Tông Huấn Amoris Laetitia - Chương Ba: Nhìn Vào Chúa Giêsu: Ơn Gọi
Gia Đình (Số 58 - 88)
58. Trong và giữa
các gia đình, thông điệp
Tin Mừng phải luôn
luôn vang vọng; cốt lõi của thông điệp ấy, việc rao giảng, là điều vốn “tuyệt vời nhất, xuất
chúng nhất, gọi mời nhất
và đồng thời cần thiết nhất”.50 Thông điệp này “cần phải chiếm
vị trí trung tâm trong tất cả mọi hoạt động truyền giáo”.51 Đó là việc loan báo đầu tiên và quan
trọng nhất, “việc
mà chúng ta phải nghe đi nghe lại bằng nhiều cách khác nhau, và điều mà chúng
ta phải luôn loan báo bằng cách này hay cách khác”.52 Thực ra, “không có gì
là cụ thể, sâu sắc, đảm bảo,
ý nghĩa và khôn ngoan cho bằng thông điệp ấy”. Trong thực tế, “tất
cả mọi việc đào luyện Kitô Giáođều bao gồm việc đi sâu vào việc rao giảng”.53
59. Giáo huấn của
chúng ta về hôn nhân và gia đình không thể thất bại để được gợi hứng và biến đổi bởi thông điệp này của tình yêu và
sự dịu dàng; bằng không, nó sẽ chẳng là gì ngoài việc là một sự bảo vệ giáo lý
khô cứng và không
có sự sống. Mầu nhiệm gia đình Kitô Giáocó thể được hiểu
một cách trọn vẹn chỉ ở
trong ánh sáng của tình yêu vô biên của Chúa Chađược tỏ lộ ở nơi
Đức Kitô, Đấng đã trao ban
chính Ngài vì chúng
ta và Đấng sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta. Giờ đây tôi muốn chiêm ngắm Đức Kitô hằng sống, Đấng đang là trung tâm của quá nhiều câu chuyện
tình, và để khẩn xin ngọn lửa của Thần Khí trên tất cả
mọi gia đình trên thế giới.
60. Do đó,
chương vắn gọn này sẽ tóm lược lại giáo huấn của Giáo Hội về hôn
nhân và gia đình. Ở đây
tôi cũng sẽ đề cập đến điều mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã
nói về ánh sáng được ban bởi
đức tin của chúng ta. Các Ngài bắt đầu bằng việc chiêm ngắm Chúa Giêsu và các Ngài đã nói về
cách mà Ngài “đã nhìn đến những người nam nữ mà Ngài đã gặp gỡ bằng tình yêu và sự dịu dàng, đồng hành với các bước
đi của họ trong sự thật, sự nhẫn nại và lòng thương xót khi Ngài loan báo những đòi hỏi
của Nước Thiên Chúa”.54 Thiên Chúa cũng ở cùng
chúng ta ngày nay nữa, khi chúng ta tìm cách thực hành và chuyển giao
Tin Mừng của gia đình.
CHÚA GIÊSU KHÔI
PHỤC VÀ CHU TOÀN KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA
61.
Trái lại với những người khước từ hôn nhân như là một sự dữ, Kinh Thánh Tân Ước
dạy rằng “tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và
không có gì phải loại bỏ” (1 Tm 4:4). Hôn nhân là “một quà tặng” từ Thiên Chúa (1 Cr 7:7). Đồng thời,
rõ ràng vì cách hiểu tích cực này, mà Tân Ước mạnh mẽ nhấn mạnh sự
cần thiết phải bảo vệ quà tặng của Thiên
Chúa: “Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế” (Dt
13:4). Quà tặng thánh này bao gồm cả tính dục: “Vợ chồng đừng từ
chối nhau” (1 Cr 7:5).
62.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng Chúa
Giêsu, “trong khi nói về kế hoạch nguyên thuỷ của Thiên Chúa dành cho người nam và người nữ, đã tái khẳng định
về sự hiệp nhất bất khả phân ly giữa họ, thậm chí nói rằng ‘vì
các ông lòng chai dạ đá,
nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu’
(Mt 19:8). Tính bất khả phân ly của hôn nhân – ‘sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người
không được phân ly’ (Mt 19:6) – không được nhìn như là
một ‘cái ách’ đặt trên con người, nhưng là một ‘quà tặng’được
ban cho những ai đi vào đời sống hôn nhân... Tình yêu đầy đam mê của Thiên Chúa luôn luôn đồng
hành với hành trình con người của chúng ta; qua ân sủng,
tình yêu ấy chữalành là biến đổi những tâm hồn chai đá, dẫn
họ về với thuở ban đầu ngang qua con đường của thập giá. Các
Sách Tin Mừng trình bày rõ ràng về gương của Chúa Giêsu Đấng...đã loan báo ý
nghĩa của hôn nhân như là một sự thành toàn về sự mặc khải vốn khôi phục
kế hoạch nguyên thuỷ của Thiên Chúa (x. Mt 19:3)”.55
63.
“Chúa Giêsu, Đấng đã hoà giải mọi sự ở nơi Ngài, đã khôi phục hôn
nhân và gia đình về hình thức nguyên gốc của chúng (x. Mt 10:1-12). Hôn nhân và gia đình đã được Đức Kitô cứu chuộc (x. Ep
5:21-32) và khôi phục theo hình ảnh của Ba Ngôi Chí Thánh, mầu nhiệm mà từ đó mọi tình yêu đích thực chảy tràn. Giao ước vợ chồng,
có nguồn gốc từ trong việc tạo dựng và được mạc khải trong lịch sử cứu độ, mặc
lấy ý nghĩa trọn vẹn của nó ở nơi Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài. Ngang qua Giáo Hội của Ngài, Đức Kitô ban xuống trên hôn nhân và gia đình ân sủng cần thiết để
làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa và sống đời sống hiệp
thông. Tin Mừng của gia đình trải dài trong lịch sử của thế giới, từ khi tạo thành người nam
và người nữ theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa (x. St 1:26-27), đến sự viên mãn của mầu nhiệm của giao ước
ở nơi Đức Kitô vào thời sau hết với tiệc cưới của Con
Chiên (x. Kh 19:9)”.56
64.
“Mẫu gương của Chúa Giêsu là một khuôn mẫu cho Giáo Hội...Ngài bắt
đầu sứ vụ công khai của Ngài bằng phép lạ tại tiệc cưới Cana (x.
Ga 2:1-11). Ngài chia sẻ những giây phút hằng ngày của tình bằng hữu với gia đình của
La-da-rô và các chị em của ông (x. Lc 10:38) và với gia đình của Phêrô (x. Mc 8:14). Ngài đồng cảm với những
bậc cha mẹ đau khổ và khôi phục sự sống cho con cái họ (x. Mc 5:41; Lc 7:14-15). Bằng cách
này Ngài thể hiện ý nghĩa thực sự của lòng thương xót, vốn đi kèm vời việc khôi phục giao ước
(x. Gioan PhaolôII,
Dives in Misericordia, 4). Điều này rõ ràng ngay từ cuộc trò
chuyện của Ngài với người
phụ nữ Sa-ma-ri (x.
Ga 1:4-30) và với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình
(x. Ga 8:1-11), nơi mà việc ý thức về tội lỗi
được đánh thức bởi một cuộc gặp gỡ với tình yêu nhưng
không của Chúa
Giêsu”.57
65.
Sự nhập thể của Ngôi Lời
trong một gia đình nhân loại, ở Na-da-rét, bởi sự mới mẻ
của nó đã thay đổi
lịch sử thế giới. Chúng ta cần đi vào trong mầu nhiệm của sự hạ
sinh của Chúa Giêsu, đi
vào trong tiếng “xin
vâng” được Mẹ Maria trả lời
trước thông điệp của sứ thần, khi Ngôi Lời đã được cưu mang trong lòng
Mẹ, cũng như là tiếng “xin vâng” của
Thánh Giuse, Đấng đã đặt
tên cho Chúa Giêsu và chăm sóc Mẹ Maria. Chúng ta cần
chiêm ngắm niềm vui của
các mục đồng trước hang đá, việc thờ lạy của
các Vị Đạo Sĩ và cuộc chạy trốn sang Ai Cập, mà trong đó Chúa Giêsu chia sẻ kinh
nghiệm lưu đày, bách hại và hạ nhục của con người. Chúng ta cần chiêm ngắm sự mong đợi mang tính
tôn giáo của ông Gia-ca-ri-a và niềm vui của ông trước sự
hạ sinh của Gioan Tẩy Giả, sự thành toàn lời hứa đã được cụ già Si-mê-on và Anna biết đến
trong Đền Thờ và sự kinh ngạc của các Luật Sĩ khi nghe sự khôn
ngoan của trẻ Giêsu. Do đó chúng ta cần đi vào trong ba mươi năm trời khi Chúa Giêsu kiếmsống
bằng đôi bàn tay của Ngài, đọc các kinh nguyện truyền thống và thể hiện niềm
tin của dân Ngài và đi đến chỗ nhận biết rằng niềm tin ấy của tổ tiên cho
đến khi Ngài làm cho niềm tin ấy sinh hoa trái trong mầu nhiệm Nước Trời. Đây là mầu nhiệm của Giáng Sinh và bí mật của Na-da-rét, làm tỏ lộ vẻ đẹp của đời sống
gia đình! Chính điều
này đã quá làm kinh ngạc Thánh Phanxicô Assisi, Thánh Têrêsa
Hài Đồng Giêsu và Thánh Charles de Foucauld, và tiếp tục lấp đầy các gia đình Kitô Giáo bằng niềm hy vọng và niềm vui.
66. “Giao ước của tình yêu và lòng trung thành được
Gia Đình Thánh Gia Na-da-rét sống soi sáng cho nguyên tắc tạo nên sự
hình thành nên mọi gia đình, và làm cho nguyên tắc này đối diện tốt hơn với những đổi thay của đời sống
và lịch sử. Trên nền tảng này, mọi gia đình, bất chấp những yếu kém của
nó, có thể trở thành một ánh sáng trong tăm tối cho thế
giới. ‘Gia đình Na-da-rét chạy cho chúng ta ý nghĩa của đời sống gia đình,
sự hiệp thông yêu thương của gia đình này, vẻ đẹp đơn sơ và trong
sáng của nó, tính cách thánh thiêng và bất khả xâm phạm của nó. Chớ gì
gia đình dạy
cho chúng ta về việc đào luyện của nó thật ngọt ngào và không thể
thay thế là thế nào, vai trò của nó trong trật tự xã hội là nền tảng và
khôn sánh là thế nào’ (Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Diễn Văn Ở
Na-da-rét, 05/01/1964”.58
GIA ĐÌNH TRONG CÁC VĂN KIỆN CỦA GIÁO HỘI
67. Công Đồng
Vatican II, trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes, đã quan tâm “đến
việc cổ võ phẩm giá của hôn nhân và gia đình (x. Nos. 47-52)”.
Hiến Chế “định nghĩa hôn nhân là một cộng đoàn của sự sống và tình yêu (x. 48), đặt
tình yêu làm trung tâm của gia đình... ‘Tình yêu đích thực giữa người chồng và người vợ’ (49) có liên hệ đến trao ban bản thân cho nhau, bao gồm và tích hợp vào các chiều
kích tình dục và tình cảm, theo kế hoạch của Thiên Chúa (x. 48-49)”. Văn
kiện công đồng còn nhấn mạnh “nền tảng của đôi vợ chồng vào ĐứcKitô. Đức Kitô là Chúa “làm cho chính Ngài hiện diện đối với các cặp vợ
chồng Kitô Giáo trong
bí tích hôn nhân’ (48) và ở
cùng với họ. Bởi Thần Khí của Ngài, Ngài ban cho đôi bạn khả năng để sống tình yêu ấy, đi vào trong mọi phần của đời sống đức
tin, hy vọng và bác ái của họ. Bằng cách này, các đôi bạn được thánh hiến bởi
phương tiện của một ân sủng đặc biệt xây dựng nên Thân Mình của Đức Kitô và hình thành nên một giáo hội tại gia (x. Lumen Gentium,
11), để Giáo Hội, để hiểu hoàn toàn về mầu nhiệm của mình, nhìn đến gia đình Kitô Giáo,
vốn làm tỏ lộ chính Giáo Hội một cách rất thực”.59
68.
“Chân Phúc Phaolô VI, trong sự tiếp nối với Công Đồng Vatican II, đã
phát triển xa hơn nữa giáo huấn của Giáo Hội về hôn
nhân và gia đình. Cách cụ thể, với Thông Điệp Humanae Vitae Ngài đã mang lại một mối dây liên hệ cố hữu giữa tình yêu vợ chồng với việc
tạo nên sự sống: ‘Tình yêu hôn nhân đòi hỏi người chồng và người vợ sự ý thức trọn vẹn về các nghĩa
vụ của họ trong vấn đề làm cha mẹ có trách nhiệm, điều mà ngày nay, đầy đủ một
cách đúng đắn, được khẳng định, nhưng đồng thời cũng là điều phải được hiểu cách
đúng đắn... Việc thực thi quyền làm cha mẹ có trách nhiệm đòi hỏi
rằng người chồng và người vợ, giữ đúngthứ tự các ưu
tiên, nhận biết các bổn phận của họ đối với Thiên Chúa, với chính họ, gia đình họ và xã hội con người’ (Số 10). Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh mối
quan hệ giữa gia đình và Giáo Hội”.60
69. “Thánh
Gioan Phaolô II dành một sự chú ý đặc biệt đến gia đình trong các bài giáo lý của Ngài về tình
yêu con người, trong Thư Gửi Các Gia Đình Gratissimam
Sane của Ngài và đặc
biệt trong Tông Huấn Familiaris Consortio của Ngài. Trong những văn kiện này, Đức
Giáo Hoàng định
nghĩa gia đình như là ‘con đường của Giáo Hội’. Ngài cũng mang lại một tầm
nhìn chung về ơn gọi
của người nam và người nữ đối với tình yêu, và đưa ra những hướng
dẫn nền tảng đối với việc chăm sóc mục vụ cho gia đình và đối với vai trò của gia đình trong xã hội. Đặc biệt, bằng việc nói
đến tình yêu vợ chồng (x. Số 13), Ngài đã mô tả cách mà đôi bạn, trong tình yêu dành cho nhau của họ, lãnh nhận quà tặng
của Thần Khí của Đức Kitô và sống ơn gọi nên
thánh của họ”.61
70.
“Đức Giáo Hoàng
Benedict XVI, trong Thông Điệp Deus Caritas Est của Ngài, đã trở
lại với sự thật về tình yêu của người nam và người nữ, vốn được khai sáng cách trọn vẹn chỉ trong tình yêu của Đức Kitô chịu đóng
đinh (x. Số 2).
Ngài nhấn mạnh rằng ‘hôn nhân dựa trên một tình yêu đặc biệt và tối hậu trở nên một biểu
tượng của mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân
của Người, và ngược lại. Cách yêu thương của Thiên Chúa trở
thành thước đo của tình yêu con người’ (11). Hơn thế, trong Thông Điệp
Caritas in Veritate, Ngài đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tình
yêu như là một nguyên tắc của cuộc sống trong xã hội (x. 44),một nơi mà chúng ta học kinh
nghiệm về thiện ích chung”.62
BÍ TÍCH HÔN
NHÂN
71. “Kinh Thánh
và Truyền Thống cho chúng ta đi vào một sự hiểu biết về Ba Ngôi, được mạc khải với các đặc tính
của một gia đình. Gia đình là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng vốn là một sự
hiệp thông của các ngôi vị. Trong phép rửa của Chúa Giêsu, người ta nghe thấy tiếng
của Chúa Cha, gọi Chúa
Giêsu là Con yêu dấu của Ngài, và trong tình yêu này chúng ta có thể nhận ra
Chúa Thánh Thần (x. Mc 1:10-11). Chúa Giêsu, Đấng đã hoà giải tất cả mọi sự ở nơi Ngài và đã
cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi, không chỉ trả về cho hôn nhân và gia
đình hình thức nguyên gốc của nó, mà còn nâng hôn nhân thành một dấu chỉ
bí tích của tình yêu của Ngài dành cho Giáo Hội (x. Mt 19:1-12;
Mc 10:1-12; Ep 5:21-32). Trong gia đình nhân loại, được Đức Kitô qui tụ, ‘hình ảnh và sự giống’ của Ba Ngôi Chí Thánh (x.
St 1:26) đã được khôi phục, mầu nhiệm mà từ đó tình yêu được chảy tràn. Ngang
qua Giáo Hội, hôn nhân và gia đình
nhận được ân sủng
của Chúa Thánh Thần từ Đức Kitô, để làm chứng cho
Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa”.63
72.
Bí tích hôn nhân không phải là một quy ước xã hội, một
nghi thức sáo rỗng hoặc thuần tuý chỉ là dấu chỉ bề ngoài của một sự cam kết.
Bí tích là một quà tặng được trao ban cho sự thánh hoá và ơn cứu độ của
đôi bạn, bởi vì “sự thuộc về nhau của họ là một sự thể hiện
thực sự, ngang qua dấu chỉ bí tích, của cùng một mối quan hệ giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Đôi bạn đã kết hôn
do đó là một sự nhắc nhớ mãi mãi đối với Giáo Hội về điều đã diễn ra trên
thập giá; họ là dành cho nhau và cho con cái họ những chứng nhân của ơn cứu độ mà trong đó họ cùng thông phần
qua bí tích”.64 Hôn
nhân là một ơn gọi, cùng một cách thế mà nó là sự đáp trả cho một
ơn gọi cụ thế để kinh nghiệm tình yêu vợ chồng như là một dấu chỉ bất toàn của
tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Do đó, quyết định kết hôn và lập gia đình cần phải là hoa trái của một tiến trình phân định ơn gọi.
73.
“Sự trao ban bản thân cho nhau trong bí tích hôn nhân được đặt nền tảng trong ân sủngcủa phép rửa, vốn tạo nên một giao ước nền tảng của mọi
người với Đức Kitô
trong Giáo Hội. Trong việc chấp nhận nhau, và cùng với ân sủng của Đức Kitô, đôi bạn đã đính hôn thề hứa với nhau một sự trao
ban bản thân hoàn toàn, sự trung thành và mở ra cho sự sống mới. Đôi bạn nhận
biết những yếu tố này như là một thiết chết của hôn nhân, những quà tặng đượcThiên Chúa
ban cho họ, và thực hiện cách nghiêm túc sự cam kết của họ, nhân danh Thiên
Chúa và trong sự hiện diện của Giáo Hội. Do đó, đức tin làm cho họ có thể nhận
lấy những điều tốt lành của hôn nhân cũng như là những
cam kết vốn có thể được giữ gìn tốt hơn ngang qua sự trợ
giúp của ân sủng của bí tích....Do đó, Giáo Hội nhìn đến
đôi bạn kết hôn như là trung tâm của toàn bộ gia đình, rồi sau đó, nhìn đến Chúa Giêsu”.65 Bí tích không phải là một “vật” hay một “thế lực”, vì ở trong đó chính Đức Kitô “giờ đây gặp
gỡ các đôi bạn Kitô
Giáo... Ngài ở với họ, ban cho họ sứ mạnh để mang lấy những thập giá
và vì thế đi theo Ngài, để
đứng lên khi bị ngã quị, để tha thứ cho nhau, để mang lấy gánh
nặng của nhau”.66Hôn nhân Kitô Giáo là một dấu chỉ về việc Đức Kitô đã yêu thương Giáo Hội của Ngài
thế nào trong giao ước được đóng dấu trên thập giá, nhưng nó cũng làm cho tình yêu ấy hiện diện trong sự hiệp thông của đôi bạn. Bằng việc trở nên một xương một
thịt, họ mang lấy hôn ước của bản tính con người của chúng ta bởi Con Thiên
Chúa. Đó là lý do vì sao “trong niềm vui của tình yêu của họ và gia đình của họ,
Ngài cho họ ở đây trên mặt
đất này một sự nếm trước bữa tiệc cưới của Con Chiên”.67 Ngay cả sự so
sánh giữa đôi bạn là
vợ và chồng, và sự so sánh giữa tình yêu của Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài, là “bất toàn”,68 thì việc so sánh ấy
cũng thôi thúc chúng ta xin Thiên Chúa ban xuống trên mọi cặp vợ chồng một
sự tuôn đổ của tình yêu thánh của Ngài.
74.
Sự hiệp nhất về tính
dục, được cảm nghiệm cách yêu thương và được thánh hoá bởi bí tích, theo đó là
một con đường của sự trưởng thành trong đời sống ân sủng dành cho đôi bạn. Đó
là “mầu nhiệm hôn
nhân”.69 Ý nghĩa và giá trị của sự hiệp nhất thể lý của họ được diễn tả trong những lời của sự bằng lòng,
mà trong đó họ đón nhận và trao ban chính bản thân họ cho nhau, để thông phần sự
sống của họ một cách trọn vẹn. Những lời này mang lại ý nghĩa cho mối quan hệ tình dục và giải thoát
nó khỏi sự mập mờ. Một cách khái quát hơn,đời sống
chung của người chồng và người vợ, sẽ được ngấm vào và củng cố bởi ân sủng của
bí tích. Vì bí tích hôn nhân chảy tràn từ sự nhập thể và
mầu nhiệm vượt qua, mà qua đóThiên Chúa bày tỏ sự trọn vẹn của
tình yêu của Ngài cho nhân loại bằng việc trở nên một với chúng ta. Đôi bạn cũng sẽ không
phải một mình trong việc đối
diện với bất cứ thách đố nào xuất hiện trên hành trình của họ. Cả hai đều được mời gọi
để đáp trả lại trước quà tặng củaThiên Chúa bằng sự dấn thân, sáng tạo, kiên định
và nỗ lực hằng ngày. Họ có thể luôn khẩn xin sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần là
Đấng thánh hoá sự hiệp nhất của họ, để ân sủng của Ngài có thể được cảm nghiệm
trong mọi hoàn cảnh mới mà họ gặp phải.
75.
Trong truyền thống La Tinh của Giáo Hội, các thừa tác viên của bí tích hôn nhân là người nam và người nữ đang kết
hôn;70 bằng việc thể hiện sự đồng
lòng của họ
và thể hiện điều ấy bằng thể lý, họ sẽ lãnh nhận một quà tặng lớn lao. Sụ bằng lòng của họ
và sự hiệp nhất thân xác của họ là những phương thế được thánh hiến mà từ đó họ
trở thành “một
xương một thịt”. Ngang qua sự thánh hiến bí tích của mình, họ được dự phần vào hôn nhân như các thừa
tác của Thiên Chúa và do đó đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Do đó, khi đôi bạn không phải là Kitô Giáo lãnh nhận
phép rửa, thì họ không cần phải làm mới lại các lời hứa hôn phối của họ;
họ chỉ cần đừng khước từ những lời hứa ấy, bởi vì ngang qua việc
lãnh nhận phép rửa thì sự hiệp thông của họ tự động trở thành bí tích.
Giáo Luật cũng nhìn nhận tính hợp pháp của những cuộc hiệp nhất nhất định
được cử hành mà không có vị thừa tác được thụ phong.71 Phẩm trật tự nhiên cũng đã quá được thấm
nhuần bởi ân sủng cứu chuộc của Chúa Giêsu đến nỗi “một đồng thuận hôn nhân hợp pháp không
thể tồn tại giữa những người đã chịu phép rửa mà không có ân sủng này
trước sự thật là một bí tích”.72 Giáo Hội có thể đòi hỏi rằng đám cưới phải được tổ chức công khai,
với sự hiện diện của các nhân chứng và các điều kiện khác vốn có thể khác nhau
theo thời gian, nhưng điều này không tách ra khỏi sự thật là đôi bạn kết hôn là
các thừa tác của bí tích. Điều này cũng không ảnh hưởng đến tính trọng tâm của
sự đồng thuận đã được
người nam và người nữ thực hiện, tính trọng tâm mà tự thân nó tạo nên mối dây
liên kết bí tích. Điều này đã được nói đến, cần có một sự suy tư xa
hơn về hành động của Thiên Chúa trong
nghi thức hôn nhân; điều này rõ ràngđược thể hiện trong các Giáo Hội Phương
Đông ngang qua tầm quan trọng của phúc lành mà đôi bạn lãnh nhận như là một dấu chỉ của ơn ban của
Thần Khí.
76.
“Tin Mừng về gia đình cũng nuôi dưỡng những hạt
giống vẫn đang chờ đợi để mọc lên, và phục vụ như là nền tảng cho sự chăm sóc
những cây đang tàn úa và phải không được phớt lờ”.73 Do đó, xây dựng trên ơn ban của Đức Kitô trong bí tích, các đôi bạn kết hôn, “có thể được dẫn
dắt cách nhẫn nại đi xa hơn nữa để đạt được một sự nắm bắt sâu hơn và một sự
tháp nhập trọn vẹn hơn của mầu nhiệm này trong đời sống của họ”74
77. Được cuốn hút đến giáo huấn của Kinh
Thánh là tất cả mọi sự đều được tạo dựng qua Đức Kitô và vì Đức Kitô (x. Cl 1:16), các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “trật tự ơn cứu chuộc khai sáng và chu toàn việc
tạo dựng ấy. Do đó, hôn nhân tự nhiên được hiểu cách đầy đủ dưới ánh sáng của sự
thành toàn của nó trong bí tích Hôn Nhân: chỉ trong việc chiêm ngắm Đức Kitô mà
người ta nhận biết được sự thật thẳm sâu nhất về các mối quan hệ con người. ‘Chỉ
trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể mà mầu nhiệm con người mặc lấy ánh sáng.. Đức
Kitô, A-đam mới, qua
việc mạc khải mầu nhiệm về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, mạc khải trọn vẹn về chính Ngài cho
con người và làm cho lời mời gọi tối thượng của Ngài trở nên rõ
ràng’ (Gaudium et Spes, 22). Thật đặc
biệt hữu ích để hiểu theo chìa khoá trọng tâm Kitô... sự giàu có của các đôi vợ chồng (bonum
coniugum)”,75 điều vốn bao gồm cả
sự hiệp nhất, sự mở ra cho sự sống, sự trung thành, sự bất khả phân ly và,
trong hôn nhân Kitô Giáo, sự hỗ trợ lẫn nhau trên con đường hướng tới tình bạn hoàn hảo với Thiên Chúa. “Sự biện phân về sự hiện diện
của ‘hạt giống Lời Chúa’ trong các nền văn hoá khác (x. Ad Gentes, 11) cũng có
thể áp dụng cho thực tại của hôn nhân và gia đình. Ngoài hôn
nhân tự nhiên thực sự, thì các yếu tố tích cực tồn tại trong các hình thức hôn
nhân được thấy ở các tôn giáo khác”,76 ngay cả khi, đôi khi, cách mập mờ.
Chúng ta có thể sẵn lòng nói rằng “bất cứ ai muốn đem vào trong thế giới này một gia đình dạy con mình biết phấn khích trước mọi cử chỉ nhằm vượt thắng
sự dữ - một gia đình cho thấy rằng Chúa Thánh Thần đang sống và đang hoạt động – sẽ
gặp gỡ lòng biết ơn
của chúng ta và sự trân trọng của chúng ta. Bất luận là họ thuộc về dân tộc
nào, tôn giáo nào hay khu vực nào!”77
78. “Ánh sáng của
Đức Kitô soi sáng cho mọi người (x. Ga 1:9; Gaudium et Spes, 22). Việc nhìn mọi sự bằng đôi mắt của Đức Kitô sẽ thúc đẩy cho
việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội dành cho người tín hữu là những người đang sống
cùng nhau, hoặc chỉ kết hôn dân sự, hoặc ly hôn hoặc tái hôn. Theo phương pháp
sư phạm thánh thiêng này, bằng tình yêu Giáo Hội hướng đến những người dự
phần vào đời sống của Giáo Hội bằng theo một cách bất toàn: Giáo Hội tìm kiếm ân sủng hoán cải cho họ; Giáo Hội khích lệ họ làm điều tốt, quan tâm yêu thương đến nhau
và phục vụ cộng đồng mà họ đang sống và làm việc trong đó... Khi một đôi bạn
trong tình trạng hiệp nhất bất thường đạt tới một sự ổn định
đáng kể ngang qua một mối dây liên kết công khai – và được nhận biết bởi tình cảm sâu đậm,
trách nhiệm đối với con cái và khả năng vượt thắng những thử thách – thì điều này có thể
được coi như một cơ hội, khi có thể, để dẫn họ đến tới việc cử hành Bí Tích Hôn
Nhân”.78
79. “Khi đối diện
với những hoàn cảnh khó khăn và các gia đình bị thương
tích, thì luôn luôn cần thiết để gợi nhắc lại nguyên tắc chung này:
‘Các mục tử phải biết rằng, vì sự thật, họ buộc phải thi hành một
sự biện phân hoàn cảnh cách kĩ càng’ (Familiaris Consortio, 84). Mức độ
trách nhiệm không phải như nhau trong mọi trường hợp và các yếu tố có thể tồn tại
vốn giới hạn khả năng đưa ra quyết định. Do đó, mặc dù đưa ra giáo huấn của
Giáo Hội cách rõ ràng, nhưng các muc tử cần tránh đưa ra
phán quyết mà không suy xét đến tính phức tạp của nhiều hoàn cảnh khác nhau, và
các mục tử phải chú tâm, bằng sự cần thiết, đến cách người dân kinh nghiệm và
chịu đựng nỗi buồn khổ vì hoàn cảnh của họ”.79
VIỆC THÔNG TRUYỀN
SỰ SỐNG VÀ NUÔI DẠY CON CÁI
80. Hôn nhân trước hết là một “một sự gắn kết
gần gũi về sự sống và tình yêu”80 vốn tốt lành cho chính đôi bạn,81 trong khi tình dục được “đặt trong trật tự của tình yêu vợ chồng của người nam và người nữ”.82 Theo đó “các đôi bạn mà Thiên Chúa không ban cho con cái có thể có một đời
sống vợ chồng với trọn vẹn ý nghĩa, cả về mặt con người và Kitô
Giáo”.83 Tuy nhiên, sự hiệp nhất vợ chồng được sắp đặt cho sự sinh sản “theo bản chất rất tự
nhiên của nó”.84 Con
cái được sinh ra “không
xuất phát từ bên ngoài như là một điều gì đó thêm vào đối với tình
yêu dành cho nhau của đôi bạn, mà xuất phát từ
trung tâm của sự trao hiến cho nhau, như là hoa trái và sự thành toàn của
việc ấy”.85 Con cái không xuất hiện ở cuối một tiến trình, mà hiện diện ngay từ
thuở ban đầu của tình yêu như là một nét đặc trưng thiết yếu, một sự hiện diện
không thể bị chối bỏ mà không làm méo mó chính tình yêu ấy. Từ
bên ngoài, tình yêu khước từ mọi động cơ để khép kín ở nơi chính nó; nó
mở ra cho một sự sinh hoa trái vốn cuốn hút nó vượt ra khỏi chính nó. Do đó
không một hành vi vợ chồng nào của người chồng và người vợ có thể
chối bỏ ý nghĩa này,86 ngay cả khi vì nhiều lý do khác nhau trong thực tế nó có thể không
sinh ra một sự sống mới.
81. Một người con xứng đáng được sinh ra bởi tình
yêu ấy, chứ không phải bởi bất kì một phương tiện nào khác, vì “một người con không phải là
một món nợ đối một người, mà là một quà tặng”,87 vốn là “hoa trái của một
hành vi cụ thể thuộc tình yêu vợ chồng của cha mẹ”.88Đây là vấn đề
bởi vì, “theo trật tự tạo dựng, tình yêu vợ chồng giữa một người nam và người
nữ, và sự thông truyền sự sống được
sắp đặt cùng nhau (x. St 1:27-28). Do đó Đấng Tạo Dựng tạo nên người nam và người
nữ thông phần vào công trình sáng tạo của Ngài và, đồng thời, làm cho họ trở thành khí cụ của tình
yêu của Ngài, uỷ thác cho họ trách nhiệm đối với tương lai của nhân loại,
ngang qua việc thông truyền sự sống con người”.89
82.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng chỉ ra rằng “sự phát
triển của một não trạng làm giảmviệc tạo nên sự sống con người thành một
tuỳ chọn của một cá nhân hoặc kế hoạch của một cặp vợ là rõ ràng”.90 Giáo huấn của Giáo Hội
là nhằm “giúp cho các đôi
bạn cảm nghiệm một cách toàn vẹn, hoà hợp và ý thức về sự hiệp thông của họ trong tư cách là
chồng và là vợ, cùng có trách nhiệm đối
với việc tạo nên sự sống. Chúng ta cần trở lại thông điệp của Thông Điệp Humanae
Vitae của Chân Phúc Phaolô VI, vốn nhấn
mạnh đến sự cần thiết phải tôn trọng phẩm giá con người xét về mặt luân lý
trong việc đánh giá các phương pháp kiểm soát sinh nở... Chọn lựa
làm cha mẹ nuôi hoặc dưỡng
dục cũng có thể thể
hiện sự sinh hoa trái ấyvốn là một nét đặc trưng của đời sống kết hôn”.91 Với một lòng biết ơn
đặc biệt Giáo Hội
“hỗ trợ các gia đình đang chấp nhận, nuôi dạy và bao bọc bằng lòng trìu mến con
cái mang nhiều khuyết tật khác nhau của họ”.92
83. Ở đây tôi cảm
thấy khẩn thiết để nói rằng, nếu gia đình là một nơi
thánh thiêng của sự sống, nơi mà sự sống được tiếp nhận và chăm sóc, thì thật là trái
khuấy cách khủng khiếp khi
gia đình trở thành một nơi mà sự sống bị chối bỏ và huỷ diệt. Giá trị của sự
sống một con người là quá lớn lao, và quá bất khả xâm phạm là quyền được sống của một đứa trẻ vô tội
đang lớn lên trong cung lòng mẹ, đến nỗi không một quyền giả định nào dành cho thân xác của con người có thể biện minh cho một quyết định loại bỏ sự sống ấy, sự
sống vốn kết thúcnơi chính nó và sự sống vốn không
bao giờ có thể được coi là một “tài sản” của
một con người nhân
loại khác. Gia đình bảo vệ sự sống con người trong tất cả mọi giai đoạn của nó,
bao gồm cả giai đoạn cuối cùng. Do đó, “những người đang công tác trong các lãnh vực y
tếđược nhắc nhớ về bổn phận luân lý của sự từ chối theo lương tâm. Tương tự, Giáo Hội không chỉ cảm thấy sự khẩn thiết để khẳng định
quyền được chết tự nhiên, mà không có việc điều trị thái quá hoặc an tử”, nhưng cùng một trật “mạnh mẽ chối bỏ án tử hình”.93
84.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng mong muốn nhấn mạnh
rằng “một trong những thách đố nền tảng mà các gia đình
ngày nay đang đối diện
không còn hoài nghi gì nữa là thách đố về việc nuôi dạy con
cái, lại còn khó và phức tạp hơn nữa bởi thực tại văn hoá của thời đại
và sự ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền thông”.94 “Giáo Hội nắm giữ một
vai trò quan trọng trong việc cổ võ các
gia đình, bắt đầu
bằng việc gia nhập Kitô Giáo, qua sự đón tiếp vào các cộng đoàn”.95 Đồng thời tôi cảm thấy thật quan trọng để
nhắc lại rằng việc giáo dục con cái toàn diện là một “nghĩa vụ nghiêm trọng
nhất” và đồng thời là một “quyền chính yếu” của
các bậc cha mẹ.96 Đây
không chỉ là một nhiệm vụ hay một gánh nặng, mà là một quyền thiết yếu và bất khả
xâm phạm mà các bậc cha mẹ được mời gọi để bảo vệ và quyền mà không một ai có
thể tuyên bố được tước khỏi họ. Nhà Nước mang lại những chương trình giáo dục theo nghĩa bổ trợ, hỗ trợ cá gia đình
trong vai trò không thể khước từ của họ; chính các bậc cha mẹ vui hưởng
quyền để tự do chọn
lựa loại hình giáo dục – được tham gia và có chất lượng tốt – điều mà họ muốn mang lại cho con cái của
họ theo đúng những xác tín của họ. Các trường học không thay thế được cha mẹ,
mà bổ trợ cho họ. Đây là một nguyên tắc căn bản: “tất cả mọi người
tham gia khác vào trong tiến trình giáo dục chỉ có thể thực thi
các trách nhiệm của họ thay mặt cha mẹ, với sự đồng thuận của họ và, đến một mức độ
nhất định, với sự trao quyền của họ”.97 Tuy nhiên, “một
vết rạn nứt đã mở ra giữa gia đình và xã hội,
giữa gia đình và nhà trường;
hiệp ước giáo dục ngày nay đã bị phá vỡ và do đó sự đồng hành giáo dục giữa xã hội và
gia đình đang gặp khủng hoảng”.98
85. Giáo Hội được
mời gọi để cộng tác
với các bậc cha mẹ ngang qua những sáng kiến mục vụ thích hợp, hỗ trợ họ
trong việc chu toàn sứ mạng giáo dục của họ. Giáo Hội phải luôn thực hiện điều
này bằng việc trợ giúp họ trân trọng vai trò đúng đắng của họ và nhận ra rằng bằng việc tiếp nhận của
họ trước bí tích hôn nhân họ trở thành những thừa tác viên của việc giáo dục
con cái họ. Trong việc giáo dục con cái, họ xây dựng Giáo Hội,99 và trong khi làm như thế, họ chấp nhận
một ơn gọi do Thiên
Chúa ban tặng.100
GIA
ĐÌNH VÀ GIÁO HỘI
86.
“Với niềm vui nội tâm và sự an ủi sâu sắc, Giáo Hội nhìn đến các gia đình đang trung thành với các giáo huấn của Tin Mừng, khích lệ họ và cám hơn họ vì chứng tá mà họ mang lại. Vì họ làm chứng, một cách đáng tin cậy, cho vẻ đẹp của hôn nhân là bất khả
phân ly vàtrung thành vĩnh viễn. Trong gia đình ‘vốn
cố thể được gọi là giáo hội tại gia’ (Lumen Gentium, 11), các cá nhân đi
vào một sự cảm nghiệm mang tính giáo hội về sự hiệp thông giữa các nhân vị, ngang qua ân sủng,
vốn phản ánh mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh. ‘Ở đây người ta học cách chịu
đựng và niềm vui công việc, tình yêu huynh đệ, sự tha thứ quảng đại– ngay cả lặp đi
lặp lại, và trên hết là sự thờ phượng trong cầu nguyện và việc trao ban chính mạng
sống của bản thân’ (Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 1657)”.101
88. Giáo Hội là một gia đình của các gia đình, liên lỉ được làm cho phong phú bởi đời sống của tất cả các giáo hội tại gia. “Trong khuôn khổ bí
tích hôn nhân, mọi gia đình trở thành, cách hữu hiệu, một
tài sản đối với Giáo Hội. Từ quan điểm này, việc
suy tư về mối tương quan qua lại giữa gia đình và Giáo Hội sẽ cho thấy một
quà tặng quý giá dành cho Giáo Hộitrong thời đại chúng ta. Giáo Hội thì tốt cho gia đình, và gia đình thì tốt cho
Giáo Hội. Việc bảo vệ quà tặng của Thiên Chúa trong bí tích hôn nhân là một mối
bận tâm không chỉ của cá nhân các gia đình mà còn của
toàn thể cộng đồng Kitô Giáo”.102
88.
Kinh nghiệm về tình yêu trong gia đình là một nguồn sức mạnh
vĩnh cựu cho đời sống của Giáo Hội. “Mục
tiêu hiệp nhất của hôn nhân là một lệnh truyền liên lỉ để làm cho tình yêu này lớn mạnh và đào
sâu. Qua sự hiệp nhất của họ trong tình yêu, đôi bạn cảm
nghiệm được vẻ đẹp của tình cha và tình mẹ, và chia sẻ những kế
hoạch, những thử thách, những mong đợi và những bận tâm; họ học cách
chăm sóc nhau và
tha thứ cho nhau. Trong tình yêu này, họ vui vầy với những thời điểm hạnh phúc và hỗ trợ nhau trong hững
đoạn đường khó khăn của đời sống chung của họ... Vẻ đẹp của quà tặng dành cho
nhau và nhưng không này, niềm vui vốn xuất phát từ một sự sống được sinh ra và
sự chăm sóc đầy yêu thương của mọi thành viên trong gia đình – từ các em bé đến người lớn – chỉ là một vài hoa
trái làm cho sự đáp trả lại trước ơn gọi gia đình là độc nhất và không thể thay thế”,103 cả đối
với Giáo Hội và
toàn thể xã hội.
Giuse
Phạm Duy Cường - Dịch Giả Thông Điệp Laudato Si' (Bản chính thức của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam)
51. Ibid., 164:
AAS 105 (2013), 1088.
52. Ibid.
53. Ibid., 165:
AAS 105 (2013), 1089.
54. Relatio
Synodi 2014, 12.
55. Ibid., 14.
56. Ibid., 16.
57. Relatio
Finalis 2015, 41.
58. Ibid., 14
59. Relatio
Synodi 2014, 17.
60. Relatio
Finalis 2015, 43.
61. Relatio
Synodi 2014, 18.
62. Ibid., 19.
63. Relatio
Finalis 2015, 38.
64. Gioan
Phaolô II, Tông Huấn Familiaris
Consortio (22/11/1981), 13: ASS 74 (1982), 94.
65. Relatio
Synodi 2014, 21.
66. Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo,
1642.
67. Ibid.
68. Giáo Lý
(06/05/2015): L’Osservatore Romano, 07/05/2015, tr.8.
69. Thánh Lê-ô
Cả, Epistula Rustico
Narbonensi Episcopo, Inquis. IV: PL 54, 1205A; x. Hincmar of Rheims,
Epist. 22: PL 126, 142.
70. x. Đức Pi-ô
XII, Thông Điệp Mystici
Coroporis Christi (29/07/1943): ASS 35 (1943), 202: “Matrimonio enim quo coniuges sibi invicem sunt ministri gratiae …”
71. x. Bộ Giáo Luật, cc.
1116; 1161-1165; Bộ Giáo Luật Của Giáo Hội Phương Đông, 832; 848-852
72. Ibid., c.
1055 §2.
73. Relatio
Synodi 2014, 23.
74. Gioan
Phaolô II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22/11/1998), 9: ASS 74 (1982), 90.
75. Relatio
Finalis 2015, 47.
76. Ibid.
77.
Bài giảng Thánh Lễ Bế Mạc Đại Hội Thế Giới
Gia Đình tại Philadelphia Lần Thứ 8 (27/09/2015): L’Osservatore Romano, 28-29/092015, tr.
7.
78. Relatio Finalis 2015,
53-54.
79. Ibid., 51.
80.
Công Đồng Đại Kết Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội
trong Thế Giới Hiện
Đại Gaudium et Spes, 48.
81. x. Bộ Giáo Luật, c. 1055
§ 1: “ad bonum coniugum atque ad prolis generationem et educationem ordinatum”.
82. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo,
2360.
83. Ibid.,
1654.
84.
Công Đồng Đại Kết Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội
trong Thế Giới Hiện
Đại Gaudium et Spes, 48.
85. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo,
2360.
86. x. Phaolô VI, Thông Điệp Humanae Vitae (25/07/1968),
11-12: AAS 60 (1978), 488-489
87. Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo, 2378.
88. Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae (22/01/1987),
II, 8: AAS 80 (1988), 97.
89. Relatio
Finalis 2015, 63.
90. Relatio
Synodi 2014, 57.
91. Ibid., 58.
92. Ibid., 57.
93. Relatio
Finalis 2015, 64.
94. Relatio
Synodi 2014, 60.
95. Ibid., 61
96. Bộ Giáo Luật,
c. 1136; x. Bộ Giáo Luật của Giáo Hội Đông Phương, 627.
97. Hội Đồng
Giáo Hoàng về Gia Đình, Sự
Thật và Ý Nghĩa của Tính Dục
Con Người (08/12/1995), 23.
98. Bài Giáo Lý
(20/05/2015: L’Osservatore Romano, 21/05/2015, tr.8.
99. Gioan
Phaolô II, Tông Huấn Familiaris
Consortio (28/11/1981) 38:
ASS 74 (1982), 192.
100. x. Diễn Văn trước Đại Hội Cấp Giáo
Phận Rôma (14/07/2015): L’Osservatore Romano, 15-16/06/2016, tr.8.
101. Relatio
Synodi 2014, 23.
102. Relatio
Finalis 2015, 52.
103. Ibid.,
49-50.