THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG LÀ BA NGÔI HẰNG SỐNG

 

Một kinh nghiệm về Thiên Chúa hằng sống

Liên hệ tới sự hiểu biết về Thiên Chúa hằng sống, một kinh nghiệm đáng giá hơn nhiều luận chứng, tôi muốn bắt đầu bài suy niệm thứ hai này chính xác bằng cách chia sẻ một trong những kinh nghiệm đó. Cách đây không lâu, tôi nhận được một lá thư từ một người mà tôi giúp đồng hành thiêng liêng với chị, một phụ nữ có gia đình đã chết cách đây vài năm. Những kinh nghiệm của chị được coi là xác thực do chị đã mang theo chúng xuống mồ, mà không bao giờ nói với ai ngoại trừ cha linh hướng của chị. Nhưng vì mọi ân sủng thuộc về Giáo hội, tôi muốn chia sẻ điều này với anh em giờ đây, lúc người phụ nữ ấy đang ở bên Chúa. Điều này làm tôi nhớ đến kinh nghiệm của Môsê trước bụi gai cháy. Đây là những gì bức thư nói:

Tôi chưa tròn bốn tuổi và đang ở miền quê với bà nội. Một buổi sáng, khi đợi trong phòng người đến mặc quần áo cho tôi, tôi nhìn một cây đoạn lớn xòe cành lá trước cửa sổ. Mặt trời lúc bình minh đang chiếu ánh sáng trên nó. Tôi rất vui vì vẻ đẹp của nó, và đột nhiên tôi chú ý đến một nét rực rỡ khác thường, một màu trắng lạ lùng. Từng chiếc lá, từng cành cây bắt đầu rung rinh như ngọn lửa của cả ngàn ngọn nến. Tôi ngạc nhiên hơn khi nhìn thấy tuyết rơi lần đầu tiên trong đời. Và còn ngạc nhiên hơn – không biết có phải bằng con mắt của thân thể hay không – ở trung tâm lấp lánh này, tôi thấy điều gì đó như một ánh mắt và một nụ cười của vẻ đẹp và lòng nhân từ không thể diễn tả nổi. Tim tôi đập mạnh. Tôi cảm thấy một sức mạnh của tình yêu thâm nhập vào tôi và tôi có cảm giác được yêu đến tận nơi sâu thẳm của con người tôi. Nó kéo dài một phút, một phút rưỡi, tôi không biết, nhưng đối với tôi nó giống như một sự vĩnh cửu. Một cái rùng mình xâm chiếm toàn bộ thân thể đưa tôi trở lại thực tế, và tôi rất buồn khi nhận ra ánh mắt và nụ cười đã biến mất và nét rực rỡ của cây đang dần dần nhạt nhòa. Những chiếc lá lấy lại vẻ bình thường và cây đoạn, mặc dù có đầy ánh sáng rực rỡ của mặt trời mùa hè đó, so với sự huy hoàng trước đó của nó, tôi thấy nó tối như dưới bầu trời mưa, điều đó làm cho tôi thật thất vọng.

Tôi không nói cho ai biết, nhưng ngay sau đó tôi nghe cô bếp và một bà khác nói với nhau về Thiên Chúa. Tôi tiến đến và hỏi họ: "Thiên Chúa hả? Ngài là ai vậy?” như cảm thấy có cái gì đó huyền bí. Cô bếp nói với bà kia: "Tội nghiệp con bé, bà nội nó là người ngoại đạo và không dạy nó những điều này!" Quay về phía tôi, cô nói: "Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng đất trời, muôn loài muôn vật. Ngài toàn năng và ở trên thiên đàng". Tôi vẫn im lặng, nhưng tự nhủ: "Tôi đã thấy Ngài!"

Tuy nhiên, tôi cảm thấy bối rối. Trong mắt tôi, bà nội tôi hơn hẳn những người đàn bà nội trợ này, nhưng cô bếp đã nói bà là người ngoại đạo vì bà không biết Thiên Chúa. Tôi hiểu rằng đây là một thuật ngữ theo nghĩa xấu. Ai đã đúng?

Một buổi sáng khi đang đợi người đến mặc quần áo cho tôi, tôi sốt ruột, phàn nàn vì quần áo trẻ em cài nút phía sau. Tôi đổ lỗi hết cho "sự ác ý của người lớn đối với những trẻ em dưới quyền của họ". Cuối cùng, không muốn chờ đợi lâu hơn, tôi nói: "Chúa ơi, nếu có Chúa và Chúa thực sự toàn năng, thì hãy cài nút đàng sau váy của con để con có thể đi xuống vườn." Tôi chưa nói xong những lời này thì chiếc váy của tôi đã được cài nút. Tôi há hốc miệng, rất sợ hãi khi thấy lời nói của mình có hiệu quả. Chân run rẩy, tôi ngồi trước gương tủ quần áo để xem có đúng vậy không và để lấy hơi. Tôi vẫn chưa biết kiểu nói "thử thách Thiên Chúa" nghĩa là gì, nhưng tôi hiểu mình sẽ bị biến thành bụi nếu tôi chống lại ý muốn của Ngài.

Cả một cuộc đời thánh thiện theo sau kinh nghiệm này chứng tỏ đó không phải là giấc mơ hay trí tưởng tượng của một cô bé.

Thiên Chúa là tình yêu và vì vậy là Ba Ngôi

Bây giờ chúng ta tiếp tục suy nghĩ về Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta, những Kitô hữu, nói với Đấng nào khi nói "Thiên Chúa" mà không xác định rõ? Khi chúng ta nói theo lời Thánh vịnh: "Lậy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ" (Tv 62,2), thì "Lậy Thiên Chúa" là đưa về Đấng nào? Ai trả lời ở đầu dây bên kia, nếu có thể nói được như vậy? "Lậy Thiên Chúa" không chỉ đơn giản là Thiên Chúa Cha, ngôi thứ nhất, như thể Ngài hiện hữu hoặc có thể hình dung được, dù chỉ trong khoảnh khắc, mà không có hai ngôi kia. Đó cũng không phải là yếu tính không xác định của Thiên Chúa, như thể đã có một yếu tính của Thiên Chúa sau này được biệt loại hóa thành Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Thiên Chúa duy nhất, Đấng nói trong Kinh thánh: "Ta là!", là Cha đã sinh ra Con và cùng với Con thở ra Thần Khí, chuyển thông cho hai ngôi tất cả thiên tính của mình. Đó là Thiên Chúa hiệp thông tình yêu, nơi Ngài duy nhấtba ngôi là từ cùng một nguồn gốc, cùng một hành động, và tạo thành một Tam Vị Nhất Thể, trong đó hai khía cạnh duy nhất tính và đa dạng tính không đi trước nhau, hoặc tồn tại mà không có khía cạnh kia, và không khía cạnh nào ở trên khía cạnh kia hoặc "sâu" hơn khía cạnh kia.

"Lây Chúa" mà chúng ta cầu nguyện, tùy theo trường hợp và ân sủng của mỗi người, có thể là một trong ba ngôi riêng biệt: Chúa Cha, Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, hoặc Chúa Thánh Thần, nhưng không phải cầu với một ngôi mà hai ngôi kia biến đi. Quả thực, đối với sự hiệp thông Ba Ngôi, trong mỗi ngôi đều có sự hiện diện của hai ngôi kia. Ba Ngôi giống như một trong những hình tam giác trong âm nhạc, đụng bất cứ phía nào, tất cả đều rung và phát ra âm thanh giống nhau.

Tóm lại, Thiên Chúa hằng sống của các Kitô hữu không phải ai khác ngoài Thiên Chúa Ba Ngôi hằng sống. Giáo lý về Ba Ngôi được chứa đựng, như hạt mầm, trong mạc khải của Thiên Chúa là tình yêu. Nói: "Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4,8) là nói: Thiên Chúa là Ba Ngôi. Mỗi tình yêu bao hàm một người yêu, một người được yêu và một tình yêu kết hợp họ. Mọi tình yêu đều là yêu một ai đó hoặc một cái gì đó; Không có tình yêu nào là "trống rỗng", không có đối tượng. Thiên Chúa yêu ai, để được gọi là tình yêu? Con người chăng? Nhưng khi ấy, Ngài chỉ là tình yêu từ vài trăm triệu năm. Ngài yêu vũ trụ chăng? Nhưng khi ấy, Ngài chỉ là tình yêu từ vài chục tỷ năm. Và trước đây, Thiên Chúa đã yêu ai để được gọi là tình yêu?

Các nhà tư tưởng Hy lạp và, nói chung, các triết lý tôn giáo của mọi thời đại, khi quan niệm Thiên Chúa trước hết là một "ý tưởng", có thể trả lời: Thiên Chúa nghĩ về chính mình; Ngài là "ý tưởng thuần túy", "ý tưởng của ý tưởng". Nhưng điều này không còn có thể được nữa, kể từ lúc chúng ta nói rằng Thiên Chúa trước hết là tình yêu, bởi vì "chỉ thuần túy yêu mình" sẽ là thuần túy ích kỷ, không phải là ca ngợi tình yêu cách cao đẹp nhất, nhưng phủ định nó hoàn toàn. Và đây là câu trả lời của mạc khải, được Giáo Hội làm rõ. Từ đời đời, ab aeterno, Thiên Chúa là tình yêu, bởi vì trước khi có bên ngoài Ngài một đối tượng để yêu, Ngài đã có nơi Ngài Ngôi Lời, Chúa Con, mà Ngài yêu bằng một tình yêu vô hạn, nghĩa là "trong Chúa Thánh Thần".

Điều đó không giải thích "làm thế nào" duy nhất có thể đồng thời là ba ngôi; đó là một mầu nhiệm mà chúng ta vẫn chưa biết, vì chỉ có nơi Thiên Chúa. Nhưng nó giúp ta hiểu "tại sao", trong Thiên Chúa, duy nhất tính cũng phải là đa dạng tính: bởi vì "Thiên Chúa là tình yêu"! Một Thiên Chúa là tri thức thuần túy, lề luật thuần túy hoặc quyền năng thuần túy chắc chắn sẽ không cần phải là Ba Ngôi. Điều đó làm cho mọi chuyện rắc rối hơn và quả thực, không có "tam đầu chế" nào tồn tại lâu trong lịch sử! Đây không phải là trường hợp của một Thiên Chúa trên hết là tình yêu, bởi vì "ít hơn hai người, thì không thể có tình yêu". Henri de Lubac đã viết: "Thế giới phải biết điều này: mạc khải của Thiên Chúa với tư cách là tình yêu làm đảo lộn tất cả những gì đã quan niệm trước đây về Thiên Chúa."[1] Là Kitô hữu, chúng ta hãy tin vào "một Thiên Chúa duy nhất" chứ không phải vào một Thiên Chúa cô độc!

Chiêm ngưỡng Ba Ngôi để chiến thắng sự bất hòa đáng ghét của thế giới [2]

Không khảo luận nào về Ba Ngôi có thể giúp chúng ta tiếp xúc trực tiếp với Ba Ngôi bằng việc chiêm ngưỡng icône (bức ảnh thánh) Ba Ngôi của Rublev, mà chúng ta được thấy một bản sao trong bức tranh khảm trước mắt chúng ta, trên đỉnh bức tường đối diện. Được vẽ vào năm 1425 cho Nhà thờ thánh Sergius, bức tranh được "Công đồng của một trăm tu nghị" năm 1551 công bố là mô hình của tất cả các bức ảnh thánh về Ba Ngôi.

Một điều cần được nói ngay về bức ảnh thánh này. Bức ảnh không có ý trực tiếp trình bầy Ba Ngôi, vì theo định nghĩa, Ba Ngôi vô hình và cao cả. Đó sẽ là điều trái ngược với mọi quy tắc của khoa hình ảnh thánh trong Giáo hội Byzantine. Những gì bức ảnh thực sự mô tả là ba thiên thần hiện ra với Abraham dưới cây sồi ở Mambrê (x. St 18,1-15). Điều này được chứng minh rõ ràng qua sự kiện là trong các mô tả khác về cùng một chủ đề trước và sau Rublev, Abraham, Sara, con bê và cây sồi ở hậu cảnh cũng xuất hiện cùng với ba nhân vật. Quả thực, nhìn theo truyền thống giáo phụ, tình tiết này được coi như một sự tiên báo về Ba Ngôi. Bức ảnh thánh này là một trong những hình thức đọc Kinh Thánh theo hướng thiêng liêng, nghĩa là giải thích một sự kiện của Cựu Ước dưới ánh sáng của Tân Ước.

Tín điều về sự duy nhất và ba ngôi của Thiên Chúa được diễn tả qua việc ba người có mặt, phân biệt nhau, nhưng rất giống nhau. Các ngài làm thành một vòng tròn cách lý tưởng, làm nổi bật sự duy nhất, tuy vậy sự chuyển động khác nhau của các ngài, đặc biệt của thiên thần đứng đầu, nói lên sự phân biệt giữa các ngài. Trong bản gốc, cả ba đều mặc áo màu xanh dương, dấu chỉ cà ba có chung một thiên tính. Nhưng phía trên hoặc phía dưới áo xanh, mỗi vị đều có một màu phân biệt nhau. Chúa Cha (thường được đồng hóa với thiên thần bên trái, Đấng mà hai vị kia cúi đầu), mặc một chiếc áo có màu sắc không thể xác định, gần như thuộc ánh sáng thuần khiết, dấu chỉ của vô hình và không thể đạt tới; Chúa Con ở giữa, mặc một chiếc áo dài mầu tối, dấu chỉ của nhân tính nơi Ngài; Chúa Thánh Thần, thiên thần bên phải, mặc áo choàng màu xanh lá cây, dấu chỉ của sự sống, vì Người là "Đấng ban sự sống".

Có một điều đặc biệt quan trọng khi người ta chiêm ngưỡng bức ảnh thánh của Rublev: sự bình an sâu xa và hiệp nhất tỏa ra từ toàn bộ bức ảnh. Một tiếng kêu im lặng phát ra từ bức ảnh: "Hãy là một như chúng ta là một". Vị thánh mà bức ảnh được vẽ cho tu viện của ngài, thánh Sergius Radonezh, được biết đến trong lịch sử nước Nga, vì đã khôi phục sự thống nhất giữa các nhà lãnh đạo đang xung đột với nhau, do đó giúp cho nước Nga thoát khỏi tay quân Tartar xâm lược. Phương châm của ngài là: "Chiêm ngưỡng Ba Ngôi chí thánh, chiến thắng sự bất hòa đáng ghét của thế giới". Rublev muốn thu thập di sản tinh thần của vị thánh vĩ đại này, người đã biến Ba Ngôi thành nguồn cảm hứng cho cuộc đời và công trình của mình.

Tất cả chúng ta đều muốn sự hiệp nhất. Sau từ "hạnh phúc", không có từ nào khác tương ứng với nhu cầu sâu sắc hơn của trái tim con người bằng từ "hiệp nhất". Chúng ta là "những hữu thể hữu hạn, có khả năng hướng tới vô hạn", điều đó có nghĩa là chúng ta là những thụ tạo giới hạn khao khát vượt quá giới hạn của chúng ta, để là "tất cả cách nào đó", quodammodo omnia, như nói trong triết học. Chúng ta không cam chịu chỉ là những gì chúng ta đang là. Ai mà không nhớ, trong những năm còn trẻ, những khoảnh khắc mà khi cảm nhận nhu cầu hiệp nhất sâu xa, hẳn đã muốn thấy tất cả vũ trụ tập hợp tại một điểm và cùng với tất cả những người khác ở tại điểm này, chính là vì tình cảm chia ly và cô đơn trên thế giới thật mạnh mẽ và đau đớn? Thánh Tôma Aquinô giải thích tất cả những điều đó như sau: "Vì sự hiệp nhất (unum) là một nguyên lý của hữu thể giống như sự thiện (bonum), nên mỗi người tự nhiên mong muốn sự hiệp nhất, cũng như mong muốn sự thiện. Vậy, cũng như tình yêu hoặc mong muốn sự thiện gây ra đau khổ, tình yêu hoặc mong muốn cho sự hiệp nhất cũng vậy."[3]

Do đó, tất cả chúng ta đều muốn sự hiệp nhất, tất cả chúng ta mong muốn nó từ nơi sâu thẳm của trái tim chúng ta.

Như vậy tại sao lại khó kiến tạo sự hiệp nhất, nếu tất cả chúng ta đều rất mong muốn nó? Chính là vì chúng ta muốn sự hiệp nhất, đúng, nhưng... hiệp nhất quanh quan điểm của chúng ta. Điều này dường như quá rõ ràng, quá hợp lý đến nỗi chúng ta ngạc nhiên khi những người khác không nhận ra điều đó, ngược lại nhấn mạnh quan điểm của họ. Thậm chí chúng ta cẩn thận vạch ra con đường cho người khác để họ đến và tham gia với chúng ta tại nơi chúng ta đang ở. Vấn đề là người trước mặt tôi chính xác làm cùng một điều giống tôi. Bằng cách này, người ta sẽ không bao giờ đạt được sự hiệp nhất. Hiệp nhất đòi hỏi con đường ngược chiều.

Ba Ngôi chỉ cho chúng ta biết con đường thực sự đi đến hiệp nhất. Khởi đi từ những Ngôi Thiên Chúa, thay vì từ khái niệm bản tính, các Giáo Phụ Đông phương giải thích sự hiệp nhất của Thiên Chúa theo một cách khác. Các ngài đã làm điều đó bằng cách khai triển giáo lý về sự tương nhập. Áp dụng cho Ba Ngôi, sự tương nhập (nghĩa là "thâm nhập lẫn nhau"), diễn tả sự kết hợp ba ngôi vị trong một yếu tính duy nhất.[4] Nhờ đó, ba ngôi kết hợp với nhau, nhưng không lẫn lộn; mỗi ngôi "đồng nhất" với ngôi kia, hiến thân cho ngôi kia và duy trì sự hiện hữu của ngôi kia. Khái niệm này dựa trên những lời của Đức Kitô: "Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy" (Ga 14,11).

Đức Giêsu đã mở rộng nguyên tắc này sang mối quan hệ giữa Người và chúng ta: "Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em" (Ga 14,20); "Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một" (Ga 17,23). Con đường hiệp nhất thực sự là chúng ta, trong Giáo Hội, bắt chước sự tương nhập của Thiên Chúa. Thánh Phaolô chỉ ra nền tảng của nó khi ngài nói rằng "mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể" (Rm 12,5). Nơi Thiên Chúa, sự tương nhập dựa trên sự duy nhất của bản tính, nơi chúng ta, dựa trên sự kiện chúng ta là "một thân thể duy nhất và một thần khí duy nhất".

Thánh Tông Đồ giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của tương nhập hoặc thâm nhập lẫn nhau trong thực tế: "Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau; nếu bộ phận nào được vẻ vang, thi mọi bộ phận cũng vui chung" (1Cr 12,26); "Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô" (Gl 6,2). "Gánh nặng" của người khác là bệnh tật, giới hạn, lo lắng, nhưng cũng là khuyết điểm và tội lỗi. Sống sự tương nhập có nghĩa là "đồng hóa mình" với người khác, đặt mình  như người ta nói  trong địa vị của họ, tìm hiểu trước khi xét đoán.

Ba Ngôi luôn quan tâm tôn vinh lẫn nhau. Chúa Cha tôn vinh Chúa Con; Chúa Con tôn vinh Chúa Cha (Ga 17,4); Chúa Thánh Thần sẽ tôn vinh Chúa Con (Ga 16,14). Mỗi ngôi lo cho ngôi khác được biết đến. Chúa Con dạy người ta kêu lên "Abba!"; Chúa Thánh Thần dạy người ta kêu lên "Giêsu là Chúa!""Lậy Chúa, xin hãy đến, Maranatha”. Các Ngài không dạy nói ra tên riêng của mình, nhưng là tên của những ngôi khác. Chỉ có một "nơi" trên thế giới trong đó quy tắc "yêu người lân cận như chính mình" được thực hành, theo một nghĩa tuyệt đối, đó là Ba Ngôi! Mỗi ngôi yêu ngôi khác giống hệt như yêu mình.

Bầu không khí sẽ rất khác trong một cơ thể xã hội nếu chúng ta cố gắng sống với những lý tưởng cao cả này trước mắt! Hãy nghĩ đến một gia đình trong đó chồng bảo vệ và tán dương vợ trước mặt các con và người lạ, cũng như vợ làm như thế đối với chồng; hãy nghĩ đến một cộng đồng trong đó mọi người cố gắng thực hành lời khuyên của thánh Giacôbê: "Anh em đừng nói xấu nhau" (Gc 4,1), hoặc của thánh Phaolô: "Hãy coi người khác trọng hơn mình" (Rm 12,10). Theo quan điểm này, một người thậm chí có thể vui mừng khi một người khác mà mình quý trọng được bổ nhiệm vào một chức vụ vinh dự (ví dụ chức hồng y), như thể chính mình được bổ nhiệm vào chức đó.

Nhưng hãy để các thánh phát biểu về điều này, những người duy nhất có quyền phát biểu vì các ngài đã thực hành nó. Trong một lời khuyên, thánh Phanxicô Assisi nói: "Phúc cho người đầy tớ nào không tự hào về điều tốt mà Chúa nói và làm qua anh ta, hơn là tự hào về điều tốt mà Ngài nói và làm qua một người khác". Thánh Augustinô nói với dân chúng: "Nếu bạn yêu thích sự hiệp nhất, bất cứ ai trong đó có sự gì thì cũng là cho bạn! Đừng ghen tị và những gì tôi có cũng là của bạn; tôi cũng đừng ghen tị, vì những gì bạn có cũng sẽ là của tôi. Ghen tuông tạo ra sự chia cách; sự hiệp nhất, đó là kết quả của bác ái. [...] Nơi thân thể, chỉ có bàn tay là làm việc; nhưng nó làm việc cho một mình nó chăng? Nó cũng làm việc cho mắt nữa. Do đó, khi người ta muốn đánh vào mặt chứ không phải tay, phải chăng mặt nói: "Tôi chẳng phải động đậy, vì người ta đâu có muốn nhắm vào tôi?"[5]

Điều này có nghĩa là: nếu bạn cố gắng đặt lợi ích của cộng đồng lên trên khẳng định cá nhân của bạn, mỗi đặc sủng và danh dự trong cộng đồng sẽ là của bạn, giống như trong một gia đình hiệp nhất, thành công của một thành viên làm cho tất cả các thành viên khác được hạnh phúc. Chính vì vậy bác ái là "con đường trổi vượt hơn cả" (1Cr 12,31): nó nhân lên các đặc sủng, làm cho đặc sủng của một người thành những đặc sủng của mọi người. Tôi biết rằng những điều này nói thì dễ, nhưng thực hành thì khó; tuy nhiên, thật tuyệt khi biết rằng với ân sủng của Thiên Chúa, chúng là điều có thể làm được và có những người đã thực hành chúng, và cũng làm như vậy cho chúng ta trong Giáo hội.

Việc chiêm ngưỡng Chúa Ba Ngôi thực sự giúp đánh bại "mối bất hòa đáng ghét của thế giới". Phép lạ đầu tiên mà Chúa Thánh Thần thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần là làm cho các môn đệ "đồng tâm nhất trí" (Cv 1,14), "một lòng một ý" (Cv 4,32). Ngài  luôn sẵn sàng lặp lại phép lạ này, để mỗi lần biến đổi sự bất hòa (dis-corde) thành sự hài hòa (con-corde). Người ta có thể chia rẽ trong trí ở chỗ mỗi người nghĩ về các vấn đề giáo lý hoặc mục vụ vẫn còn được tranh luận một cách hợp pháp trong Giáo hội nhưng không bao giờ chia rẽ trong lòng: In dubiis libertas, in omnibus vero caritas (trong sự hồ nghi, có tự do, nhưng trong mọi sự, có bác ái). Điều đó có nghĩa là bắt chước sự hiệp nhất của Ba Ngôi, thực sự là "hiệp nhất trong đa dạng".

Đi vào trong Ba Ngôi

Một việc chúng ta có thể làm về Ba Ngôi thậm chí còn hạnh phúc hơn là chiêm ngưỡng và bắt chước Ba Ngôi: đó là đi vào trong Ba Ngôi! Chúng ta không thể ôm lấy đại dương, nhưng có thể đi vào trong đó; chúng ta không thể ôm lấy mầu nhiệm Ba Ngôi bằng tâm trí, nhưng có thể bước vào trong đó!

Đức Kitô đã để lại cho chúng ta một phương tiện cụ thể để làm điều này: Thánh Thể. Trong bức ảnh thánh của Rublev, ba thiên thần được sắp xếp quanh một chiếc bàn; trên bàn này, có một cái ly và trong ly, người ta thấy một con chiên. Không thể nói cách đơn giản và hiệu quả hơn rằng Ba Ngôi hẹn gặp chúng ta mỗi ngày trong Thánh Thể. Bữa tiệc của Abraham ở cây sồi Mambrê biểu thị bữa tiệc này. Cuộc viếng thăm Abraham của cả Ba Ngôi được nhắc lại cho chúng ta mỗi khi chúng ta chịu lễ.

Cũng liên quan tới Thánh Thể, giáo lý về sự tương nhập Ba Ngôi soi sáng chúng ta. Giáo lý ấy cho ta biết nơi nào có một ngôi trong Ba Ngôi thì cũng có hai ngôi kia, kết hợp với nhau không thể tách rời. Lúc chịu lễ là lúc lời của Đức Kitô được thực hiện theo nghĩa hẹp: "Con ở trong chúng và Cha ở trong con"; "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9); ai đón nhận Thầy, cũng là đón nhận Chúa Cha. Chúng ta sẽ không bao giờ có thể đánh giá đúng ân sủng được ban cho chúng ta. Những người bạn đồng bàn của Ba Ngôi!

Bằng sự chặt chẽ thần học thông thường của mình, Thánh Cyrillô Alexandria đã trình bầy chân lý liên kết bền chặt giữa Ba Ngôi và Thánh Thể. Ngài nói: "Chúng ta được hiệp nhất với Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô. Quả thực, nhận được nơi ta cả về thể xác lẫn tinh thần những gì Chúa Con là do bản tính, chúng ta tham dự và kết hợp với tất cả bản tính của Đấng tối cao".[6]

Cũng chính người mà tôi đã chia sẻ chứng tá lúc đầu đã tâm sự với tôi, trong một dịp khác, một kinh nghiệm mà sau này chị có về Ba Ngôi. Tôi cũng chia sẻ kinh nghiệm này vì nó cho chúng ta biết rằng Giáo Hội không chỉ là những gì người ta thấy hoặc nói về Giáo Hội. Chị nói:

"Một buổi tối nọ, Thần Khí đã đưa tôi vào trong mầu nhiệm tình yêu Ba Ngôi. Sự trao đổi lý thú của việc cho và nhận cũng diễn ra trong tôi: từ Chúa Kitô mà tôi được kết hợp, hướng tới Chúa Cha và từ Chúa Cha đến Chúa Con. Nhưng làm thế nào diễn tả nổi điều không thể diễn tả? Tôi không thể nhìn thấy bất cứ điều gì, nhưng những gì tôi trải nghiệm còn hơn cả nhìn thấy, và lời nói của tôi hoàn toàn không đủ để diễn tả sự trao đổi niềm vui hỗ tương này đang diễn ra, nhận được và cho đi. Và một sức sống mãnh liệt đã chảy từ ngôi này sang ngôi khác trong cuộc trao đổi đó, giống như sữa ấm chảy từ vú mẹ sang miệng đứa bé gắn liền với sự thoải mái đó. Và tôi là đứa bé này, đó là tất cả tạo thành tham dự vào sự sống, vào Vương quốc, vào vinh quang, một khi đã được Đức Kitô tái sinh. Ôi Ba Ngôi chí thánh và hằng sống! Tôi đã ở bên ngoài tôi trong hai hoặc ba ngày và cho đến ngày hôm nay, kinh nghiệm này vẫn còn in sâu trong tôi."

Ba Ngôi không chỉ là một mầu nhiệm và là một tín khoản của chúng ta, mà còn là một thực tại sống động và đang sống. Như tôi đã nói lúc đầu, Thiên Chúa hằng sống của Kinh Thánh mà chúng ta tìm kiếm không ai khác ngoài Ba Ngôi hằng sống. Xin Thần Khí cũng đưa chúng ta vào trong Ba Ngôi, và cho chúng ta nếm thử sự đồng hành dịu ngọt của Ngài.

 

[1] H. de Lubac, Histoire et Esprit, Aubier, Paris 1950, ch. 5. 

[2] Je reproduis ici en partie ce que j’ai écrit dans mon livre Contempler la Trinité, Editions des Béatitudes, 2006.

[3] Saint Thomas, Somma teologica I-IIae , q. 26,a.3. 

[4] Cf. Ps. Cyrille d’Alexandrie, De Trinitate, 23 ; PG 77 1164B ; saint Jean Damascène, De fide orthodoxa, 3, 7.

[5] Saint Augustin, Traité sur Jean, 32, 8.

[6] Saint Cyrille d’Alexandrie, Commentaire de Jean, XI, 12 (PG 74, 564).

 

      (R. Cantalamessa, Bài giảng II Mùa Vọng, 14/12/2018, tại Phủ Giáo hoàng)

Lm Micae Trần Đình Quảng