọi là Nam Sông tiếp giáp với tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, sống theo cụm dân cư thành thôn ấp, có chung ngôn ngữ chính là tiếng Churu. Bắt đầu rải ra từ Huyện Đơn Dương thuộc các thôn Diom A, Diom B, B’Kăn, Kađô, Pró, Mađanh... Ở Huyện Đức Trọng có các thôn : Pré, Tain, Lơwang, Xóp, MơAm, Ma bó, KơJong, Chrang... Tiếng nói thuộc ngữ hệ Malayo Polinesian, theo chế độ mẫu hệ. Dân số khoảng 15.000 người, sinh sống bằng nghề nông nghiệp và chăn nuôi. Chủ yếu bằng cây lúa nước, gieo sạ trên các thửa đất bằng, làm nương rẫy trên đất bằng, đất đồi, chỉ có ít trường hợp phát rừng làm rẫy.

Về tín ngưỡng, có thể nói người Churu cũng thuộc sắc tộc đa thần, vì đời sống tâm linh, họ tin vào và tôn thờ các vị thần linh : rừng, núi sông nước, đất... và thờ cúng ông bà tổ tiên, gọi chung là (Duh Yàng – tơlàng atơu). Họ quan niệm rằng cư dân sinh sống được yên ổn và tồn tại là nhờ có các vị thần phù hộ, nên phải biết tạ ơn các vị thần bằng các hình thái cúng giỗ qua các lễ hội theo tập tục. Trong đó có tập tục ma chay, tôn thờ linh hồn người đã khuất vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Tập tục ma chay dân tộc Churu có ba mốc kỳ hạn chính : Mơtai, kloh tơjuh và Pơthi (chết, giáp tuần hay kỳ hạn bảy, bỏ mả hoặc mãn tang)

I. MỘT SỐ NGHI THỨC CƠ BẢN

    TRONG TANG TỤC NGƯỜI CHURU.

Khi có một người qua đời mà tiếng Churu gọi là m’tai. Theo quan niệm, họ cho rằng có linh hồn rời khỏi phần xác và đi vào sinh sống ở thế giới bên kia gọi là rơlồng atơu (cõi âm phủ). Đến một lúc nào đó sẽ đầu thai (yoă yồn) đi vào kiếp sống khác : có thể là trở về với thế giới con người hoặc là thế giới con vật. Khi có một người m’tai, thì các nghi thức ma chay luôn được diễn ra theo tiến trình của nó như : hấp hối – tắt thở (chết) – báo tử – liệm xác – tiễn biệt lần cuối – lễ an táng – tiễn đưa tới nhà mồ – thăm mộ.

1. Hấp hối : pui soằn thì có Tục “Le ia

Khi hấp hối – sắp tắt thở, hay trút hơi thở cuối cùng : họ tiến hành đỗ nước lã trong cái bát có đựng chiếc nhẫn, rồi dùng chùm ngón tay chấm nước để nhỏ giọt xuống miệng và vừa đếm từ 1 đến 7. Đến giọt thứ 7, người nhỏ giọt lẫm bẩm vài lời cầu xin với người sắp chết cần mọi sự tha thứ, hoặc người sắp chết cần sự tha thứ của người thân và những người khác mà họ cảm thấy đã xúc phạm, hiểu lầm, thiếu sót, va chạm, tiếng qua tiếng lại với nhau trong cuộc sống hàng ngày. Chính sự tha thứ đó sẽ đem cho họ được sự bình an và không còn có một hối hận gì gọi là “tơyoh ia toh glài tồ nau jơlàn siàm” nghĩa là giọt nước tha thứ, để lên đường bình an.

Dụng nghĩa : đó là ân huệ cuối cùng cần có đối với người qua đời…

2. M’tai, lơhiă (chết) :

Khi mới chết, họ lấy nước rửa mặt mũi, thân thể và tay chân. Bao nhiêu quần áo mới – cũ của người đã khuất mà lúc đang còn sống đã dùng hay bộ nào chưa dùng, đều cho mặc hết vào người. Trải chiếu và đặt nằm xuống, sửa thi hài nằm ngay ngắn, lấy khăn Chăm (khăn trắng có hoa văn) đắp lên người. Đắp nhiều hay ít tùy thuộc người giàu hay nghèo.

Cũng có nơi, mới chết, họ lấy tám hòn than bếp đã nguội lạnh buộc vào dẻ đặt vào nách người chết. Nách bên kia đặt một túi cơm (bơlơ) : có trứng gà, có một con gà con, có cơm. Người ta quan niệm và tin rằng : những hòn than là ánh sáng chỉ đường cho người đã khuất trở về với ông bà tổ tiên.

3. Chơu sơgơr (trống báo tử) :

Theo lẽ thường, khi có một người trong làng vừa mới qua đời, thì già làng lập tức đánh hai tiếng trống liên hồi làm tín hiệu thông báo cho bà con trong làng biết rằng : trong làng có người vừa mới chết. Tiếng trống đó gọi là trống báo tử (sơgơr pơthơu hu m’muih m’tai)

Sau đó, tang gia cắt cử người đi đến từng gia đình. Bắt đầu từ các gia đình gần nhất, rồi tới các gia đình xa ở đầu làng cuối làng. Theo tục lệ của người thượng, đặc biệt là với người Churu, dù chuyện vui hay buồn đều phải làm như thế. Vì nếu không đi báo đến tận từng nhà như vậy, thì ngay cả các gia đình gần bên cạnh nằm ngay sát nách, họ chẳng đến viếng và chia buồn, huống chi là các gia đình ở xa. Kế đó, họ lại cử người (thường là người có uy tín, biết đường biết lối, biết làng, biết nhà, biết người, biết ăn biết nói) đi đến báo cho các làng láng giềng xa – gần mà tang gia, cũng như người qua đời đã từng có mối tương giao với nhau hay có liên hệ ruột thịt, bà con họ hàng, dòng tộc, bạn bè thân hữu... cùng biết mà đến để phúng viếng và chia buồn với tang gia.

Khi đến chia buồn, những thứ mang để phúng viếng thường là tiền, khăn chăm, gạo, mắm, muối, gà, vịt, heo, dê, ché rượu cần to, nhỏ... tùy theo mức độ quan hệ, vai vế, xa gần, hoặc cả chức vụ, địa vị trong xã hội...

4. Pò atơu (liệm xác) :

Pò atơu được tiến hành một cách đơn giản, cho mặc quần áo mới, váy mới, tùy theo đối tượng là nam hay nữ. Rồi phủ thêm các lớp khăn lên trên người chết, có lót ít tấm khăn ở dưới và lớp tận cùng là tấm chiếu được đan bằng cói... rồi đặt thi hài xuống quan tài. Liệm xác thường được cử hành vào lúc 19g hay 20g tối, vì đó là thời gian thích hợp nhất : bà con họ hàng, xóm làng đi làm về kịp và có thể tham dự được phần nghi thức này.

 

 

Lơsơi pâm

- Kẹp bị cơm, thịt gà chín nguyên con vào nách người chết gọi là lơsơi pâm. Dụng nghĩa rằng người chết qua thế giới bên kia cần dùng, phòng khi đói trong thời gian chờ làm thủ tục “xuất cảnh”.

- Phía trên người chết đạt cái vòm đỡ phủ khăn, nhằm giúp che lại toàn bộ thi hài. Trên cái vòm treo đầu, cánh, đuôi của con gà (bỏ phần thân) tạo hình con gà gọi là mơnu choh rơwai (gà mổ ruồi).

- Đến chiều tối ở hai bên các cửa chính nhà có người chết : dựng cây giáo treo hai dải khăn, để trừ ác quỷ (prơh kờm-m’lai phùt-phòn).

- Những người đến chia buồn, mang theo của phúng điếu : tấm khăn, quần áo, váy, tiền bạc, vòng, nhẫn, rượu, gạo, gà vịt… để cùng lo tang chế. Thể hiện tình làng nghĩa xóm và cả tính cộng đồng nữa. Có một số người ở lại cùng tang gia, đặc biệt bà con họ hàng ở xa, chờ đến khi chôn cất xong mới về. Bình thường, họ để xác trong nhà ba ngày hai đêm thì mới chôn cất. Điều này dẫn đến nhiều vấn đề khó khăn trong đời sống của bà con cũng như trong mục vụ :

·         Trong đời sống (môi trường hay môi sinh) : đây là thời gian vừa đủ làm cho thi thể bị phân hủy, chảy nước và có mùi. Theo tục lệ, bà con họ hàng thường ngồi xung quanh quan tài để túc trực, khóc than cả ngày lẫn đêm, kèm theo vấn đề ăn uống, nhậu nhẹt, say sưa xung quanh, ngay bên cạnh người chết. Đó là cách mà theo họ đã giải thích và cho rằng : để thực hiện đạo lý làm người, là hết tình nặng nghĩa của mình đối với người đã khuất. Nếu có ai tránh né, không dám túc trực theo kiểu đó, là người không có tình lớn không có nghĩa sâu, không có lòng hoặc không có bụng. Nhưng nói gì thì nói, đây là vấn đề đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, giải thích cho rõ ràng và cụ thể, cương quyết và dứt khoát hầu mang lợi ích cho đời sống của họ. Nếu cứ theo quan niệm hay tục lệ đó, thì quả thực đời sống của họ không biết chừng mới phát triển được. “Sông có khúc người có lúc”, cái gì hay, tốt đẹp, có ý nghĩa và giá trị thiêng liêng, phù hợp với đời sống của con người trong mọi thời mọi nơi và mọi thời đại thì có thể lưu giữ được và đáng tôn trọng. Còn những gì không phù hợp vệ sinh, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi người, có thể gây lây nhiễm, mất thời gian vô ích, tốn kém, gây ra tình trạng nợ nần, nghèo đói... hay những gì không phù hợp với đà tiến của khoa học, của đời sống xã hội con người đến lúc chúng ta cần phải loại bỏ dần và loại bỏ ngay.

·         Trong mục vụ : đây là vấn đề hết sức khó khăn trong việc cử hành các Nghi thức thánh, như : làm phép xác, đọc kinh cầu nguyện, đọc và nghe diễn giải Lời Chúa, hoặc đọc và nghe các bài suy niệm về ý nghĩa của sự chết. Đến việc cử hành Thánh lễ An Táng cũng vậy, hiện trường vẫn còn nguyên trạng : vẫn còn say xỉn, nằm ngủ ngỗn ngang xung quanh quan tài... Chưa chuẩn bị chỗ, bàn thờ để cử hành Thánh Lễ. Đó là những vấn nạn còn tồn tại từ lúc chưa có Đức tin Kitô giáo cho đến nay. Có lẽ thói quen xấu này, vì nó xảy ra thường xuyên : từ ngày tháng năm này tới ngày tháng năm khác, thành một cái nếp ăn sâu vào trong cuộc sống của họ và biến thành cái tục lệ. Và đã là tục lệ thì mọi người đều phải giữ, chính từ việc giữ đó nó được lưu truyền lại cho hậu sinh. Điều này đã làm cản trở và gây không ít khó khăn trong sự phát triển, nâng cao đời sống văn hóa, kinh tế, trình độ nhận thức và cả đời sống đức tin nữa.

Còn việc giữ tang hay để tang thì sao ? Hầu như họ không đeo tang thì phải.

Cách đeo tang hay để tang của người Churu thường được ẩn kín trong lòng, nên không được biểu lộ ra bên ngoài như là đeo khăn trắng, khăn vàng, khăn đen... của người Kinh hay người Tàu. Cách để tang của người Churu bằng việc dọn đồ ăn thức uống trên mâm đồng, rồi đặt bên cạnh người chết hoặc dọn và đặt dưới di ảnh của người đã khuất nếu trường hợp đã chôn cất xong. Họ nghĩ rằmg : vong hồn của người đã khuất vẫn còn lai vãng phẳng phất đâu đây, nên họ vừa dọn và bày ra thức ăn đồ uống trên mâm, vừa khóc và lẩm bẩm gọi tên người đã khuất, để mời đến dùng bữa.

Người Churu thường để tang theo ba giai đoạn : từ lúc vừa mới chết đến giáp tuần, tức là hết kỳ hạn bảy ngày người Churu gọi là kloh tơjuh. Sau đó từ ba tháng đến một năm hoặc đến ba năm. Khi đủ ba năm tròn sẽ lo việc pơthi, tức xây mộ họ gọi là mãn tang. Lúc này, họ bắt đầu chuẩn bị xây nhà mồ hoặc mộ.

Cách làm quan tài hay áo quan : Họ cắt cử một nhóm người vào rừng hạ thân cây tươi để làm quan tài (bòng atơu). Đoạn thân cây tươi sẽ được lấy theo đúng kích thước của người chết. Rồi dùng búa, rìu, nỏ và nêm để chẻ đôi thân cây ra làm hai. Tiếp theo là các thao tác: đục, chọc bọng nơi chính giữa thân cây tạo thành một lỗ sâu vừa đủ và đúng với kích thước của người chết để đạt thi hài. Hai tấm chẻ đạt úp lên nhau ôm lấy và bọc kín thi hài, đường khe chẻ được nhồi bằng cơm nếp làm keo để dáng dính chặt vào nhau. Nếu người chết là hạng người tôi tớ, tức người bậc thấp, thì quan tài của họ chỉ là bằng tre nứa, được đan thành bốn tấm và được rắp nối lại nhau thành một quan tài thay cho hòm gỗ (pă rơtay).

Phân chia của cải cho người đã khuất :

-          Tục lệ chia của cho người chết : vì quan niệm rằng người chết đi, nhưng linh hồn vẫn còn sống và ở thế giới bên kia, nên cũng cần có của cải vật chất như người sống ở trần thế, như trâu, bò, chum, ché, tô, chén, vàng bạc, vòng cườm, nhẫn, ché rượu, gùi, giao, rựa, bát đĩa, thìa đũa... Riêng trâu bò được chia thì giết làm thịt, còn chum ché, tô bát đập cho bể hoặc đục cho thủng đáy để tránh trường hợp bị lấy cắp buôn bán ; vàng bạc làm cho móp méo và trầy xướt ; vòng cườm làm cho đứt... rồi chôn theo với người quá cố. Vì theo họ, có quan niệm cho rằng ở thế giới bên kia mọi sự sẽ ngược lại với thế giới mình đang sống. Nghĩa là mọi thứ còn tốt đối với người còn sống thì đối với đã chết là hư, không dùng được. Nên mọi thứ đem theo cho người đã khuất phải đập gãy bể, đục thủng và làm cho hư nát, móp méo (trong thế bên kia, thế giới của người đã khuất con vật gì giết chết là sống, đồ dùng hư là tốt).

-          Ngoài ra, cũng có quan niệm cho rằng : nếu mọi thứ vẫn còn tốt và đẹp mà đem đặt bên cạnh mộ, thì sẽ bị lấy (mất) cắp. Như vậy, người đã khuất sẽ không có cái gì để dùng ở thế giới bên kia. Người chết sẽ nguyền rủa những người thân trong gia đình của họ. Thế là người thân sẽ không có sự bình an, thanh thản… không những thế, mà còn sẽ gặp giáng họa như : ốm đau, bệnh tật, tai nạn, chuyện làm ăn sẽ gặp nhiều trắc trở, sẽ không được ăn nên làm ra của cải, nợ nần chồng chất, tiền mất tật mang, tan cửa nát nhà...

-          Của chia cho người chết tùy thuộc vào hoàn cảnh của gia đình giàu hay nghèo, và phù hợp với đối tượng nam hay nữ. Nếu người đã khuất là người lớn thuộc gia đình khá giả và có địa vị trong xã hội, thì sẽ được chia của nhiều hơn.

-          Hình thức chia trâu và cúng cơm : con trâu được trói lại vào một cây cột thật vững, người làm nhiệm vụ cúng tế đỗ bã rượu cần vừa mới khui lên đầu trâu, rồi lẩm bẩm vài câu thần chú hay cầu khấn gì đó. Sau đó tiến hành công việc ngã trâu (cắt cổ) ở nơi thường có tổ chức lễ hội đâm trâu. Công việc này, họ thường dùng gươm hay giáo để đâm rồi mổ làm thịt, phục vụ cho đám tang. Đây cũng là hình thức chia phần và gởi đi cho người đã khuất, vì đó là phần của người đã khuất, nên phải trao gởi cho họ.

-          Phần cúng cơm : sau khi thịt trâu đã được nấu – nướng chín rồi, người ta chỉ lấy các bộ phận: óc, mắt, mũi, lưỡi, tim, gan, phổi, dồi và bát cơm, bát nước, chai rượu. Đặt tất cả những thứ đó vào trong mâm đồng để cúng. Trong mâm cúng được chia làm hai khẩu phần : khẩu phần dành cho thần quản ma và khẩu phần dành cho người chết.

-          Nhạc Tang : dùng chiêng bằng bộ ba, koòng bộ sáu (poh sar Dờt), sáo tiêu 3 – 4 lỗ dùng để thổi điệu khóc thương (hia cho), chà vành tô (ua jơlu), trống, kèn bầu.

-          Trực canh xác chết. Để có thể cùng nhau thức đêm trực canh xác, người ta thường dùng súng nước làm bằng ống tre giống như cây kim chích để sịt nước, nhằm đánh thức mọi người cùng thức qua đêm. Việc trực để canh xác có lý do của nó :

+        Lý do thứ nhất, lúc trời về đêm là thời điểm cọp hay xuống núi và vào các buôn làng. Vì các buôn làng thường là ở trong rừng núi sâu, nên cọp hay đến. Do đó, phải trực canh giữ xác sợ cọp lấy xác ăn thịt.

+        Lý do thứ hai, vì muốn gần gũi người đã khuất lần cuối, đồng thời muốn thể hiện tình cảm thân thương, gắn bó mật thiết trong cộng đồng của người Churu.

5. Tiễn biệt lần cuối :

Vào buổi cuối cùng trước lúc tiễn đưa ra nghĩa địa (an táng) : họ làm một con vịt, khui một ché rượu để cúng tiễn. Những người nào có cùng trực hệ, phải đến vái lạy và cầu an với người chết. Vì họ quan niệm rằng người chết phải qua cửa khẩu là một con sông phân cách giữa hai thế giới của người sống và người chết, thì mới đi vào nước Diêm vương. Trong khi qua sông phân cách đó phải đi bằng ghe, hoặc đò hay thuyền, để được lướt nhẹ như vịt bơi lội dễ dàng với bàn chân dẹt.

Trong quãng đường đưa đi an táng đến nhà mồ, đều có địa điểm phải dừng để nghỉ gọi là lơnưh dơng brò gơdoh (điểm đập gàu bầu). Thường là bà con họ hàng đi trước, tiếp theo là quan tài. Sau quan tài là những người thân. Nhưng lại có lúc, đi trước quan tài gồm khoảng chục người, rồi đến quan tài, kế quan tài là những người thân và sau đó là những người bà con hàng xóm. Họ vừa đi vừa tạt nước – ném bùn vào nhau bất chấp già hay trẻ, nam hay nữ. Theo họ, đó là cách xua đuổi ma quỉ và các tà thần. Khi đi đến nơi dừng, nơi để đập gàu bầu thì họ dừng lại, mở nấp quan tài ra để kiểm tra và sửa lại cái đầu cho ngay ngắn, rửa mặt cho người chết. Rồi sau đó, đậy và đóng nấp quan tài lại cho thật chặt. Cái gàu bầu đựng nước rửa mặt cũng được đập bể, đặt ở phía chân quan tài và tiếp tục di chuyển đến nhà mồ.

Trên đường từ nhà đến nhà mồ có tục Chuàng pơtar (bước qua chiếc gối). Việc này dành cho người vợ hay chồng. Thứ đến, là cử một người leo lên quan tài. Dĩ nhiên, nhóm người có nhiệm vụ khiêng quan tài đông thời cũng khiêng cả người nói trên. Người được cử lên quan tài có nhiệm vụ quan sát và chứng giám việc ai vi phạm tái giá trước thời gian chịu tang (chồng hoặc vợ). Suốt đoạn đường này, họ dùng nhạc tang đánh chiêng chiếc, theo điệu Dờt. Trước khi hạ huyệt, họ thường mở nắp quan tài để nhìn mặt người thân đã khuất lần cuối, đồng thời họ cũng sắp xếp lại thi hài cho ngay ngắn và họ nói vài câu với người đã khuất, để bày tỏ sự kính trọng, quan tâm, yêu thương chăm sóc tận tình, chu đáo...

6. Hình thức và nơi chôn cất :

Người chết được chôn cất trong một nhà mồ chôn tập thể có mái che bằng lá tranh, huyệt mộ chôn chồng chất lên nhau, có thay đổi vị trí huyệt đào cho một người chết, không nằm ngoài khuôn viên nhà mồ hình vuông, có diện tích khoảng trên dưới 16 mét. Người có vị thế, tức là có vai vế lớn – cao như ông bà – cha mẹ, thì sẽ đào huyệt chôn ở về phía mặt trời mọc. Hai bên hông dành cho con cháu, người tôi tớ thì đào huyệt chôn nằm về phía mặt trời lặn.

Chôn cất xong, tức là khi vừa đắp đất trên huyệt thành một ngôi mộ xong. Người vợ hay người thân, họ lấy một cái khăn chăm màu trắng trải phủ xuống trên phần mộ. Sau đó, cầm hai đầu khăn và phần kia thả xuống cho chạm đất. Kéo khăn đi vòng quanh ngôi mộ bảy vòng theo chiều ngược kim đồng, rồi đem khăn đó về nhà cất trên bàn thờ, đặt dưới di ảnh của người đã khuất. Nhưng trước khi hạ quan tài xuống huyệt, lại thấy họ chỉ lấy khăn chăm màu trắng phủ lên trên quan tài và nói vài câu gì đó, cụ thể như: ông (bà), anh (chị), hoặc con ơi ! Đây là nơi, là nhà ở, chúc ở lại bình yên, hẹn có ngày sum họp, và xin hãy nhớ về nhà, về với gia đình và phù hộ cho gia đình... Làm như thế, vì họ quan niệm rằng để cho gơnuh rơsi tức vong hồn của người đã quá cố luôn ở bên cạnh họ, để phù hộ cho họ.

Khi đoàn người tiễn đưa người chết đến nơi an nghỉ cuối cùng đã hoàn tất, tức là đã chôn cất xong. Họ bắt đầu trở về nhà, người đầu tiên trong đoàn lúc vừa về đến trước cổng và cửa nhà, sẽ bị người trong nhà đang đứng đợi trước cổng hay cửa nhà tạt và xối nước, tung tro bếp để xua đuổi những điều không lành, đuổi xua những rủi ro – xui xẻo... ra khỏi gia đình của họ.

7. Thăm mộ :

Việc thăm mộ là điều phải có. Nó giống như là việc đi thăm con cái lâu ngày xa nhà, đi thăm để làm vơi đi nỗi nhớ thương da diết, canh cánh trong lòng... Khi đi thăm họ mang theo cả thức ăn đồ uống, quà cắp, một bó nhang, một vài cây nến để đốt và bái... Cuộc viếng thăm này như là đi thăm người còn sống vậy. Điều đó nói lên tình yêu thương gắn bó mật thiết giữa người còn sống với người đã khuất. Đây là cách biểu lộ tình cảm thân thương rất tự nhiên và bình thường như những các dân tộc khác mà thôi. Không có gì là lạ cả. Có khác là ở chỗ hình thức, thay vì mang theo đồ ăn thức uống họ chỉ cầm bó nhang, vài cây nến để đốt, vái lạy hay để đọc kinh cầu nguyện. Thăm mộ được tiến hành bắt đầu vào sáng ngày hôm sau cho tới ngày giáp tuần (hết kỳ hạn bảy ngày gọi là kloh tơjuh).

II. Kloh tơjuh :

Giỗ kỳ hạn bảy ngày (giáp tuần được tính từ ngày chết hay ngày chôn cất đến ngày tiếp sau đó, đủ bảy ngày hoặc được một tuần gọi là kloh tơjuh). Trong ngày này, gia đình tổ chức cúng giỗ, vật sính lễ – cúng giỗ gồm : gà, vịt, heo… (từa tựa như ngày mở mả của dân tộc Kinh).

Các khẩu phần sau khi cúng giỗ đều mang đến mồ huyệt để cầu an. Sau ngày giỗ này, nếu là người vợ chết. Dòng họ vợ sẽ chuyển giao người chồng còn sống cho bên họ hàng chồng (dù còn trẻ hay đã già). Tức là để nói lên rằng : để giúp người chồng có quyền tự do để lựa chọn cho tương lai của mình. Nên họ hàng bên nhà vợ không còn có trách nhiệm gì nữa, nhưng họ vẫn chia của cải tài sản cho người chồng kém may mắn đó, cũng có kèm theo một con trâu, một con bò và một số đồ đạc thường dùng vừa đủ cho sinh hoạt và lao động kiếm sống hằng ngày. Còn phần lớn của cải tài sản, nhà cửa... để lại bên nhà họ bên vợ. Mục đích là dành lại cho con cái. Con cái của hai của vợ chồng để lại cho người thân bên vợ có trách nhiệm nuôi dưỡng và chăm sóc. Người chồng chịu tang sau một năm thì mới được phép tái giá lần hai. Hết thời gian chịu tang người còn sống được quyền tái giá là chuyện bình thường.

Nếu trường hợp chồng chết trước, vợ còn trẻ mà đã tái giá sớm trước ngày kloh tơjuh và chưa đủ trọn ba năm (ka bơng m’nhum pơthi akut atơu) thì phải bồi thường cho gia đình bên chồng là một con trâu hay một con bò và sẽ chịu vài hình phạt khác, người Churu gọi là mă mơdơu. Tái giá sớm như vậy đối với người Churu họ coi việc đó như là phạm tội ngoại tình. Nên người vợ phải chịu hình phạt và đền bù, bồi thường danh dự cho người chồng và gia đình bên chồng theo tục lệ ông bà để lại, người phán xử việc này vẫn là già làng, hay một vị đại diện có uy tín và thế giá... hình thức chịu phạt khi tái giá sớm theo tục lệ là phải làm thủ tục cúng giỗ tại nhà mồ để xin lỗi và xin phép với vong hồn người chết.

Trong trường hợp người chết thuộc diện đơn côi, không còn người thân và giòng họ (mất gốc). Dân làng sẽ cùng gánh vác việc lo tang. Sau kỳ hạn bảy ngày, nhà cửa của người chết sẽ phải tháo bỏ, của cải vật chất dân làng mang đi bỏ ở nơi có cây đa cổ thụ xa làng. Ruộng đất sở hữu của người chết sẽ bị bỏ hoang và không một ai dám canh tác, vì theo họ, có quan niệm cho rằng ai sử dụng sẽ bị chết dần chết mòn (do ảnh hưởng nặng nề về chuyện mê tín dị đoan).

Nếu có gia súc gia cầm thì được giết làm thịt trong ngày chết hoặc trong ngày giáp tuần kloh tơjuh. Trường hợp Chết do nguyên nhân bị tai nạn như : bị xe tông, chết đuối, do bị giết, trúng đạn… gọi là chết xấu Mơtay Bơryang, hoặc là chết dữ. Sau khi an táng đến ngày kloh tơjuh (kỳ hạn 7 ngày, giáp tuần) phải được rào Bơryang tức là rửa xui, xua đuổi sự xui xẻo ra khỏi gia đình, nếu không rào bơryang, rửa đuổi xui, giải xấu tháo dữ thì những người còn sống sau này cũng sẽ chết dữ, chất xấu như vậy. Rào bơryang, tức là rửa xui, giải xấu, tháo dữ bằng hình thức mời thầy cúng “chuyên” cúng rửa, cúng giải, cúng tháo những điều xui, dữ, xấu, ác như vậy họ gọi là sơwoăh bơryang, chữ sơwoăh có nghĩa là nhổ bỏ, tháo gỡ... Còn vật sính lễ để sơwoăh bơryang là con dê màu vàng hoặc hơi trắng để chuộc hồn người đã khuất hoặc giải cứu khỏi hồn họ tay ác thần. Nếu không được cúng giải, họ quan niệm sau này sẽ gặp những chuyện chẳng lành, người thân của họ sẽ gặp các rủi ro và chết tương tự như đã xảy ra.

III. PƠ THI

(Ngày cúng giỗ cuối cùng, còn gọi là giỗ “bỏ mả” hoặc trọn kiếp hay mãn tang)

Pơthi là kỳ hạn cuối cùng trong tang tục Churu. Pơthi là ngày cúng giỗ rất lớn (đại tiệc), vì là công việc sau cùng nên họ thường chuẩn bị rất kỹ lưỡng và rất chu đáo : từ đồ ăn thức uống đến vật liệu xây mộ ; từ khâu tổ chức đến việc mời bà con họ hàng thân thuộc cũng như xa gần đến dự (bơng m’nhum pơthi akut atơu). Thời gian thích hợp nhất trong việc này, là sau mùa gặt. Đó là thời gian khoảng giữa tháng 12 Dương Lịch, hoặc vào những ngày trước và sau Tết Âm Lịch.

Nếu là pơthi người chồng chết (giỗ mãn tang)

Người vợ cùng với người thân, sẽ có trách nhiệm lo liệu việc pơthi. Trường hợp vợ cũng chết, sau thời gian đó thì con cháu và bên họ vợ phải lo liệu.

Trước ngày pơthi, phải mang của cải để dâng cho bên họ hàng nhà chồng. Của dâng gồm : sợi hạt cườm, nhẫn bạc, khăn chăm, tiền… cùng ché rượu cần để làm thủ tục dâng của, tục gọi là pồtơlàng atơu. Nếu gia đình bên chồng đồng ý, chấp thuận hay không còn gì vướng mắc thì sẽ tiến hành mở cửa mồ (mả).

1. Mở cửa mả : Mở cửa mả được tiến hành vào tối hôm trước, vì đến sáng hôm sau là tiến hành xây mồ.

2. Làm lễ mở cửa mồ : Làm lễ mở cửa mồ thường là một con heo, một gà và một vịt, một ché rượu cần đối với nhà giàu có ; nhà nghèo chỉ một con gà và một ché rượu cần nho nhỏ. Tối hôm làm lễ mở cửa mồ, họ dọn đồ ăn thức uống trên mâm đồng, đặt trên bàn thờ dưới di ảnh của người mất ; hoặc đặt trên chiếu đã trải xuống dưới nền (sàn) nhà cách gọn gàng và ngăn nắp, để sự tôn kính – hiếu thảo trước vong linh của người mất. Nhưng chiếc chiếu đó phải bằng cói và được đan dệt bởi bàn tay khéo léo của người Thượng, chứ không phải là chiếc chiếu mua ở ngoài chợ. Dọn và đặt xong rồi, họ bắt đầu khóc lóc và lẩm bẩm gọi tên người mất mời đến dùng bữa. Đêm hôm đó họ cũng có ăn uống gọi là bơng pơh akut atơu. Sáng hôm sau, ăn uống xong. Ông bơsềh (thầy cúng) cùng với gia đình đem đồ ăn thức uống dọn cho người chết đến nhà mồ, rồi sẽ tiến hành làm nhà mả.

3. Làm nhà mả : Người giàu hai năm hoặc ba năm buộc phải pơthi, người nghèo có thể là hai hay ba năm hoặc nhiều hơn nữa tùy hoàn cảnh gia đình, nhưng cũng phải làm khi nào có khả năng chứ không phải là thôi luôn, không lo gì nữa.

Đối với người Churu, việc xây được nhà mồ, nhà mả là cách biểu lộ trọn tình vẹn nghĩa đối với người thân đã khuất, là giữ chữ hiếu với tổ tiên, ông bà – cha mẹ, và đây cũng là cách để tỏ ra cho dân làng biết rằng mình cũng là người có hiếu, biết chu toàn bổn phận và tỏ ra mình cũng là người có của.

4. Ăn mừng nhà mả : bơng m’nhum pơthi atơu. Ăn mừng nhà mả của người Churu, thông thường họ mời bà con hàng xóm xung quanh đến tham dự gọi là Bơng M’nhum Pơthi Atơu. Trong đó : rượu cần gồm từ 10 ché đến 30 ché. Trâu hoặc bò từ ba con đến năm con, không tính gà vịt, heo, dê…

Nếu là nhà mồ tập thể hay là làm từng phần mộ, ví dụ hai mươi người lớn thì ngã 20 con trâu, tính từng đầu người. Ở Diom, ông Touneh Hàn Đăng đã cúng pơthi atơu và đã ngả 20 con trâu. Ơ K’răngchớ gia đình ông Ya Phan đã cúng pơthi atơu một lúc 18 con trâu.

Trước khi bắt tay vào công việc pơthi, thầy cúng làm nghi lễ cúng động thổ và thông tin với hồn người chết biết về việc pơthi, và sửa sang mồ mã cho mình. Khi công việc sửa sang mồ mã đã hoàn tất, thì ngày giỗ pơthi chính thức được bắt đầu : các họ hàng thông gia, được mời đến dự và phụ giúp mọi công việc trong ngày giỗ.

Vật sính lễ là một con trâu được trói cột cách chắc chắn, thầy cúng cầm chén bã rượu cần trút xuống đầu trâu, miệng cầu khấn gọi hồn người chết đến nhận vật sính lễ. Một đại diện người thân của người chết được mời cầm cái giáo thực hiện quyền đâm trâu (cho có lệ). Sau đó, cây giáo được chủ nhà chuộc lại bằng sợi hạt cườm hoặc bằng khoảng số tiền nhỏ đẻ hồi thu lại cây giáo.

Các khẩu phần, món cúng giỗ, sau khi đã làm chín, (giống hệt như các món cúng giỗ trong kỳ hạn bảy ngày, tức giáp tuần) thầy cúng đảm nhiệm nghi thức cúng giỗ. Các khẩu phần cúng dành cho hồn người chết, sau khi giỗ xong đều được mang đến tới mộ và gọi họ đến nhận khẩu phần của mình. Bên cạnh đó, cũng có việc cầu xin với vong linh của những người đã khuất cầu xin họ ban cho mọi người thân trong gia đình còn sống ở trần thế được bình an.

Trong lúc thầy cúng đang thực hiện nghi thức cúng giỗ, tang nhạc gồm cồng chiêng núm bộ ba, trống và kèn bầu, được đánh lên thành bản hợp xướng vang lên trong giai điệu hân hoan chào đón. Tất cả mọi người tham dự đều múa theo điệu múa tămya arya : vừa múa vừa reo hò và vừa uống rượu quanh vòng ngôi mộ vừa mới xây, biểu lộ niềm vui hân hoan, nhưng vẫn giữ nét sự uy nghi nghiêm trang trong nghi thức cúng giỗ pơthi.

Sau khi chu toàn nghi thức cúng giỗ pơthi xong. Những người tham dự ngày giỗ đó mới được phép dùng tiệc đám linh đình trong sự thân thiện, cởi mở sau một thời gian vất vả lo liệu công việc cúng giỗ. Do đó, buổi cúng giỗ pơthi đó được diễn ra khác với bầu không khí trong thời điểm có người chết ở hai giai đoạn đầu (m’tai lơhiă : chết ; kloh tơjuh : giáp tuần)

Giỗ pơthi, là kỳ hạn cuối cùng. Nó có ý nghĩa quan trọng hơn hết, vì đây là lúc họ cầu an với người đã khuất và cầu cho các vong hồn của những người đã chết được siêu thoát khỏi âm phủ (địa ngục), nhằm giúp họ được đầu thai trở về lại kiếp sống của thế giới con người. Sau khi hoàn tất công việc pơthi, tức là giỗ mãn tang. Nghĩa vụ hay bổn phận của họ đối với những người đã khuất coi như đã xong, sau này sẽ không còn vướng bận gì nữa.

Cuối ngày pơthi (giỗ mãn tang). Nếu pơthi là người chồng thì những người thân bên chồng sẽ được nhận của lễ cuối cùng từ những người thân bên vợ dâng. Của lễ đó thường là một đùi thịt trâu hay thịt bò, một ché rượu cần to có giá trị nhất trong các ché, một sợi hạt cườm dài từ cỗ đến lưng, một khoản tiền nho nhỏ để mang về nhà.

Khoảng cách thời gian pơthi thường được tính từ ngày chôn cất cho đến ba năm sau. Đủ ba năm tròn gia đình sẽ lo liệu việc pơthi, đó là trường hợp gia đình có đủ điều kiện vật chất. Trong trường hợp không có đủ điều kiện, thường thường họ tổ chức làm pơthi tập thể cùng một lúc trong một ngày.

Nếu là pơthi cho nhà mồ, tức là nhà cất táng người chết được sắp xếp chồng lên nhau, theo kiểu từng tầng từng lớp: chết trước xếp trước, chết sau được xếp sau. Chờ đến khi nào mọi sự phân hủy hết mùi hôi thối, thi hài hoai mục, xương rơi rụng xuống vào một cái hố được đào sẵn ở chính giữa dưới nhà mồ, thì lúc đó họ tiến hành công việc cải táng. Họ gom nhặt lại các phần xương, xếp gọn chung với nhau. Đào huyệt mới, chôn chung thành ngôi mộ tập thể. Sau đó, tiến hành xây cất.

Nếu là pơthi cho ngôi mộ, tức là cho từng người được chôn cất theo từng huyệt riêng biệt như hiện nay. Họ tiến hành xây cho từng ngôi mộ, rồi họ tiến hành pơthi. Mỗi lần tổ chức pơthi là mỗi lần các nhà mồ, các phần mộ sẽ được sửa sang lại làm cho mới và sạch sẽ.

Pơthi là kỳ hạn kết thúc công việc cúng giỗ cho một người đã khuất được gọi là giỗ mãn tang. Vì theo quan niệm cho rằng : sau lần pơthi đó, các vong hồn những người đã khuất sẽ được siêu thoát và tiếp tục sống trong đời sống mới, hạnh phúc hơn, thanh thoát hơn. Bởi thế, ngày lễ pơthi là ngày trọng đại nhất của người Churu. Ngày này họ mở tiệc ăn mừng rất lớn : ăn uống, ca hát, nhảy múa, vui vẻ (m’nhum-bơng, h’ri adoh, tămya arya, koòng chiêng, đồng la, kèn)... Không có ngày nào vui hơn ngày này.

Pơthi là ngày giỗ mãn tang đồng thời cũng là ngày kết thúc việc cúng giỗ. Người Churu gọi là bỏ giỗ mồ mã ông bà tổ tiên. Bỏ giỗ mồ mã không phải là bỏ quên mồ mã, nhưng vẫn còn có việc chăm sóc giữ gìn. Cho nên, hàng năm vào đầu mùa gặt hái hoặc vào đầu mùa khô, để phòng tránh trường hợp gây cháy. Họ thường dọn cỏ cây xung quanh các phần cho sạch sẽ.

Tập tục ma chay của người Churu trong thời hiện tại đã có những bước ngoặc thay đổi đáng kể, cả về hình thức lẫn nội dung. Từ khi có sự hiện diện của các nhà truyền giáo, niềm tin Kitô giáo đã du nhập vào, là dấu chỉ cho thấy hạt giống của Tin Mừng đã được gieo. Các nhà truyền giáo đã có nhiều cố gắng suy nghĩ, chuẩn bị, dọn đường cho Lời Chúa, cho Tin Mừng nhập thể vào thực tại của nền văn hóa người Thượng nói chung và cho người cho người Churu nói riêng. Hay nói một cách khác, các nhà truyền giáo đã làm cho Tin Mừng được nhập thể thực sự vào nền văn hóa của người Churu, và làm trở nên thân quen, gần gũi, trở thành cái hồn của người Churu đối với người Churu. Nhờ văn minh Kittô giáo được đưa vào (nhập thể) trong nền văn hóa của người Thượng, giúp nền văn hóa của người Thượng loại bỏ những tập tục lạc hậu không phù hợp với sự phát triển của thời đại, đồng thời bên cạnh đó cũng loại bỏ được phần nào những mê tín dị đoan không phù hợp với Đức tin Kitô giáo. Sự nhập thể của Tin Mừng, của niềm tin Kitô giáo loại bỏ được những hình ảnh sai lạc, những quan niệm cổ hủ... Nhưng cũng bảo tồn và phát huy được nền văn hóa của người Thượng, làm cho người Thượng tìm được và lấy lại cái hồn sống của mình, cái linh thiêng nhất của mình, là trở về với cái gốc gác và nguồn cuội của mình. Nhờ đó, họ sẽ tìm lại cái giá trị thiêng liêng cao cả, những nét đẹp kỳ diệu vốn đã có sẵn trong nền văn hóa của họ, và giúp họ có ý thức trách nhiệm, biết dùng chính khả năng của họ mà cố gắng làm sống lại nền văn hóa của chính họ. Khi họ làm được như thế thì chắc chắn nền văn hóa người Thượng được thăng hoa. Điều đó đã được thể hiện rõ nhất và cách cụ thể như : chữ viết, ngôn ngữ…, Nhà thờ Cam Ly phần nào đã tôn vinh nền văn hóa của người Thượng. Tất tất cả những cái hay, cái đẹp, cái tốt thể hiện qua những công trình kiến trúc, qua những tác phẩm văn chương và nghệ thuật, qua việc cử hành các Nghi thức Phụng Vụ Thánh, hay qua cái ăn, cái mặc và qua nếp sống hàng ngày.

Từ một nền văn hóa truyền khẩu đã phát huy thành nền văn hóa có chữ viết. Nhờ công trình chuyển dịch Thánh Kinh, Giáo Lý, Thánh Nhạc, Sách Lễ Rôma…

Từ một ngôn ngữ tưởng chừng như đã bị mai một, chết dần chết mòn, nay đã trở thành ngôn ngữ đang sống, đang hồi sinh...

Từ những tập tục rờm rà, lạc hậu, tốn kém, nay trở thành đơn giản và thích hợp với đà tiến của xã hội con người ngày nay.

Từ một vùng làng quê nghèo chưa biết hay chưa nhìn thấy một cái chữ nào, thậm chí cả việc không biết đọc biết viết, nay đã có nhiều người thuộc nhiều làng quê nghèo đã có nhìn thấy cái chữ, đã biết đọc biết viết, có bằng cấp, học vị cao và địa vị trong xã hội. Nhờ có sự hiểu biết này, đời sống bà con phần nào đã xóa được cảnh nghèo, xóa được nạn mù chữ, thoát được cái đói cái rách, xóa bớt dần cái tục lệ lạc hậu, cái quan niệm lệch lạc và ngay cả nạn mê tín dị đoan ; đồng thời cũng phần nào xóa bỏ được cái suy nghĩ sai lầm... và đã có khả năng để tiếp cận với nền văn minh của thế giới, thích nghi được với sự phát triển của xã hội con người về phương diện vật chất cũng như tinh thần.

Từ việc cất táng chung trong một nhà mồ, nay đã biết chôn cất theo từng phần mộ riêng biệt.

Từ một tín ngưỡng đa thần, nay đã là một tín ngưỡng độc thần. Dù rằng có rất nhiều dòng chảy (mương, suối, sông, kênh, rạch...) nhưng nguồn nước thì vẫn từ trên trời rơi xuống. Nguồn nước thì chảy qua các con suối, con sông, con kênh, con rạch... rồi tất cả cùng chảy về biển. Hơi nước bốc lên về trời, thế là trở về lại với nguồn gốc của mình.

Dù đã có sự thăng hoa về nền văn hóa nói chung và về tập tục tang ma nói riêng. Nhưng các nghi thức tang ma của người Churu xưa cũng như nay. Thực tế vẫn được cử hành cho từng vùng, từng miền tuy có khác nhau về chi tiết nhưng về phần cơ bản thì vẫn giống y hệt nhau.

Tập tục tang ma của người Churu trước thời kỳ chưa có niềm tin Kitô giáo có nhiều nghi thức rờm rà, lạc hậu, tốn kém tiền của, cũng như sức người, mất thời gian, không hợp vệ sinh...

Trước đây, có sự phân biệt giữa chủ – tớ, giữa giàu – nghèo, giữa địa vị cao – thấp trong xã hội. Cho nên, tầng lớp giàu sang có vị thế trong xã hội thì đám tang linh đình, tốn kém, rầm rà và phức tạp tương xứng với chức danh của họ. Và nơi an nghỉ cuối cùng của họ sẽ là nơi hướng về mặt trời mọc, để thể hiện người đã có nhiều uy quyền trong xã hội khi còn sống. Tầng lớp thấp nghèo, đám tang của họ chỉ diễn ra đơn sơ, ngắn gọn, ít tốn kém... nói chung mọi thứ được tổ chức phù hợp với hoàn cảnh sống của họ. Và nơi an nghỉ cuối cùng của họ là nơi hướng về mặt trời lặn, thể hiện thân phận thấp hèn, yếu thế. Nhưng nay, nhờ có công cuộc truyền giáo, loan báo Tin Mừng, Lời Chúa đã nhập thể, đã được gieo vào lòng của họ, họ đã đón nhận, đã thấm nhuần và đã sống khoảng 80 năm. Với chừng đó thời gian không dài cũng không ngắn, cũng đủ làm cho hố ngăn cách giữa chủ và tớ, giữa giàu và nghèo, giữa cao và thấp trong cộng đồng xã hội người Thượng phần nào đã san bằng dần.

Tập tục tang ma của người Churu cũng có phần liên quan đến đời sống hôn nhân gia đình : Nếu vợ chết chồng còn sống, thì người chồng sẽ trả giao về lại với gia đình bố mẹ, anh chị em ruột, họ hàng thân thuộc. Người chồng nào có số không cao hay kém may mắn, vợ chết trước (mất sớm) thì thật là bất hạnh cho người chồng đó. Đây là một điều không thể chấp nhận được, vì nó chẳng những gây ra nỗi bất hạnh cho người chồng mà còn gây ra nỗi bất hạnh cho con cái của họ nữa.

Nhạc tang trước thời kỳ niềm tin Kitô giáo thì được giữ gìn rất kỹ, được sử dụng rất phong phú và đa dạng. Nhưng ngày nay, vấn đề nhạc tang đã không còn đề cập tới và gìn giữ nữa.

Nhà mồ là nơi cất táng chung (nhà mồ tập thể), tiết kiệm đất đai nhưng không phù hợp trong vấn đề vệ sinh và môi trường (ảnh hưởng không tốt đến môi sinh)

Vì là tín ngưỡng đa thần, nên lại chìm đắm nặng nề về mê tín dị đoan. Ngay cả lúc đã là Kitô giáo, họ vẫn còn đi cúng thầy : nau juh gru – pơjơu. Trong trường hợp này dễ thấy nhất là khi gặp ốm đau, hoạn nạn, chết bởi trúng đạn, tai nạn xe cộ và chết đuối. Họ thường đến với các thầy cúng (gru – pơjơu), để xua đuổi tà ma, ác thần ; xả xui hay là rửa xui, hoặc là đuổi xui (rao – prơh bơryang) hoặc bỏ tháo cái xui (Sơwoăh bơryang).

Mê tín dị đoan, hay đi cúng thầy vẫn là căn bệnh nhức nhối triền miên từ xưa tới nay. Cho dù họ đã đón nhận Tin Mừng, đã có đức tin Kitô giáo, vẫn đi lễ, vẫn xưng tội và rước lễ, nói chung là vẫn giữ đạo. Đây là một trong những nguyên nhân làm kìm hãm lại sự phát triển đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa và giáo dục : trí tuệ, đức tin, và con người trong cộng đồng người Thượng nói chung cũng như của người Churu nói riêng.

Tập tục tang ma sau thời kỳ đón nhận niềm tin Kitô giáo : Đây là thời kỳ văn minh của cộng đồng người Thượng. Nó được phát triển bởi sự soi sáng của Tin Mừng, của đức tin Kitô giáo. Nhờ vậy, tập tục tang ma của họ đã có sự biến chuyển theo đà tiến của nhân loại, phù hợp với niềm tin Kitô giáo. Phần nào đã làm giảm bớt sự tốn kém tiền của và sức người. Trình độ học vấn và nhận thức của họ ngày càng được nâng cao. Nên đã phần nào xóa bỏ được rất nhiều tập tục lạc hậu trong đó có tập tục tang ma.

Trong tập tục tang ma của người Churu, cũng đã nói lên nét văn hóa hay bản sắc riêng của họ. Bản sắc này, được hình thành và phát triển theo hình thái tín ngưỡng tôn giáo đa thần hay độc thần. Chính niềm tin vào Thiên Chúa và nền văn minh từ bên ngoài du nhập vào, là những tác nhân đã làm cho đời sống của họ được biến đổi và thăng hoa về mọi mặt : văn hóa, khoa học kỹ thuật, kinh tế, quan niệm xã hội, tập tục lạc hậu được xóa bỏ dần dần…

Nhờ sự phát triển của xã hội. Các đồ dùng (phương tiện) phục vục cho việc tang ma thuận lợi hơn nhiều, cụ thể như : quan tài (áo quan), không còn vất vả và mất thời gian phải vào rừng lên núi, chặt cây, đục đẽo, cưa cắt... làm quan tài cho người đã khuất. Ngày nay, chỉ điện thoại hay đến dịch vụ an táng, để mặc cả, thỏa thuận trong vòng vài phút là mọi sự sẽ có ngay. Tiễn đưa về nghĩa trang cũng vậy, đã có xe tang (xe tang của công ty dịch vụ mai táng, xe khách, xe tang đẩy, kể cả xe công nông…) mà không cần phải cặt cây để làm dàn khiêng.

Mồ mả hiện nay được xây bằng gạch đá, xi măng, sắt thép… nên đẹp hơn. Không còn có sự phân biệt giàu nghèo, chủ tớ nữa. Vợ chết, người chồng có đủ thẩm quyền ở lại với mái nhà do từ bàn tay của mình làm nên ; với gia đình con cái do mình sinh ra, để nuôi dưỡng giáo dục, để lấp đi khoảng trống hay bù đắp tình thương của người vợ để lại mà ấp ủ, nâng niu, chở che, dìu dắt... những đứa con côi mẹ. Không thể làm cho những đứa con của mình bị thiệt thòi về tình thương yêu của cha mẹ. Mẹ mất thì còn có cha chăm sóc yêu thương. Và người cha sẽ vừa là cha vừa là mẹ vẫn còn tốt hơn là thiếu vắng cả cha lẫn mẹ. Ở lại với những đứa con của mình vẫn tốt hơn là cuốn gói về nhà ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, nơi chôn nhau cắt rốn. Ở lại với con cái do mình sinh ra, không những để yêu thương chăm sóc chúng nên người mà còn để chúng chăm sóc lại khi về chiều, hoặc những lúc ốm đau trở trời… cha con có chỗ tựa nương vào nhau là vậy.

Nhờ có công cuộc truyền giáo ở nơi các cộng đồng người Thượng, các dạng mê tín dị đoan được đẩy lùi vào quá khứ. Chết vì tai nạn lao động, xe cắn, trúng đạn, té sông... giờ đây không còn cần phải mời thầy cúng, thầy mo nữa. Có chăng cũng là một phần ít ỏi mà thôi, đó là những thành phần ít học, trình độ giáo lý và hiểu biết đức tin còn thấp kém, hoặc ít tham dự Thánh lễ, họa may chỉ đi lễ một lần trong một năm vào dịp Giáng Sinh là thôi. Còn các ngày lễ Chủ Nhật, lễ trọng, lễ bổn mạng... không cần biết và không muốn đi.

Nhờ công cuộc truyền giáo, loan báo Tin Mừng đã làm cho đời sống đồng bào Thượng nói chung và người Churu nói riêng được phát triển đáng kể về mọi phương diện : dân trí, quan niệm về tôn giáo xã hội và đời sống được thay đổi ; kinh tế, giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật không ngừng được nâng cao...

Tóm lại, từ khi từ bỏ tín ngưỡng cũ, đa thần (thờ các thần linh : thần núi, thần rừng, thần mưa, thần mây, thần gió...) để lãnh nhận đức tin Kitô giáo đối với người Thượng là giai đoạn chuyển tiếp. Chính vì là giai đoạn chuyển tiếp, nên công việc loan báo Tin Mừng đòi hỏi cần phải có thời gian. Thời gian ở đây không có nghĩa là thời gian chờ đợi họ đến với mình, mà là thời gian mình cần dành cho họ, đến với họ, ở với họ : để tìm đến ; tìm gặp ; tìm cách trao đổi, trò chuyện cho thật thân tình, tạo cho họ sự gần gũi, khử trừ cái mặc cảm tự ti nhằm tạo nơi họ sự tự tin, để dễ nói chuyện với họ. Kể cho họ nghe về những câu chuyện trong Thánh Kinh, câu chuyện về Chúa Giêsu. Được như vậy, thế là công việc loan báo Tin Mừng Cứu Độ, về Giáo lý của Chúa Kitô, chân lý về Thiên Chúa được bắt đầu từ đó. Cần dành thời gian cho họ cũng có nghĩa là phải kiên trì, nhiệt thành, phải có lòng tôn trọng và yêu mến, chăm sóc, quan tâm bằng việc đến thăm hỏi họ thường xuyên... hiện diện với họ trong lúc vui cũng lúc buồn : các ngày lễ hội, đám cưới, đám tang... Cần dành thời gian là để tạo niềm tin yêu, sự tôn trọng ở nơi chính họ, và để họ cảm thấy sự hiện diện của các vị chủ chăn là ánh sáng chỉ đường cho họ đi tới đỉnh đồi yêu thương, chia sẻ và phục vụ, và đồng thời cũng là ánh sáng soi dẫn họ đặt tới chân lý. Sự hiện diện của các vị chủ chăn là niềm vui, là nguồn động viên khích lệ và là nguồn hạnh phúc của họ nữa.

Nhưng sự hiện diện đó không buộc phải là cùng ăn cùng uống như họ, mà là sự hiện diện của một vị chủ chăn : một vị chủ chăn đến để tìm kiếm ; tìm kiếm để gặp gỡ ; gặp gỡ để tìm hiểu ; tìm hiểu để gần gũi ; gần gũi để cứu vớt ; cứu vớt bằng việc hướng dẫn, dạy dỗ và khuyên bảo... ; cứu vớt bằng sự hiện diện để yêu thương nâng đỡ, chở che, ủi an và làm tất cả mọi sự vì họ, cho họ với con con tim biết yêu thương và phục vụ như Chúa Kitô đã yêu thương và hiến mạng sống mình vì đàn chiên...

Đức Giêsu đã dùng hình ảnh tiệc cưới để nói về hạnh phúc thiên đường. Dĩ nhiên, chúng ta cũng phải đồng ý với Thánh Phaolô để nói rằng : Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống (Rm 14,17). Nhưng hình ảnh tiệc cưới, nói lên tầm quan trọng của sự hiện diện. Hiện diện để chia sẻ là cái cốt yếu của hạnh phúc, bởi vì niềm vui trọn vẹn nhất chính là niềm vui mà người ta chia sẻ cho người khác. Chính vì thế, Đức Giêsu đã lấy Thịt và Máu của mình để chia sẻ cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly. Bữa tiệc mà trong đó ngài hẹn ước với các ông là sẽ cùng chia sẻ “Rượu Mới” trong Nước của Cha Ngài (x. Mt 26,29 ; Lc 14,25 ; Lc 22,18). Chính việc chia sẻ cụ thể tấm bánh và ly rượu đó, nói lên sự chia sẻ niềm vui của Ngài cho các môn đệ, một niềm vui trọn vẹn (x. Ga 15,11), một niềm vui báo trước niềm vui bất diệt không có mãnh lực nào có thể cướp mất được (x. Ga 16,22). Sự diện hiện chân thành của vị chăn chiên chính là nguồn hạnh phúc của họ. Các ngài cũng diện hiện để chia sẻ bánh và rượu, bằng việc hy sinh, từ bỏ thời gian và công việc của mình mà đến với, hiện diện với... sự hy sinh tựa như một tấm bánh được bẻ ra để chia sẻ, như một giọt rượu để thấm vào...

IV. Lời bàn :

Vài nét khái quát về tập tục tang ma của người Churu mà con cố gắng trình bày trên. Đây như chỉ là một sự chia sẻ chứ không phải là một bài nghiên cứu có khoa bảng nào cả, và đã là sự chia sẻ thì chỉ là có sao nói vậy, nên sẽ có nhiều giới hạn, thiếu sót...

Và nói là lời bàn nhằm để kết thúc một bài chia sẻ vốn có nhiều hạn chế về chủ quan cũng như khách quan. Lời bàn ở đây muốn gởi lên các cha, các vị có nhiều kinh nghiệm trong mục vụ và chuyên môn, tìm cách khắc phục và giúp giải quyết những khó khăn mà chúng con đã, đangsẽ gặp phải, đụng chạm hàng ngày trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cho chính người bản địa của mình. Và lời bàn đó là :

Làm thế nào để đổi mới quan niệm hay tục lệ của họ ? Tức là muốn đổi mới cách suy nghĩ của họ cho phù hợp với thời đại mới ?

Làm cách nào để loại trừ những mê tín dị đoan, để có một đức tin tinh ròng ?

Những quan niệm cũ, hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan không phù hợp với đức tin Kitô giáo, không hợp vệ sinh, không phù hợp với đà tiến của khoa học... Là nguyên cớ làm cho anh em Tin Lành chỉ trích đạo Công Giáo của chúng ta là đạo sai lầm, hoặc không phải là đạo thật.


Mục Lục