Tông Huấn Amoris Laetitia - Chương Bốn: Đức Mến Trong Hôn Nhân (Số
89-164)
89. Tất cả mọi điều đã được nói cho đến bây giờ vẫn chưa đủ để
diễn tả Tin Mừng của hôn nhân và gia đình, cũng chưa đủ để nói về đức mến. Vì chúng ta không thể khích lệ một conđường của sự trung
thành và việc trao ban bản thân cho nhau mà không khích lệ sự phát triển, củng
cố và đào sâu bác ái vợ chồng và gia đình. Thực ra, ân sủng của
bí tích hôn nhân là có ý trước hết “để làm hoàn thiện tình
yêu của đôi bạn”.104 Ở đây chúng ta cũng có thể nói rằng, “giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí
nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà
không có đức mến,
thì tôi cũng chẳng là gì. Giả
như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu
thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”
(1 Cr 13:2-3). Tuy nhiên,
từ đức mến thường được sử dụng và thường là bị dùng sai.105
ĐỨC
MẾN HẰNG
NGÀY CỦA CHÚNG TA
90. Trong bài
ca của Thánh Phaolô, chúng ta thấy một số đặc tính của đức mến
đích thực:
Đức
mến thì nhẫn nhục,
hiền hậu,
không ghen tương,
không vênh
vang,
không tự đắc,
không làm điều
bất chính,
không
tìm tư lợi,
không nóng giận,
không nuôi hận
thù,
không mừng khi
thấy sự gian ác,
nhưng vui khi
thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ
tất cả,
tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả,
chịu đựng tất cả. (1 Cr 13:4-7).
Đức mến được cảm
nghiệm và nuôi dưỡng trong đời sống hằng ngày của đôi bạn và con cái của họ. Thật
hữu ích để nghĩ sâu hơn về ý nghĩa của bản văn này của Thánh Phaolô và sự thích
hợp của bản văn này cho hoàn cảnh của mỗi gia đình.
Đức
mến thì nhẫn nhục
91. Từ đầu tiên
được sử dụng là makrothyméi. Từ này không chỉ đơn giản có liên quan
đến “chịu đựng tất cả”, bởi vì chúng ta thấy rằng ý tưởng
được thể hiện ở cuối câu bảy. Ý nghĩa của nó được làm rõ bởi bản
dịch tiếng Hy Lạp của Kinh Thánh Cựu Ước,
nơi mà chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa thì “chậm giận” (Xh 34:6; Ds 14:18). Do đó, nó
nói đến phẩm chất của một người không hành động theo xung năng và tránh gây xúc
phạm. Chúng ta thấy phẩm chất này ở nơi Thiên Chúa của Giao Ước, Đấng kêu gọi chúng
ta bắt chước Ngài ngay trong đời sống gia đình. Bản văn của
Thánh Phaolô sử dụng từ này cần phải được đọc dưới ánh sáng của Sách Khôn Ngoan
(x. 11:23; 12:2, 15-18), là đoạn đề cao sự kiềm chế của Thiên Chúa, khi để mở
ra khả năng hoán cải, nhưng khẳng định sức mạnh của Ngài, như đãđược
tỏ lộ trong các hành động thương xót của Ngài. “Sự nhẫn nại” của Thiên Chúa, được
thể hiện trong lòng thương xót của Ngài dành cho các tội
nhân, là một dấu chỉ của sức mạnh thực sự của Ngài.
92. Nhẫn nại
không có nghĩa là để cho bản thân mình liên tục bị đối xử tệ, chịu đựng sự gây hấn về thể
lý hoặc để cho người khác lợi dụng chúng ta. Chúng ta sẽ gặp các vấn đề bất cứ khi nào chúng ta
nghĩ rằng các mối quan hệ hoặc con người cần phải hoàn hảo, hoặc khi chúng ta đặt
bản thân chúng ta vào trung tâm và mong đợi mọi thứ tuân theo cách của chúng
ta. Do đó mọi thứ làm cho chúng ta mất kiên nhẫn, mọi thứ làm cho chúng ta phản
ứng một cách nóng nảy. Trừ khi chúng ta nuôi dưỡng sự nhẫn nại, còn không thì chúng ta sẽ luôn tìm những lời biện minh cho sự đáp trả nóng nảy của mình.
Chúng ta sẽ mang lấy kết cục là không thể sống cùng nhau, chống lại xã hội,
không thể kiểm soát được
các xung năng của chúng ta, và gia đình của chúng ta trở thành
bãi chiến trường. Đó là lý do vì sao mà lời của Thiên
Chúa nói với chúng ta: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng,
nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep
4:31). Sự nhẫn nại bén rễ
khi chúng ta nhận biết rằng người khác cũng có quyền được sống trong thế giới
này, như họ là. Sẽ không thành vấn đề nếu họ kìm tôi lại, nếu họ
không ủng hộ các kế hoạch của tôi, hay quấy rầy tôi bởi cách mà họ hành động
hay suy nghĩ, hoặc nếu họ không phải là mọi điều mà tôi muốn họ là. Đức ái luôn có một khía cạnh của
lòng thương cảm sâu xa dẫn đến việc chấp nhận người khác như là một phần
của thế giới này, ngay cả khi người ấy hành động khác so với tôi muốn.
Đức mến là
phục vụ người khác
93.
Từ kế tiếp mà Thánh Phaolô sử dụng là chrestéuetai. Từ này chỉ được sử dụng ở đây trong toàn
bộ Kinh Thánh. Nó xuất phát từ từ chrestós: một người tốt, một người thể hiện sự
tốt lành của mình ngang qua hành động của mình. Ở đây, theo một sự song hành nghiêm ngặt
với động từ theo nó, thì nó đóng vai trò là một bổ
ngữ. Thánh Phaolô muốn làm rõ rằng “nhẫn nại” không hoàn toàn là một thái độ mang tính bị động, mà là một thái độ
được đồng hành bởi một hoạt động, bởi một sự tương tác năng động và sáng tạo với
người khác. Từ này chỉ ra rằng đức mến thì mang lại lợi ích và trợ giúp cho người khác. Vì lý do này mà nóđược dịch là “hiền hậu”; đức mến luôn luôn sẵn sàng để trợ giúp.
94. Trong toàn
bộ bản văn, thật rõ ràng là Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh rằng đức mến thì hơn cả một tình cảm đơn thuần.
Hơn thế, nó cần được hiểu theo đúng với động từ Híp-ri “yêu”; có nghĩa là “làm
điều tốt”. Như Thánh I-nha-xi-ô Loyola đã nói, “Đức mến
được thể hiện bằng hành động nhiều hơn là bằng lời nói”.106 Do đó nó cho thấy hoa trái của nó và
giúp cho chúng ta cảm nghiệm được niềm hạnh phúc của việc cho đi, sự cao quí và
sự cao cả của việc cho đi bản thân mình một cách không tiếc, không
đòi hỏi phải được
đáp trả, thuần tuý vì niềm vui của việc cho đi và phục vụ.
Đức mến thì không ghen
tương
95.
Thánh Phaolô tiếp tục chối bỏ thái độ trái nghịch với đức mến được diễn
tả bởi động từ zelói – ghen tương hay đố kị. Điều này có nghĩa là đức mến không
có chỗ cho sự bối rối trước vận may của người khác (x. Cv 7:9; 17:5). Ghen tị
là một hình thức của sự buồn được gợi lên bởi sự thịnh đạt của người
khác; nó cho thấy rằng chúng ta không hài lòng vì hạnh phúc của
người khác nhưng chỉ hài lòng với sự thịnh vượng của chính mình. Như đức mến làm cho chúng ta vượt lên trên chính mình thế nào, thì sự ghen tị lại nhốt chúng ta ở nơi chính mình như
vậy. Đức mến đích thực sẽ tôn trọng những
thành tựu của người khác. Nó nhận biết rằng mỗi người có khả năng riêng và có
con đường độc nhất trong cuộc sống. Vì thế nó nỗ lực để
khám phá ra con đường đi đến hạnh phúc của nó, trong khi để cho người khác tìm kiếm hạnh phúc của họ.
96.
Tắt một lời, đức mến có nghĩa là chu toàn hai giới
răn cuối cùng của Giới Luật của Thiên Chúa: “Ngươi không
được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ,
con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta" (Xh 20:17). Đức
mến khơi gợi một sự tôn trọng chân thành dành cho mọi người và sự nhận biết về
quyền được hạnh phúc của họ. Tôi mến người này, và tôi nhìn
người này bằng đôi mắt của Thiên Chúa, Đấng trao ban cho chúng ta mọi sự
“cho chúng ta hưởng dùng” (1 Tm 6:17). Do đó, tôi cảm thấy một cảm thức sâu thẳm
về hạnh phúc và bình an. Cùng một đức mến bén rễ sâu xa này cũng dẫn tôi
đến chỗ khước từ sự bất công mà từ đó một số người sở hữu quá nhiều và những
người khác lại quá ít. Nó thúc đẩy tôi tìm cách cách thế để trợ giúp những người bên lề của xã hội tìm thấy được
một chút niềm vui. Đó không phải là sự ghen tị, mà là lòng muốn
bình đẳng.
Đức
mến thì không
vênh vang
97.
Từ kế tiếp, perpereúetai, nói đến sự hư vinh, sự cần thiết phải
kiêu căng, mô phạm, và một cách nào đó là tự cao. Những người có đức mến thì không chỉ thoát ra
khỏi việc nói quá nhiều về chính bản thân họ, mà lại tập trung vào người
khác; họ không cần phải là trung tâm của sự chú ý. Từ kế tiếp xuất hiện
– physioútai – thì tương tự, cho thấy rằng đức mến thì không kiêu ngạo.
Theo nghĩa đen, nó có
nghĩa là chúng ta không trở nên “nổi trội” trước mặt người khác. Nó cũng nói đến
một điều gì đó
tinh tế hơn: một sự ám ảnh với việc thể hiện hoặc một sự mất cảm thức về thực tại.
Những người như thế này nghĩ rằng, vì họ “tinh thần” hay “khôn
ngoan” hơn, nên họ quan trọng hơn họ thực sự là. Phaolô dùng động
từ này ở những dịp khác, như khi Ngài nói rằng “sự hiểu biết sinh lòng kiêu ngạo”, trong khi “bác ái thì xây dựng” (1 Cr 8:1). Một số người
nghĩ rằng họ quan trọng bởi vì họ hiểu biết hơn người
khác; họ muốn tôn nó làm chúa của họ. Nhưng điều thực sự làm cho
chúng ta quan trọng là một đức
mến thì hiểu
biết, thể hiện sự quan tâm, và ôm lấy người yếu đuối. Ở nơi khác từ này được sử
dụng để phê bình những người “bị phồng lên” bởi tầm quan
trọng của riêng họ (x. 1 Cr 4:18) nhưng thực ra lại bị lấp đầy nhiều bởi những
lời sáo rỗng hơn là “sức mạnh” thực sự của Thần Khí (x. 1 Cr 4:19).
98. Thật là
quan trọng đối với các Kitô Hữu để thể hiện đức mến của họ ngang qua cách mà họ
đối xử với các thành viên của gia đình họ là những người
ít hiểu biết hơn về đức tin, yếu đuối hoặc ít chắc chắn hơn trong các niềm xác
tín của họ. Đôi khi điều ngược lại xảy ra: những người tin cho là trưởng thành
trong gia đình lại trở nên kiêu ngạo cách không thể chịu nổi. Đức mến, trái lại, được đánh dấu bằng
sự khiêm nhường; nếu chúng ta hiểu, tha thứ và phục vụ người khác bằng trái
tim, thì sự kiêu ngạo của chúng ta phải được chữa lành và sự khiêm nhường của
chúng ta phải gia tăng. Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Ngài rằng trong một
thế giới mà quyền lực vốn thắng thế, thì mỗi người nỗ lực để thống trị người khác, nhưng “giữa anh
em thì không được
như vậy” (Mt 20:26). Luận lý nội tại của đức mến Kitô Giáo không phải là về tầm
quan trọng hay quyền lực; thay vào đó, “ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ
anh em” (Mt 20:27). Trong
đời sống gia đình, luận lý của sự thống lĩnh và cạnh tranh về người
nào thông minh hay quyền thế nhất sẽ huỷ diệt tình yêu. Lời
khuyên dạy của Thánh Phêrô cũng áp dụng cho gia đình: “anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống
lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5:5).
Đức
ái thì không
lỗ mãn
99. Yêu mến có
nghĩa là dịu dàng và biết nghĩ, và điều này được truyền tải bởi từ kế tiếp,aschemonéi. Nó
cho thấy rằng đức mến thì không lỗ mãn hay bất lịch sự; nó không cay nghiệt. Các hành
động, lời nói, cử chỉ của đức mến là làm hài lòng chứ không phải
là vô cảm và khô cứng. Đức
mến loại trừ việc làm cho người khác đau khổ. Sự lịch lãm “là một
trường dạy về sự nhạy bén và sự quên mình” vốn đòi hỏi người ta
“phải phát triển tư tưởng và cảm nhận của họ, học cách lắng nghe, nói và đôi
khi, biết thinh lặng”.107 Đó
không phải là điều gìđó mà một người Kitô Hữu phải chấp
nhận hay chối từ. Như là một đòi hỏi của tình yêu, “mọi người
đều buộc phải sống hoà thuận với những người quanh mình”.108 Mỗi ngày, “đi vào đời sống của người
khác, ngay cả khi người ấy đã có một phần quan trọng trong cuộc
sống của chúng ta, vẫn đòi hỏi sự nhạy bén và kiềm chế vốn có thể làm đổi mới sự tin tưởng và tôn trọng. Thực
ra, một đức mến sâu đậm là, nó mời gọi sự tôn trọng nhiều hơn nữa dành cho sự tự
do của người khác và khả năng biết đợi chờ cho đến khi người khác mở cửa tâm hồn
của họ ra”.109
100. Để mở ra một
cuộc gặp gỡ đúng đắn với người khác, “một cái nhìn tử tế” là
thiết yếu. Điều này không tương thích với một thái độ tiêu cực vốn sẵn sàng chỉ
ra những khuyết điểm của người khác trong khi lại coi thường khuyết điểm bản
thân. Một cái nhìn tử tế sẽ giúp chúng ta biết nhìn vượt
ra khỏi những giới hạn bản thân chúng ta, biết nhẫn nại và hợp tác với người khác, bất chấp những khác biệt của chúng ta. Sự tử tế đầy bác ái thì
xây dựng những mối liên kết, nuôi dưỡng các mối quan hệ, tạo nên những mạng
lưới hội nhập mới và đan dệt nên một kết cấu xã hội. Bằng cách
này, sự tử tế phát triển còn mạnh hơn nữa, vì không có một
cảm thức thuộc về chúng ta không thể nuôi dưỡng một sự dấn thân cho người
khác; chúng ta mang lấy kết cục là tìm kiếm sự an nhàn của mình mà thôi và cuộc sống chung
trở nên không thể. Những
người không cởi mở nghĩ rằng người khác tồn tại vì sự thoả mãn
những nhu cầu của riêng họ. Do đó,
không có chỗ cho sự dịu dàng của tình yêu và sự thể hiện của
tình yêu. Những người có đức
mến sẽ biết nói những lời ủi an, củng cố, động viên, và khích lệ. Đây là những
lời mà chính Chúa
Giêsu đã
nói: “Này con, cứ yên tâm” (Mt 9:2); "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật”
(Mt 15:28); “Trỗi dậy đi!” (Mc 5:41); “Hãy đi bình an” (Lc 7:50);
“Đừng sợ” (Mt 14:27). Những lời này không phải là những lời
nịnh nọt, làm buồn lòng, làm nổi giận hay thể hiện sự nguyền rủa. Trong
gia đình của chúng ta, chúng ta phải học noi theo sự dịu dàng của
Chúa Giêsu trong cách nói của chúng
ta với người khác.
Đức
mến thì bao
dung
101. Chúng ta đã nói đi nói lại
rằng để yêu mến người khác chúng ta trước hết phải yêu chính bản thân mình. Tuy nhiên, bài ca đức mến của Phaolô cho thấy rằng
yêu mến “không tìm kiếm tư lợi”, cũng “không tìm kiếm điều gì là của riêng”.
Cùng một ý tưởng được thể hiện trong một bản văn khác: “Mỗi người đừng
tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm
lợi ích cho người khác” (Pl 2:4). Kinh Thánh làm rõ rằng
việc phục người khác cách quảng đại thì cao quý hơn là yêu chính bản thân mình. Yêu
bản thân chỉ quan trọng như một đòi hỏi về mặt tâm lý để biết yêu thương người khác mà thôi: “Xấu với bản thân thì tốt
với ai được?Ngay cả với tài sản của mình, nó cũng không được hưởng. Không ai tệ hơn kẻ làm hại
chính mình, và
đó là công trả cho sự gian ác của nó” (Hc 14:5-6).
102.
Thánh Tôma Aquinô giải thích rằng “sẽ thích hợp hơn đối với bác ái là lòng muốn yêu
thương hơn là lòng muốn được yêu thương”;110 thực ra, “các bà mẹ, là những người yêu thương nhiều nhất, tìm kiếm để yêu
thương hơn là để được yêu thương”.111 Kết quả là, đức mến có thể trổi vượt
và làm đầy tràn những đòi hỏi của công lý, “không mong nhận lại
gì” (Lc 6:35), và sự cao cả nhất của tình yêu có thể dẫn đến việc “hy sinh mạng sống
mình” vì người khác (x. Ga 15:13). Liệu có thể một sự quảng đại như thế,
vốn giúp chó chúng ta biết cho đi cách nhưng không và tròn đầy, là thực sự có thể không? Có, bởi vì Tin Mừng đòi hỏi điều này: “Anh em đã được cho không,
thì cũng phải cho không như vậy” (Mt
10:8).
Đức mến
không nóng giận, hay hận thù
103. Nếu lời đầu tiên của bài ca đức mến
của Phaolô nói về sự cần thiết đối với sự nhẫn nại
vốn không phản ứng ngay một cách lỗ mãn trước sự yếu đuối
và sai lỗi của người khác, thì từ kết tiếp Ngài dùng –
paroxýnetai – có liên hệ
nhiều hơn với một sự phẫn nộ nội tâm được gợi lên bởi một điều gì đó từ bên ngoài. Nó nói đến một sự phản
ứng bạo lực từ bên trong, một sự tức giận tiềm ẩn vốn làm cho chúng ta nổi giận
ở chỗ mà người khác có liên quan, như thể họ là một sự phiền toái hay một mối
đe doạ và do đó cần phải được tránh. Nuôi dưỡng sự thù nghịch nội tại này
sẽ chẳng giúp gì được ai.
Nó chỉ tạo nên sự tổn thương và xa cách. Nổi giận chỉ lành mạnh khi nó giúp
chúng ta phản ứng trước một sự bất công trầm trọng;
khí nó ngấm vào thái độ của chúng ta đến người khác thì thật là
nguy hại.
104.
Tin Mừng cho chúng ta biết cách nhìn vào đôi mắt của mình (x. Mt
7:5). Người Kitô Hữu không thể phớt
lờ lời khuyên dạy liên lỉ của lời Chúa về việc không nuôi dưỡng sự giận
dữ:“Đừng để cho sự ác thắng được mình” (Rm
12:21). “Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí” (Gl
6:9). Việc cảm thấy một làn
sóng thù nghịch là một lẽ, và bước vào đó, để cho nó bén rễ trong tâm hồn chúng
ta lại là một lẽ khác: “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn
giận vẫn còn” (Ep 4:26). Lời khuyên của tôi là đừng bao giờ để
một ngày trôi qua mà không làm hoà trong gia đình. “Và tôi sẽ
làm hoà bằng cách nào? Bằng cách quì gối xuống sao? Không! Chỉ bằng một cử chỉ
nhỏ, một điều nhỏ, và sự
hoà hợp bên trong gia đình bạn sẽ được khôi phục. Chỉ một sự âu yếm nhỏ,
không cần thiết phải nói lời nào. Nhưng đừng để cho một ngày trôi qua mà không
làm hoà trong gia đình bạn”.112 Phản ứng đầu tiêncủa
chúng ta khi chúng ta thấy bị phiền phải là một trong những phúc lành, xin
Thiên Chúa chúc lành, giải thoát và chữa lãnh người ấy. “Trái lại, hãy chúc
phúc, vì anh chị em được
Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc” (1 Pr
3:9). Nếu chúng ta phải chống lại sự dữ, thì hãy làm thế; nhưng chúng ta
phải luôn luôn nói “không” với bạo lực
trong gia đình.
105. Một khi chúng ta để cho ý muốn bệnh hoạn
bén rễ trong tâm hồn chúng ta, thì nó sẽ dẫn chúng ta đến sự hận thù sâu xa. Cụm từ ou logízetai to kakón có nghĩa là đức mến“không
biết đến sự dữ”; “đức mến thì không hận
thù”. Trái lại với sự hận thù là sự tha thứ, vốn bén rễ trong một thái độ
tích cực vốn tìm cách để
hiểu những yếu đuối của người khác và biện minh cho họ. Như Chúa Giêsu đã nói, "Lạy Cha,
xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Tuy nhiên chúng ta vẫn
tiếp tục tìm kiếm nhiều sai lỗi hơn nữa, hình dung ra những
sự dữ lớn lao hơn nữa, giả định đủ kiểu ý định xấu xa, và
vì thế lòng hận thù phát triển và bén rễ sâu. Do đó, mọi lầm lỗi hay sai trái về phía một đôi bạn có thể
gây nguy hại đến mối dây tình yêu và sự ổn định của gia đình. Một điều gì đó sai trái khi chúng ta thấy mọi vấn
đề là nghiêm trọng như nhau; theo đó, chúng ta sẽ có nguy cơ cay nghiệt cách bất
công với những vấp ngã của người khác.
Lòng muốn ngay chính để thấy
các quyền của chúng ta được tôn trọng biến thành một lòng khao
khát trả thù hơn là một sự
bảo vệ chính đáng cho phẩm giá của chúng ta.
106. Khi chúng
ta đã bị xúc phạm hoặc bị thất vọng, sự tha thứ là có thể
và chính đáng, nhưng không ai có thể nói rằng tha thứ là dễ cả. Sự thật là “sự hiệp thông
gia đình có thể chỉđược duy trì và làm cho
hoàn hảo ngang qua một tinh thần hy sinh cao cả. Thực ra, nó đòi hỏi một sự mở
ra sẵn sàng và đại lượng cho nhau và tất cả cho sự hiểu biết, cho sự kiềm chế,
sự tha thứ, sự hoà giải. Không có một gia đình nào lại không biết cách mà sự ích kỷ, sự bất hoà, sự căng
thẳng, sự mâu thuẫn tấn công cách tàn bạo thế nào và đôi khi làm tổn thương ghê
gớm chính sự hiệp thông của gia đình: từ đó xuất hiện nhiều và các hình thức chia rẽ khác nhau trong đời sống gia đình”.113
107.
Ngày nay chúng ta nhận biết rằng biết tha thứ cho người khác hàm chứa kinh nghiệm
giải thoát của sự hiểu biết và tha thứ cho người khác. Thường thì
các sai lỗi của chúng ta, hoặc sự chỉ trích mà chúng ta nhận được từ những
người thân yêu, có thể dẫn đến một sựmất lòng tự trọng. Chúng ta
trở nên xa cách người
khác, né tránh tình cảm
và sợ trong các mối quan quan hệ cá nhân. Đổ lỗi cho người khác cách sai trái trở
nên sự yên lòng. Chúng ta cần phải học cách cầu nguyện trên quá khứ của chúng ta, chấp nhận chính bản
thân chúng ta, học cách sống với những giới hạn của chúng ta, và thậm chí tha
thứ cho bản thân chúng ta, để có cùng một thái độ như thế đối với người khác.
108. Tất cả điều
này cho thấy rằng chính bản thân chúng ta đã có kinh nghiệm về việc đượcThiên Chúa tha thứ,
được công chính hoà bởi ân sủng của Ngài chứ không phải bởi công đức của chúng
ta. Chúng ta đã biết một tình yêu vốn có trước bất cứ một nỗ lực nào
của chúng ta, một tình yêu hằng luôn mở ra các cánh cửa, cổ võ
và khích lệ. Nếu chúng ta chấp nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa là vô điều kiện, rằng tình
yêu của Chúa Cha không thểmua hay bán được, thì chúng ta
sẽ trở nên biết thể hiện tình yêu bao la và tha thứ cho người khác ngay
cả khi họ đã làm điều
sai trái với chúng ta. Bằng không, đời sống gia đình chúng ta sẽ
không còn là một nơi của sự hiểu biết, hỗ trợ và khích lệ nữa, mà thay
vào đó là một nơi của căng thẳng thường trực và chỉ trích lẫn nhau.
Đức mến thì vui với người khác
109.
Cụm từ chaírei epì te adikía có liên hệ đến một sự tiêu cực ẩn giấu sâu bên
trong tâm hồn một người. Đó là một thái độ độc hại của những người vui mừng khi thấy điều bất công xảy ra với người khác. Kế tiếp là cụm từ diễn tả điều ngược lại: sygchaírei te aletheía:
“đức mến vui
trong điều thiện”. Nói
cách khác, chúng ta vui khi thấy điều tốt lành của người khác khi chúng ta thấy
phẩm giá của họ và tôn trọng các khả năng và những việc tốt lành của họ. Điều
này là không thể đối với những người luôn phải so sánh và cạnh tranh, ngay cả với
người bạn đời của mình, để họ âm thầm vui mừng
trong những thất bại của họ.
110. Khi một người có đức mến thực hiện điều
tốt cho người khác, hoặc nhìn thấy người khác hạnh phúc,
thì chính bản thân họ cũng sống hạnh phúc và bằng cách này làm
vinh quang Thiên Chúa, vì “ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr 9:7). Thiên Chúacủa chúng ta đặc biệt yêu mến những người
tìm niềm vui trong niềm hạnh phúc của người khác. Nếu
chúng ta không học được cách vui mừng trong sự tốt lành của người khác, và chỉ
tập trung vào những nhu cầu của chúng ta, thì chúng ta tự kết án
chính mình trước một sự hiện hữu không có niềm vui, vì,
nhưng Chúa
Giêsu nói, “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35). Gia đình phải
luôn luôn là một nơi mà, khi một điều gì đó tốt lành diễn ra cho một trong các
thành viên của mình, thì họ biết rằng người khác cũng sẽ ở
đó để cùng vui niềm vui ấy với họ.
Đức
mến tha thứ tất cả
111.
Danh mục của Phaolô kết thúc bằng bốn cụm từ chứa đựng những
từ “tất cả”.
Đức mếntha thứ tất
cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Ở đây chúng ta thấy rõ ràng sức mạnh phản văn
hoá của một đức mến vốn biết đối diện với bất cứ điều gì có thể đe doạ nó.
112. Trước hết, Phaolô nói rằng đức mến “tha thứ tất cả” (panta
stégei). Điều này còn hơn cả về việc chỉ đơn giản chịu đựng sự dữ; nó có liên hệ
đến việc sử dụng cái lưỡi. Động từ có thể mang nghĩa là “giữ lấy sự bình an của
bản thân” trước điều có thể
sai trái với người khác. Nó hàm chứa việc hạn chế xét đoán, rà soát động cơ trước khi đưa ra một lời kết án khô cứng
và tàn nhẫn: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị
Thiên Chúa xét đoán” (Lc 6:37). Mặc dù điều này trái ngược với cách mà bình thường chúng ta sử dụng miệng lưỡi chúng ta, lời Chúa dạy
chúng ta: “anh
em đừng nói xấu nhau” (Gc 4:11). Sẵn sàng nói xấu người
khác là một cách để khẳng định chính bản thân chúng ta, làm tuôn ra sự hận thù
và đố kị mà không quan tâm đến điều nguy hại mà chúng ta có thể thực hiện.
Chúng ta thường quên rằng thoá mạ có thể là một tội khá nặng; đó là một sự xúc
phạm nặng nề chống lại Thiên Chúa khi nó
làm tổn hại nghiêm trọng đến thanh danh của người khác và tạo nên một sự tổn hại thật khó để sửa chữa. Do đó lời của Thiên Chúa thẳng thắn khẳng định rằng cái lưỡi “là cả một thế giới của
sự ác” làm “cho toàn thân bị ô nhiễm” (Gc 3:6); nó là một “sự dữ không bao giờ ở
yên, vì nó chứa đầy nọc độc
giết người” (3:8). Như
cái lưỡi có thể được sử dụng để“nguyền rủa những con người
đã được làm
ra theo hình ảnh Thiên Chúa” (3:9) thế nào, thìđức mến
nuôi dưỡng thanh danh của người khác như vậy, ngay cả kẻ thù của mình. Trong việc tìm cách giữ gìn lề luật của Thiên Chúa chúng ta phải đừng bao giờ quên đòi hỏi cụ thể này của đức
mến.
113. Đôi bạn đã kết hôn được kết nối bởi tình
yêu sẽ nói tốt về nhau; họ nỗ lực thể hiện điều tốt của người bạn đời; chứ không
phải sự yếu đuối và những sai lỗi. Trong bất kì biến cố nào, họ giữ thinh lặng hơn
là nói xấu về nhau. Đây không chỉ thuần tuý là một cách hành động
trước người khác; nó xuất phát từ một thái độ nội tâm. Thoát ra khỏi việc tuyên
bố cách khéo léo để không nhìn vào những vấn đề và yếu đuối của người khác, thái độ
này nhìn những yếu đuối
và sai lỗi này trong một bối cảnh rộng hơn. Thái độ này nhận biết rằng những thất
bại này là một phần của một bức tranh lớn hơn. Chúng ta phải nhận biết rằng tất cả chúng ta là
một sự pha trộn phức tạp của ánh sáng và những bóng tối. Người khác còn nhiều hơn cả tổng thể những điều nhỏ nhặt cộng
lại vốn đang làm phiền tôi. Chúng ta không cần phải hoàn hảo để tôn trọng đức mến.
Người khác yêu mến tôi cách tốt nhất mà họ có thể, với tất cả mọi giới hạn của
họ, nhưng sự thật là đức mến không hoàn hảo không có nghĩa là nó không có thực
hoặc không đúng. Đức mến có thật, mặc dù còn giới hạn và mang
tính trần thế. Nếu tôi mong đợi quá nhiều, thì người khác
sẽ cho tôi biết, vì người ấy vừa không thể đóng vai trò của Thiên Chúa và
đáp ứng hết mọi nhu cầu của tôi. Đức mến tồn tại chung với sự bất toàn. Đức mến “tha thứ tất cả” và có thể giữ được sự
bình an của nó trước những giới hạn của người thân yêu.
Đức mến tin
tưởng tất cả
114.
Panta pisteúei. Đức
mến tin tưởng tất cả. “Tin tưởng” ở đây không được hiểu theo đúng nghĩa thần học,
mà hơn thế theo nghĩa của điều mà chúng ta có ý muốn nói là “tin”. Điều
này vượt ra khỏi việc chỉ đơn thuần giả định là người khác đang không gian dối
hay lọc lừa. Sự tin tưởng nền tảng như thế nhận biết được ánh sáng của Thiên
Chúa đang chiếu sáng vượt ra khỏi bóng tối, và giống như một khúc củi đang cháy
dưới lớp tro.
115. Sự tin tưởng
này giúp cho đôi bạn được tự do. Tin tưởng có nghĩa là chúng ta không phải kiểm
soát người khác, theo từng bước đi của họ không để cho họ thoát ra khỏi tầm với
của chúng ta. Tình yêu thì tin tưởng, nó giải thoát, nó không nỗ
lực kiểm soát, chiếm hữu hay thống trị mọi thứ. Sự tự do này, vốn nuôi dưỡng sự
độc lập, một sự mở ra cho thế giới xung quanh chúng ta và cho những kinh nghiệm mới, chỉ có
thể làm phong phú và mở rộng
các mối quan hệ. Do đó đôi bạn chia sẻ với nhau niềm vui của tất cả mọi điều mà
họ đã lãnh nhận và học bên ngoài khuôn khổ gia đình. Đồng thời, sự tự do này tạo nên sự
trân trọng và minh bạch, vì những người biết rằng họ được
tin tưởng và trân trọng có thể mở ra và không che giấu điều gì.
Những người biết rằng người bạn đời của họ luôn hoài nghi, xét đoán và
thiếu tình yêu vô điều kiện, sẽ có xu hướng giữ các bí mật,
che đậy các sa ngã và yếu đuối của mình, và giả vờ
là một ai đó khác hơn là
chính họ là. Mặt khác, một gia đình được đánh dấu bởi sự tin tưởng đầy yêu
thương, sẽ giúp cho các thành viên của gia đình là chính
họ và đồng thời khước từ sự lừa dối, giả tạo, và dối trá.
Đức mến hy vọng
tất cả
116.
Panta elpízei. Đức mến không làm thất vọng tương lai. Tiếp theo những gì vừa
mới được đề cập, thì cụm từ này nói về niềm hy vọng của một người biết rằng những
người khác có thể thay đổi, trưởng thành và chiếu toả vẻ đẹp ngoài sức mong đợi
và tiềm năng chưa được nói đến. Điều này không có nghĩa là mọi thứ sẽ thay đổi
trong cuộc sống này. Nó có liên quan đến việc nhận biết rằng, mặc dù mọi thứ có
thể không luôn diễn ra như chúng ta mong đợi, nhưng Thiên Chúa có thể biến những
đường gãy khúc
thành những đường thẳng và
rút ra sự tốt lành từ điều dữ mà chúng ta chịu đựng trong thế giới này.
117. Ở đây niềm hy vọng xuất hiện đầy đủ nhất
theo đúng nghĩa của nó, bởi vì nó đón nhận lấy sự chắc chắn của sự sống
sau khi chết. Mỗi người, với tất cả những sa ngã của mình,được
mời gọi đến sự trọn vẹn của sự sống trên thiên đàng. Ở đó, được biết đổi trọn vẹn
bởi sự phục sinh của Đức Kitô, mọi yếu đuối, tối tăm và tật nguyền đều sẽ qua
đi. Ở đó hữu thể thực sự của con người sẽ toả sáng trong tất cả sự tốt lành và
vẻ đẹp của nó. Sự nhận biết này sẽ giúp chúng ta, giữa những nặng nề phiền toái
của đời sống hiện tại này, để thấy mỗi người từ một cách nhìn
siêu nhiên, dưới ánh sáng của niềm hy vọng, và đợi chờ sự trọn vẹn mà
người ấy sẽ lãnh nhận trong vương quốc thiên đàng, ngay cả
điều đó giờ chưa được tỏ tường.
Đức mến chịu
đựng tất cả
118.
Panta hypoménei. Điều này có nghĩa là tình
yêu sẽ chịu được hết mọi
thử thách bằng một thái độ tích cực. Tình yêu đứng vững trong những bối cảnh mang
tính thù nghịch. “Sự chịu đựng” này không chỉ liên hệ đến khả năng chịu đựng những
sự gây hấn, mà một điều gìđó lớn lao hơn: một sự sẵn sàng
liên lỉ để đối diện với bất kì thách đố nào. Đó là một tình
yêu không bao giờ đầu
hàng, ngay cả trong thời khắc tăm tối nhất. Nó thể hiện một tính cách anh hùng
gan dạ, một sức mạnh để chống lại mọi dòng chảy tiêu cực, một sự
dấn thân không khuất phục cho sự tốt lành. Ở đây tôi nghĩ về những lời của
Martin Luther King, người đã đối diện với mọi kiểu thử thách và khổ
đau bằng một tình yêu huynh đệ: “Người ghét bạn nhất vẫn có điều gì đó tốt lành ở
nơi họ; ngay cả đất nước ghét bạn nhất cũng có điều gì đó tốt lành; ngay cả dân tộc ghét bạn
nhất cũng có điều tốt lành. Và khi bạn đi đến chỗ mà bạn nhìn
vào gương mặt của mọi người và thấy ở tận thẳm sâu người ấy điều mà tôn
giáo gọi là ‘hình ảnh của Thiên Chúa’, bạn sẽ bắt đầu yêu mến người ấy bất chấp [mọi thứ].
Bất luận người ấy làm gì, bạn đều thấy hình ảnh của
Thiên Chúa ở đó. Có một yếu
tố của sự tốt lành mà người ấy không bao giờ có thể xoá bỏ được... Một cách
khác để bạn yêu kẻ thù của mình là thế này: khi cơ hội đến
với bạn để bạn đánh bại kẻ thù, đó là thời gian mà bạn phải không được làm thế...Khi
bạn vươn tới mức độ của tình yêu, của vẻ đẹp và sức mạnh lớn lao của nó, thì bạn chỉ tìm kiếm để
đánh bại các hệ thống sự dữ. Các cá nhân là những người bị mắc kẹt trong hệ thống
ấy, bạn hãy yêu
mến, nhưng bạn tìm cách đánh
bại hệ thống... Lấy oán báo oán chỉ làm gia tăng sự hiện hữu của sự thù hận và
sự dữ trong hoàn vũ. Nếu tôi đánh bạn và bạn đánh lại tôi và tôi đánh lại bạn
và bạn đánh lại tôi và cứ thế, thì bạn thấy, điều ấy đi đến vô tận. Nó sẽ chẳng bao
giờ kết thúc. Ở đâu đó có ai đó phải có một chút cảm thức, và đó là người mạnh
mẽ. Người mạnh mẽ là người có thể cắt bỏ được xiềng xích của sự hận thù, xiềng
xích của sự dữ... Người ta phải có đủ tôn giáo và đủ đạo đức để cắt bỏ xiềng
xích ấy và tiêm vào trong mỗi cấu trúc của hoàn vũ yếu tố vững
vàng và mạnh mẽ ấy của tình yêu”.114
119. Trong đời
sống gia đình, chúng ta cần nuôi dưỡng sức mạnh ấy của tình yêu vốn có thể giúp chúng ta chiến đấu lại mọi sự dữ đe doạ gia đình. Tình yêu không tạo ra sự giận dữ, chửi rủa người khác hay
mong muốn làm tổn thương hay kiếm tí lợi lộc. Lý tưởng Kitô Giáo, đặc
biệt trong gia đình, là một tình yêu không bao giờ đầu hàng. Đôi khi tôi kinh ngạc khi thấy
nhữn người nam hoặc nữ là những người đã phải chia tay người
bạn đời của mình vì sự bảo vệ của riêng họ, nhưng, vì tình yêu vợ chồng lâu bền, vẫn nỗ lực để giúp những người mình
yêu, ngay cả tranh thủ những người
khác, trong những cơn đau yếu của họ, đau khổ hay thử thách của họ. Ở đây chúng
ta cũng thấy một tình yêu không bao giờ đầu hàng.
TRIỂN NỞ TRONG
TÌNH YÊU VỢ CHỒNG
120.
Suy tư của chúng ta
về bài ca đức mến của Thánh Phaolô đã chuẩn bị cho chúng ta thảo luận về tình yêu vợ chồng. Đây là tình yêu giữa người
chồng và người vợ,115 một tình yêu được thánh hoá, làm cho
phong phú và soi sáng bởi ân sủng của bí tích hôn nhân. Đó là một “sự hiệp nhất tình cảm”,116 thiêng liêng và hy
sinh, vốn kết hợp sự ấm áp của tình bạn và niềm đam mê tình
ái, kéo dài lâu sau khi những cảm
xúc và đam mê dịu lại. Đức Giáo HoàngPiô XI đã dạy rằng tình yêu này thấm vào các nghĩa vụ của đời
sống hôn nhân và vui hưởng niềm tự hào của địa vị.117 Được Chúa Thánh Thần phú ban, tình yêu mạnh mẽ này là một sự phản
chiếu về giao ước không phá vỡ giữa Đức Kitô và con người
đạt tới đỉnh cao trong sự tự hy sinh bản thân của Ngài trên thập giá. “Chúa Thánh Thần mà
Thiên Chúa tuôn đổ xuống đổi
mới tâm hồn và làm
cho người nam và người nữ biết yêu thương nhau như Đức Kitô yêu thương chúng ta. Tình
yêu vợ chồng đạt tới sự
toàn vẹn ấy với mức độ mà nó được trao ban cho: bác ái vợ chồng”.118
121.
Hôn nhân là một dấu chỉ quí giá, vì “khi một người nam và một người nữ cử hành bí tích
hôn nhân, Thiên Chúa, vốn như thế, ‘phản chiếu’ ở nơi họ; Ngài in dấu nơi họ những
nét riêng của Ngài
và tính cách không thể xoá nhoà của tình yêu. Hôn nhân là một biểu tượng
của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thực ra, Thiên Chúa
cũng hiệp thông: ba Ngôi Vị của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần sống mãi
trong một sự hiệp nhất hoàn hảo. Và
đây rõ ràng là một mầu nhiệm của hôn nhân: Thiên Chúa làm cho đôi vợ chồng trở thành một sự hiện hữu
duy nhất”.119 Điều này có
những kết quả hằng ngày, bởi vì đôi vợ chồng “ngang qua bí tích, được
phú ban một sứ mạng thật sự và thích hợp, để, bắt đầu từ những điều bình thường của cuộc sống họ có thể làm cho tình
yêu hữu hình một tình yêu màĐức Kitô yêu thương Giáo Hội của Ngài và tiếp
tục trao ban mạng sống Ngài vì Giáo Hội”.120
122. Tuy nhiên,
chúng ta đừng nhầm lẫn các cấp độ khác nhau: không cần thiết phải đặt trên hai con người giới hạn
gánh nặng lớn lao của việc phải tạo ra cách hoàn hảo sự hiệp nhất tồn tại giữa
Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài, vì hôn nhân là một dấu chỉ đi kèm với “một tiến trình
năng động..., một tiến trình tiến dần bằng sự tháp nhập mang tính tiệm tiến của các ơn ban của
Thiên Chúa”.121
Chia sẻ suốt
đời
123.
Sau tình yêu hiệp nhất chúng ta với Thiên Chúa, thì tình yêu vợ chồng là “hình
thức cao cả nhất của tình bạn”.122 Đó là một sự hiệp nhất sở hữu tất cả các
dấu vết của một tình bạn tốt lành: sự quan tâm vì điều tốt của người khác, sự hỗ tương,
sự gần gũi, sự ấm áp, sự ổn định và sự giống nhau vốn xuất phát từ một đời sống
chung. Hôn nhân nối kết tất cả mọi điều này thành một đặc quyền bất khả phân ly
được thể hiện trong một sự dấn thân ổn định để chia sẻ và hình
thành toàn bộ đời sống
cùng nhau. Chúng
ta hãy chân thành và nhận biết các dấu chỉ thuộc về đặc quyền này. Những người yêu nhau
không nhìn mối quan hệ của họ thuần tuý là tạm bợ. Những người kết hôn với nhau không
mong đợi sự hưng phấn của họ tàn lụi. Những người làm chứng cho việc cử hành một
sự hiệp nhất yêu thương, dù là mỏng manh, tin rằng nó sẽ vượt qua được sự thử
thách của thời gian. Con cái không chỉ muốn cha mẹ chúng yêu thương nhau, mà còn trung thành và ở cùng nhau. Những điều này và những dấu chỉ tương
tự cho thấy rằng bản chất rất thật của tình yêu vợ chồng là mang
tính xác quyết. Sự hiệp nhất dài lâu được
thể hiện ngang qua các lời thề hứa hôn phối thì còn hơn cả
một thủ tục hay một công thức truyền thống; nó được bắt rễ trong các khuynh hướng
tự nhiên của con người nhân loại. Đối với những người tin, thì đó là một giao ước trước Thiên Chúa vốn
kêu gọi lòng trung thành: “Chúa là chứng nhân cho giao ước giữa
bạn và vợ bạn thời trai trẻ, người mà bạn đã thất trung, dù
chị là bạn đồng hành và vợ bạn nhờ giao ước… Đừng có ai thất trung với vợ cưới
hồi còn độ
thanh xuân. Vì ta ghét ly dị, Chúa phán thế” (Mal 2:14-16).
124.
Một tình yêu vốn yếu ớt hoặc khiếm khuyết, không thể chấp nhận hôn nhân như là một thách đố cần phải được đảm nhận
lấy và đấu tranh, tái sinh, canh tân và tái tạo cho đến lúc chế, thì
không thể duy trì một sự dấn thân lớn lao. Tình yêu ấy sẽ không chịu nổi trước
nền văn hoá tạm bợ vốn ngăn chặn một tiến trình phát triển liên
lỉ. Tuy nhiên “tình yêu hứa hẹn mãi mãi là có thể khi chúng ta tiếp nhận một kế
hoạch lớn lao hơn những ý tưởng và những việc làm của chúng ta, một kế hoạch nuôi dưỡng
chúng ta và giúp chúng ta biết phó mặc toàn bộ tương lai của chúng ta cho người
mà chúng ta yêu thương”.123 Nếu tình yêu này
là để vượt thắng hết mọi thử thách và trung thành khi đối diện với mọi thứ, thì nó cần quà tặng của ân sủng để
củng cố và nâng nó lên. Theo lời của Thánh Robert Bellarmine, “sự thật là một
người nam hiệp nhất với một người nữ trong một mối liên kết bất khả phân ly, và
rằng họ không thể tách là bất chấp mọi khó khăn, ngay cả khi không còn niềm hy vọng có con, chỉ có thể là mọt dấu chỉ của một mầu nhiệm lớn
lao”.124
125. Hôn nhân
giống như một tình bạn được
đánh dấu bởi niềm đam mê, nhưng một niềm đam mê luôn luôn hướng tới một sự hiệp
nhất ổn định và mạnh mẽ hơn. Điều này là vì “hôn nhân không được thiết lập chỉ cho việc sinh sản
con cái” mà còn là một tình yêu dành cho nhau “có thể được thể hiện một cách đúng đắn, tình yêu cần phải lớn lên và trưởng thành”.125 Tình bạn độc nhất này giữa người nam và người nữ
đạt tới một tính cách bao gồm hết tất cả chỉ có trong sự hiệp nhất vợ chồng. Rõ ràng là bao gồm hết tất cả, nhưng sự hiệp nhất này cũng đặc biệt,
trung thành và mở ra cho sự sống mới. Tình yêu này chia sẻ
mọi sự trong một sự tôn trọng lẫn nhau liên lỉ. Công Đồng Vatican II lặp lại điều
này bằng việc nói rằng “một tình yêu như thế khi làm cho con người và Thiên Chúa nên một,
thì dẫn đôi
bạn đến một sự trao ban bản thân cách tự do và cho nhau, được kinh nghiệm trong
sự dịu dàng và hành động, và thấm vào trong toàn bộ đời sống của họ”.126
Niềm vui và
vẻ đẹp
126.
Trong hôn nhân, niềm vui của tình yêu cần phải được nuôi dưỡng. Khi việc tìm kiếm khoái lạc trở nên nỗ ám ảnh, thì nó sẽ giam giữ chúng ta trong
tình trạng nô lệ và làm cho chúng ta không còn kinh nghiệm được những thoả mãn
khác nữa. Niềm vui, trái lại, gia tăng sự hài lòng của
chúng ta và giúp chúng ta tìm thấy sự thành toàn trong bất cứ điều gì, ngay cả những
lúc trong cuộc sống khi mà sự thoả mãn thể lý đã suy giảm. Thánh Tôma
Aquinô nói rằng từ “niềm vui’ nói đến
một sự mở ra của con tim.127 Niềm
vui hôn nhân có thể được kinh nghiệm ngay cả trong u sầu; nó liên hệ đến việc
chấp nhận rằng hôn nhân là một sự pha trộn không thể thiếu của niềm vui và đấu
tranh, căng thẳng và thư giãn, nỗi đau và sự xoa dịu, thoả mãn và ước mong,
phiền toái và niềm vui, nhưng luôn luôn trên con đường của tình
bạn, vốn khích lệ đôi bạn
kết hôn chăm sóc cho nhau: “họ sẽ giúp đỡ và phục vụ lẫn nhau”.128
127.
Tình yêu của tình bằng hữu được gọi là “bác ái” khi nó tiếp nhận và
tôn trọng “giá trị cao cả” của người khác.129 Vẻ đẹp – “giá trị cao cả” vốn hơn hẳn
sự hấp dẫn về mặt thể lý hay tâm lý – giúp cho chúng ta biết
trân trọng sự thánh thiêng của một người, mà không cảm thấycần thiết phải sở hữu nó. Trong xã hội tiêu thụ, cảm thức về vẻ đẹp bị khánh kiệt và vì
thế niềm vui lụi tàn. Mọi thứ ở đó
là để mua bán, sợ hữu hay tiêu thụ, bao gồm cả con người. Sự dịu dàng, mặt
khác, là một dấu chỉ của một tình yêu thoát khỏi sự sở hữu
ích kỷ. Sự dịu dàng làm cho chúng ta tiếp cận một người bằng sự tôn trọng lớn
lao và một nỗi sợ làm cho họ bị tổn thương hay lấy đi sự tự do của họ. Yêu
thương người khác có liên hệ đến niềm vui của việc chiêm ngắm và trân trọng vẻ
đẹp và sự thánh thiêng vốn có của họ, là điều lớn lao hơn cả những nhu cầu của
chúng ta. Điều này giúp cho tôi tìm kiếm sự tốt lành của họ ngay
cả khi họ không thể thuộc về tôi, hoặc khi họ không còn hấp dẫn về mặt thể lý nữa
mà gây phiền toái hay làm phiền. Vì “tình yêu mả qua đó người ta làm hài lòng
một người khác tuỳ thuộc vào việc cho đi một điều gì đó cách nhưng không của người ấy”.130
128.
Kinh nghiệm thẩm mỹ về tình yêu được diễn tả trong “cái nhìn” ấy vốn chiêm ngắn những người khác như là cứu cánh ở nơi
chính họ, ngay cả
khi họ tật nguyền, già nua hay không hấp dẫn về mặt thể lý. Một cái nhìn trân
trọng mang một tầm quan trọng lớn lao, và đố kị thường là gây tổn thương. Biết
bao nhiêu điều mà đôi bạn và con cái đôi khi thực hiện để chỉ được chú ý! Biết bao nhiêu tổn
thương và nhiều vấn đề được tạo ra khi chúng ta dừng lại việc nhìn vào nhau. Điều
này ẩn chứa phía sau những phàn nàn và những lời trách cứ mà chúng ta thường
nghe trong gia đình. “Chồng tôi không nhìn vào tôi; anh ấy hành động như thể tôi tàng hình”.
“Xin hãy nhìn vào tôi khi tôi đang
nói chuyện với anh!”. “Vợ tôi không còn nhìn vào tôi, cô ấy chỉ để mắt đến con cái của chúng tôi”.
“Trong nhà tôi không ai quan tâm đến tôi; họ thậm chí còn không
thèm nhìn tôi; điều ấy như
thể tôi không tồn tại”. Tình yêu mởđôi mắt
của chúng ta ra và giúp cho chúng ta nhìn thấy, vượt ra khỏi tất cả mọi
điều khác, giá trị cao cả của một con người nhân loại.
129.
Niềm vui của tình yêu chiêm ngắm này cần phải được nuôi dưỡng. Bởi vì
chúng ta được tạo nên cho
tình yêu, nên chúng ta
biết rằng không có nhiều vui nào lớn lao hơn niềm vui của việc chia sẻ những điều
tốt lành: “Hãy cho
và nhận, hãy làm cho tâm hồn mình thanh thản” (Hc 14: 16). Những niềm vui mạnh
mẽ nhất trong cuộc sống xuất hiện khi chúng ta biết khơi gợi lên nhiềm vui nơi người khác,
như là một sự nếm trải trước nước trời. Chúng ta có thể nghĩ về một cảnh tượng
đáng yêu trong bộ phim Babette’s Feast, khi người đầu bếp đại lượng nhận lấy một
cái ôm đầy lòng biết ơn
và lời khen: “À, các bạn làm vui lòng các thiên thần biết
bao!”. Thật là một niềm vui và một niềm an ủi lớn lao để đem niềm hoan lạc đến
cho người khác, để nhìn thấy chính bản họ vui vẻ. Niềm vui này,
hoa trái của tình yêu huynh đệ
này, không phải là hoa trái của hư vinh và qui ngã, mà là của những
người yêu biết vui trong sự tốt lành của những người mà họ yêu thương,
những người cho đi cách nhưng không và do đó sinh hoa trái tốt lành.
130. Mặt khác,
niềm vui cũng lớn lên qua đau khổ và u sầu. Theo như Thánh Augustinô, “mối nguy
càng lớn lao bao nhiêu trong trận chiến thì niềm vui chiến thắng
càng lớn lao bấy nhiêu”.131 Sau
khi đau khổ và đấu tranh cùng nhau, đôi bạn có thể kinh nghiệm được rằng thật xứng
đáng, bởi vì họ đạt
được điều gì đó
tốt lành, học được một điều gì đó trong tư cách là đôi bạn, hoặc đi đến
chỗ trân trọng điều họ có. Rất ít niềm vui con người lại sâu thẳm và phấn chấn
như niềm vui mà đôi bạn kinh qua khi yêu thương nhau và đã đạt được một điều gì đó là kết quả của một sự nỗ lực lớn lao
chung.
Kết hôn vì
tình yêu
131. Tôi muốn
nói với người trẻ
rằng không có gì là nguy hiểm cả khi họ thấy tình yêu của mình được thể hiện trong hôn nhân. Sự hiệp
nhất của họ gặp thấy trong thiết chế này phương thế để đảm bảo rằng tình yêu của họ thực sự là tồn tại và phát triển. Một cách tự nhiên,
tình yêu thì hơn cả sự đồng
thuận hay một hợp đồng bên ngoài, nhưng cũng thật là việc chọn lựa để mang lại
cho hôn nhân một hình thức rõ ràng trong xã hội bằng việc thực
hiện một số cam kết cho thấy tầm quan trọng của hôn nhân là thế nào. Hôn nhân
làm tỏ lộ sự nghiêm túc của sự đồng hoá của người người này đối với người
kia và quyết định vững vàng của họ để bỏ lại chủ nghĩa cá nhân tuổi thành niên
phía sau và thuộc về nhau. Hôn nhân là một phương thế diễn tả rằng chúng ta đã thực sự rời khỏi sự an toàn của gia đình mà chúng ta
lớn lên từ đó để thiết lập những mối liên hệ mạnh mẽ khác và mang lấy trách nhiệm
mới đối với người khác. Điều này thì còn ý nghĩa hơn cả
việc một sự liên hệ thuần tuý tự phát đối với sự thoả mãn lẫn
nhau, điều biến hôn nhân
thành một sự việc hoàn toàn riêng tư. Là một thiết chế xã hội,
hôn nhân bảo vệ và hình thành một sự cam kết chung đến một sự trưởng thành sâu hơn trong
tình yêu và sự dấn thân dành cho nhau, vì thiện ích của toàn thể
xã hội.Đó là lý do vì sao hôn nhân thì quan trong hơn là một kiểu thời thượng
chóng qua; hôn nhân thuộc về tầm quan trọng dài lâu. Bản chất của hôn nhân xuất
phát từ bản tính con người và đặc trưng xã hội. Nó có liên hệ đến một chuỗi các bổn phận xuất phát bởi
chính tình yêu, một tình yêu quá nghiêm túc và đại lượng đế nỗi nó sẵn sàng đối diện
với bất kì một sự rủi ro nào.
132. Chọn lựa
hôn nhân theo cách này diễn tả một quyết định đúng đắn và vững vàng để đi chung
đường, bất luận điều gì sẽ xảy ra. Trước sự nghiêm túc của
hôn nhân, sự cam kết chung của tình yêu này không thể là hoa trái của một quyết định
vội vàng, nhưng cũng không thể bị trì hoãn cách vô định. Cam kết chính bản thân một cách
đặc biệt và xác quyết với người khác luôn luôn có liên hệ đến một sự rủi ro và
một canh bạc can đảm. Sự không sẵn lòng để thực hiện một sự cam kết như thế là
ích kỷ, toan tính và nhỏ nhen. Điều này sẽ thất bại trong việc nhìn nhận các quyền của người khác và giới thiệu người khác ra
trước xã hội như là một người xứng đáng với một tình yêu vô điều
kiện. Nếu hai người thực sự yêu nhau, thì tự nhiên họ sẽ thể hiện điều này với người khác. Khi tình yêu được thể
hiện trước người khác trong một khế ước hôn nhân, với tất cả mọi cam kết của
nó, thì rõ ràng nó sẽ làm tỏ lộ và bảo vệ tiếng “có” mà những người
này đã nói một cách tự do và không ngần ngại với nhau. Tiếng
“có” này nói với họ rằng họ có thể luôn luôn tin tưởng nhau, rằng họ sẽ không
bao giờ bị bỏ mặc khi những khó khăn xuất hiện hoặc những hấp dẫn mới hoặc những
lợi lộc ích kỷ thể hiện ra trước họ.
Một tình yêu
làm tỏ lộ chính nó
và gia tăng
133. Tình yêu của
tình bằng hữu làm hiệp nhất tất cả mọi khía cạnh của đời sống hôn nhân và
giúp các thành viên gia đình phát triển không ngừng. Tình yêu này phải được thể hiện cách tự
do và đại lượng bằng lời nói và hành động. Trong gia đình, “ba từ cần được sử dụng. Tôi muốn
lặp lại điều này! Ba từ: ‘Vui lòng’, ‘Cám ơn’, ‘Xin lỗi’. Ba từ
chính yếu!”.132 “Trong gia đình của chúng ta khi chúng ta không quá hách dịch
và hỏi: ‘Xin phép?’; trong các gia đình khi chúng ta không ích kỷ và có thể nói: ‘Xin cám ơn!’; và
trong gia đình khi có người nhận thấy rằng mình
làm điều gì
sai trái và biết nói ‘Xin lỗi!’, thì gia đình của chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui và bình
an”.133 Chúng
ta đừng tính toán khi sử dụng những từ ngữ này, nhưng hãy lặp lại chúng,
ngày này qua ngày nọ. Vì “những sự im lặng nhất định sẽ mang tính áp bức,
và thậm chí đôi khi trong gia đình, giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con
cái, giữa anh em với nhau”.134 Những từ đúng đắn, được nói vào đúng lúc, sẽ ngày ngày bảo vệ và nuôi
dưỡng tình yêu.
134. Tất cả điều này xảy ra
qua một tiến trình phát triển không ngừng. Hình thức rất đặc biệt của tình yêu
là hôn nhân được mời gọi để
mặc lấy điều mà Thánh Tôma Aquinô nói về đức mến nói chung. “Đức mến”, Ngài nói, “về bản chất của nó, không có giới hạn để gia
tăng, vìđó là một sự dự phần vào trong một đức mến vô
biên chính là Chúa Thánh Thần... Về phía chủ thể cũng không thể hạn định giới hạn của đức mến được, bởi
vì khi đức
mến phát triển, thì khả năng của nó cũng sẽ phát triển thậm
chí là còn lớn mạnh hơn nữa”.135 Thánh Phaolô cũng cầu
nguyện: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi
người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết” (1 Tx 3:12), một lần
nữa, ““liên quan tới tình huynh đệ…
Chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa”
(1 Tx 4:9-10). Hơn nữa và hơn nữa! Tình yêu hôn nhân không được bảo vệ chỉ bằng việc trình bày tính bất khả phân ly như là một nghĩa vụ, hoặc bởi việc
lặp lại giáo lý, mà bởi việc trợ giúp cho tình yêu ấy phát triển
mạnh mẽ hơn nữa dưới sự thúc đẩy của ân sủng. Một tình
yêu mà không lớn lên là nguy. Sự phát triển chỉ có thể xảy ra khi chúng ta đáp trả trước ân sủng của Thiên Chúa ngang qua hành động liên lỉ của tình yêu, hành động của sự nhân từ vốn trở
nên thường xuyên hơn, mạnh mẽ hơn, đại lượng hơn, dịu dàng hơn và vui tươi hơn.
Người chồng và người vợ “trở nên ý thức về sự hiệp nhất của họ và kinh nghiệm điều này sâu sắc hơn nữa trong cuộc sống
hằng ngày”.136 Quà tặng của tình yêu Thiên Chúa tuôn đổ trên đôi bạn cũng là một lệnh
truyền để liên tục lớn lên trong ân sủng.
135.
Sẽ chẳng có ích lợi gì khi mơ về một tình yêu thụ động và hoàn hảo vốn không cần đến động
lực để phát triển. Một quan niệm mang tính thiên đàng về tình yêu trần thế sẽ
quên mất rằng điều tốt nhất
thì chưa xảy đến, rượu tinh hảo sẽ cần thời gian. Như Hội
Đồng Giám Mục Chile đã cho thấy, “các gia đình hoàn hảo được đề xuất bởi sự tuyên truyền lừa phỉnh
của chủ nghĩa tiêu thụ là không tồn tại. Trong những gia đình này, không ai
già nua cả, không có bệnh tật, u sầu hay sự chết... Kiểu tuyên truyền chủ nghĩa
tiêu thụ giới thiệu một sự huyễn hoặc vốn chẳng có gì liên hệ đến thực tại mà những người chủ gia đình phải đối diện
hằng ngày”.137 Thật
là lành mạnh hơn nhiều khi biết thực tế về những giới hạn, những
khiếm khuyết và những bất toàn của chúng ta, và đáp trả lại trước lời mời gọi lớn lên
cùng nhau, đưa tình yêu đến
sự trưởng thành và củng cố sự hiệp nhất, bất luận điều gì xảy
ra.
Đối thoại
136. Đối thoại
là cần thiết cho việc cảm nghiệm, thể hiện và nuôi dưỡng tình
yêu trong hôn nhân và đời
sống gia đình. Nhưng nó chỉ có thể là hoa trái của một việc
thực hành dài lâu và nhiều đòi hỏi. Những người nam và nữ,
người trẻ và người trưởng thành, giao tiếp khác nhau. Họ nói các ngôn ngữ khác
nhau và họ hành động bằng nhiều cách khác nhau. Cách đặt câu hỏi và trả lời các
câu hỏi của chúng ta, giọng điệu chúng ta sử dụng, thời gian của chúng ta và bất
kì một yếu tố nào khác tạo nên việc chúng ta giao tiếp tốt thế
nào. Chúng ta cần phát triển những thái độ nhất định diễn tả tình
yêu và khích lệ việc đối
thoại đúng đắn.
137.
Hãy dành thời gian, thời gian chất lượng. Điều này có nghĩa là sẵn sàng để lắng nghe cách nhẫn nại
và chú ý đến mọi thứ mà người khác muốn nói. Nó đỏi hỏi một kỷ luật của việc
không nói cho đến khi đúng lúc. Thay vì đưa ra ý kiến hay lời khuyên,
chúng ta cần phải chắc chắn là chúng ta đã nghe hết mọi sự mà
người khác phải nói. Điều này có nghĩa là nuôi dưỡng một sự thinh lặng nội
tâm vốn có khả năng làm cho việc lắng nghe người khác trở nên khả thể mà không
có những xáo trộn về mặt tâm thần hay cảm xúc. Đừng vội vàng, hãy
gác hết mọi nhu cầu và những lo lắng riêng của bạn sang một bên, và hãy tạo
không gian.Thường thì người bạn đời không cần một
giải pháp cho các vấn đề của mình, mà chỉ đơn giản cần được lắng nghe, cần cảm
thấy rằng ai đó đang nhận biết nỗi đau của họ, sự thất vọng của họ, sự sợ hãi của họ, cơn giận của họ, những niềm hy vọng và cả những giấc
mơ của họ. Quá thường chúng ta nghe những lời phàn nàn thế này: “Anh ấy không lắng
nghe tôi”. “Ngay cả khi bạn dường như làm thế, thì bạn lại đang thực sự làm một điều gì khác”. “Tôi trò chuyện với cô ấy và tôi cảm thấy như cô ấy
không thể chờ tôi kết thúc”. “Khi tôi nói chuyện với cô ấy, cô ấy nỗ lực để
thay đổi đề tài, hoặc cô ấy cho tôi những câu trả lời cụt ngủn để kết thúc cuộc
trò chuyện”.
138.
Hãy phát triển thói quen đặt sự quan trọng thực sự đối với người
khác. Điều này có nghĩa là tôn trọng họ và nhận ra quyền tồn tại của họ, hãy nghĩ như họ và hãy vui mừng.Đừng bao
giờ coi thường điều họ nói hay nghĩ, ngay cả khi bạn cần thể hiện quan điểm
riêng của bạn. Mọi người đều có điều gì đó để đóng góp, bởi vì
họ có kinh nghiệm sống của họ, họ nhìn vào mọi sự từ một quan điểm khác và họ có những bận tâm, những
khả năng và hiểu biết của riêng họ. Chúng
ta phải có khả năng nhận biết sự thật của người khác, giá trị của những bận tâm
sâu sắc nhất của họ, và điều họ đang nỗ lực thông truyền là gì,
kể cả một cách gây hấn. Chúng ta phải đặt
bản thân chúng ta vào hoàn cảnh của họ và nỗ lực đề đồng cảm với tâm hồn họ, tiếp
nhận những bận tâm của họ và coi họ như là một xuất phát điểm cho một cuộc đối
thoại xa hơn.
139.
Hãy mang lấy một tư
tưởng mở. Đừng bị sa lầy vào trong những ý tưởng và những ý kiến giới hạn của riêng bạn, nhưng hãy sẵn
sàng để thay đổi và mở rộng
chúng. Sự kết hợp của hai cách nghĩ khác nhau có thể dẫn đến một sự tổng hợp vốn
làm cho cả hai phong phú. Sự hiệp nhất mà chúng ta tìm kiếm
không phải là một kiểu đồng
phục, mà là một “sự hiệp nhất trong sự đa dạng”, hoặc “sự đa dạng có thương thảo”.
Sự hiệp thông huynh đệ được làm cho trở nên phong phú bởi sự tôn trọng và sự
trân trọng những khác biệt bên trong một cách nhìn chung làm thăng
tiến thiện ích chung. Chúng ta cần phải giải thoát bản thân chúng ta khỏi cảm
giác là tất cả chúng ta phải giống nhau. Một khả năng đánh giá đúng cũng thật cần
thiết để tránh vẻ bề ngoài “mang nét tĩnh” vốn có thể can dự vào bằng một tiến
trình đối
thoại. Chẳng hạn, nếu những cảm giác khó khăn bắt đầu xuất hiện, thì chúng ta cần phải xử lý chúng bằng sự nhạy bén, đừng để chúng
ngăn chặn một cuộc đối thoại năng động. Khả năng để nói điều mà người ta nghĩ
mà không làm xúc phạm đến người khác là quan trọng. Lời nói cần phải được chọn
lựa cẩn trọng để không gây xúc phạm, đặc biệt khi tranh luận những vấn đề khó.
Đưa ra một quan điểm phải không bao giờ được tạo nên sự giận dữ hay tiêm nhiễm
một nỗi đau. Giọng kẻ cả chỉ làm tổn thương, làm ngu muội, tố cáo và xúc phạm
người khác. Nhiều sự bất đồng giữa đôi bạn không phải về những điều quan trọng.
Đa phần chúng thuộc về những vấn đề tầm thường. Tuy nhiên, điều làm khuấy động
tâm trạng là cách nói đến mọi thứ hoặc thái độ mà chúng ta sử dụng để đề cập đến
mọi thứ.
140.
Hãy thể hiện tìn cảm và sự quan tâm dành cho người khác. Tình yêu vượt thắng được ngay cả những rào cản
tồi tệ nhất. Khi chúng ta yêu ai đó, hoặc khi chúng ta cảm thấy họ yêu chúng
ta, thì chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều mà họ đang nỗ lực
muốn nói. Sợ người khác là một kiểu “tranh đua” là một dấu chỉ của sự yếu kém và cần
phải vượt thắng. Thật quan trọng để đặt nền tảng vị thế của một người trên những chọn lựa, niềm tin hay các giá trị vững bền, và không cần phải
thắng một cuộc tranh luận hoặc cần phải chứng tỏ mình đúng.
141.
Sau cùng, chúng ta hãy nhận biết rằng để có một cuộc đối thoại chung chúng ta phải có một điều gì đó để nói. Điều
này chỉ có thể là hoa trái của một sự phong phú nội
tâm được nuôi dưỡng bởi việc đọc, suy tư cá nhân, cầu nguyện và sự mở ra cho thế
giới xung quanh
chúng ta. Bằng không, những cuộc trò chuyện sẽ trở nên nhàm chán và tầm thường. Khi một trong hai người không thực hiện điều này, và chỉ
có một chút mối liên hệ thực sự với người khác, thì đời sống gia đình
trở nên khô cứng và việc đối thoại trở nên cạn kiệt.
TÌNH YÊU ĐAM MÊ
142.
Công Đồng Vatican II dạy rằng tình yêu vợ chồng này “đón nhận lấy điều tốt lành của toàn bộ con người; nó có thể làm
phong phú tình cảm của sự thể hiện về tinh thần và thể lý bằng một phẩm giá độc nhất và làm cho họ
trở nên cao quí khi những nét đặc trưng và sự thể hiện đặc biệt của tình
bạn của họ phù hợp với hôn nhân”.138 Vì
lý do này, một tình yêu mà thiếu niềm vui hoặc niềm đam mê thì chưa đủ để tượng trưng cho sự hiệp nhất của tâm hồn con người với Thiên Chúa: “Tất cả mọi
nhà thần bí đều khẳng định rằng tình yêu siêu nhiên và tình yêu thiên đàng có được những biểu
tượng mà chúng tìm kiếm thấy trong tình yêu hôn nhân, hơn
là trong tình bạn, sự tận hiến thuận hiếu hay sự tận hiến
cho một công việc nào đó. Và lý do được tìm thấy cách rõ ràng trong tính
tổng thể của nó”.139 Thế
thì tại sao chúng ta không dừng lại để nói về những tình cảm và tình dục trong hôn nhân?
Thế giới cảm
xúc
143. Những khao
khát, cảm giác, cảm xúc, điều mà người xưa gọi là “các đam mê”, tất cả đều có một vị trí đặc biệt trong đời sống hôn nhân.
Chúng được đánh thức bất cứ khi nào“người khác” trở nên hiện diện
và trở thành một phần của đời sống của một người. Nó là nét đặc trưng của tất cả
mọi thực thể sống để vươn ra tới với những điều khác, và khuynh hướng này luôn luôn mang những
dấu chỉ hữu hiệu nền tảng: niềm vui hay niềm đau, niềm vui hay nỗi buồn, sự dịu
dàng hay sợ hãi. Chúng đặt
nền móng cho hoạt động tâm lý căn bản nhất.Con người sống
trên trái đất này, và tất cả mọi điều họ làm và tìm kiếm đều gắn liền với niềm đam mê.
144. Là con người
thật sự, Chúa
Giêsu thể hiện những cảm
xúc của Ngài. Ngài chịu tổn thương bởi sự khước từ của Thành Giêrusalem (x. Mt
23:27) và điều này làm cho Ngài thổn thức đến rơi lệ (x. Lc 19:41). Ngài cũng
thổn thức sâu sắc bởi những nỗi khổ của người khác (x. Mc 6:34).
Ngài cảm nghiệm sâu sắc nỗi thống khổ của họ (x. Ga 11:33), và Ngài đã khóc trước cái chết của một người bạn (x. Ga 11:35). Những điển
hình này về sự nhạy bén của Ngài cho thấy trái tim con người của Ngài mở
ra với người khác thế nào.
145.
Kinh nghiệm một cảm xúc thì tự bản thân nó không phải là tốt hay xấu về mặt
luân lý.140Sự
khuấy động của một lòng khao khát hay một sự ghê tởm thì không phải là tội lỗi hay một sự đáng chê
trách. Điều tốt hay xấu về mặt luân lý là điều mà chúng ta thực hiện trên nền tảng
của, hay dưới sự ảnh hưởng của, một niềm đam mê cụ thể.
Nhưng khi các đam mê nổi lên hoặc được tìm kiếm, và kết quả là chúng ta thực hiện những hành vi xấu, sự
xấu hệ tại ở quyết định làm bùng phát chúng và trong các hành vi
xấu tạo nên hệ quả. Theo đó, việc hữu thể của tôi bị cuốn hút đến một ai
đó thì tự thân không phải
là tốt. Nếu sự cuốn hút của tôi đối với người ấy khiến tôi thống trị người ấy,
thì cảm giác của tôi chỉ phục vụ cho sự ích kỷ của tôi. Tin rằng chúng ta tốt lành đơn giản vì “chúng ta cảm thấy tốt lành” là một sự ảo tưởng khủng khiếp. ó những
người tự bản thân họ cảm thấy có thể có được tình yêu lớn lao chỉ
vì họ có một nhu cầu lớn lao dành cho tình cảm, nhưng họ lại cho thấy
không có khả năng nỗ lực cần thiết để mang lại hạnh phúc cho người khác. Họ vẫn
bị mắc kẹt trong những nhu cầu và lòng khao khát riêng của họ.
Trong những trường hợp như thế, những cảm xúc tạo nên sự
xa cách khỏi những giá trị cao nhất và gói gọn trong sự qui chiếu về bản thân vốn làm cho không thể phát triển
một đời sống gia đình lành mạnh và hạnh phúc.
146. Hữu thể
này nói, nếu đam mê đi cùng với một hành động tự do, thì nó có thể làm tỏ lộ chiều sâu của hành động ấy.
Tình yêu vợ chồng nỗ lực để đảm bảo rằng toàn bộ đời sống tình cảm của
một người mưu ích cho toàn thể gia đình và nhằm để phục vụ cho đời sống chung. Gia đình là trưởng thành khi đời sống tình cảm của
các thành viên của gia đình trở thành một hình thức của sự nhạy bén vốn không làm ngột ngạt
hay làm lu mờ các quyết định
và giá trị quan trọng, nhưng hơn thế tuân theo sự tự do của con người,141 xuất phát từ đó, làm phong phú, làm hoàn hảo và hoà hợp sự tự do ấy nhằm phục vụ
cho hết mọi người.
Thiên Chúa
yêu thích niềm vui của con cái Ngài
147.
Lời mời gọi trước một tiến trình mang tính sư phạm này liên hệ đến sự từ
bỏ. Sự xác tín này về phía Giáo Hội vốn thường bị khước từ như là trái ngược lại
với niềm hạnh phúc của con người. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã
tóm gọn lại cáo buộc này một cách rõ ràng: “Chẳng phải là Giáo Hội, với
tất cả các giới răn và điều cấm buộc của mình, biến sự đắng caythành điều cao quý nhất trong đời sống sao? Chẳng phải Giáo Hội đã lên cất lên tiếng
kèn vang khi niềm vui vốn là quà tặng của Thiên Chúa ban cho chúng ta như là một niềm hạnh
phúc vốn tự thân nó là
một sự nếm trải nhất định về Thiên Chúa sao?”142 Ngài đã trả lời rằng, mặc
dù có những cường điệu và những hình thức sai lầm về sự
khổ chế trong Kitô Giáo, thì giáo huấn chính thức của Giáo Hội, trong sự trung thành với Thánh Kinh, đã không chối bỏ “ái tình (eros) như thế, mà hơn thế tuyên chiến
với hình thức méo mó và mang tính phá hoại của nó, bởi vì điều này làm giả mạo chiều kích thánh
thiêng của ái tình... nhưng
thực ra là tước khỏi ái tình phẩm giá thánh thiêng và làm mất đi nhân tính của ái tình”.143
148. Việc đào
luyện trong các lãnh vực tình cảm và bản năng là cần thiết,
và đôi khi việc này đòi hỏi đặt ra những giới hạn. Sự thái
quá, thiếu kiểm soát hoặc ám ảnh với một hình thức thú vui duy nhất có thể mang
lấy kết cục làm suy yếu và làm ô nhơ
mọi niềm vui144 và làm
nguy hại đến đời sống gia đình. Một người nhất định có thể
trở thành kênh thông truyền các đam mê của mình theo một
cách rất đẹp đẽ và lành mạnh, hướng chúng một cách gia tăng đến sự vị tha và một
sự thành toàn bản thân mang tính hỗ tương vốn chỉ có thể làm phong phú thêm những
mối quan hệ cá nhân trong trung tâm của đời sống gia đình. Điều này không có nghĩa là chối bỏ những
thời khắc vui mừng tột độ,145 mà
hơn thế là tháp nhập chúng với những thời khắc của sự dấn thân đại lượng, niềm
hy vọng nhẫn nại, những mệt mỏi và đấu tranh không thể thiếu để
đạt tới một lý tưởng. Đời sống gia đình là về tất cả điều này, và nó xứng đáng được sống đến mức tròn đầy nhất.
149.
Một số trào lưu linh
đạo dạy rằng cần phải loại bỏ lòng khao khát như là một
con đường giải thoát khỏi đau khổ. Nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa yêu thích niềm vui mà con người cảm nhận
được: Ngài tạo nên chúng ta và “cung cấp dồi dào mọi sự
cho chúng ta hưởng dùng” (1 Tm 6:17). Chúng ta hãy vui mừng khi
bằng tình yêu lớn lao Ngài dạy chúng ta: “Hỡi con, hãy xử tốt với mình… Đừng tước mất của con một ngày hạnh
phúc” (Hc 14:11-14). Các
đôi bạn đã kết hôn cùng một trật đáp trả lại trước ý muốn của Thiên Chúa khi họ đón nhận lệnh truyền của kinh
thánh: “Hãy vui mừng
trong những ngày thịnh vượng”
(Gv 7:14). Điều quan trọng là phải có sự tự do để nhận biết
rằng niềm vui có thể có được những thể hiện khác nhau của nó ở nhiều thời điểm khác nhau của cuộc sống,
hoà hợp với những cần thiết cảu tình yêu đôi bạn. Theo đó, chúng ta có thể trân
trọng những giáo huấn của một số bậc thầy Phương Đông là những người mời gọi
chúng ta mở rộng ý thức của chúng ta, đừng để chúng ta bị tù
túng bởi một kinh nghiệm giới hạn vốn làm che khuất tầm nhìn của chúng ta. Sự mở
rộng ý thức này không phải là một sự chối bỏ hay một sự huỷ diệt lòng khao khát
quá mức mà như là sự mở rộng và hoàn thiện lòng khao khát
ấy.
Chiều kích
ái tình của tình yêu
150. Tất cả điều
này dẫn chúng ta đến chiều kích tính dục của hôn nhân. Chính
Thiên Chúa tạo nền tình dục,
vốn là một quà tặng tuyệt vời cho các loài thọ tạo của Ngài. Nếu món quà này cần
phải được dưỡng nuôi và định hướng, thì là để ngăn chặn “sự khánh kiệt
giá trị đúng đắn”.146 Thánh Gioan Phaolô II
chối bỏ lời tuyên bố rằng giáo huấn của Giáo Hội là “một sự loại trừ giá trị của
tình dục con người”, hoặc rằng Giáo Hội chỉ chịu đựng
tình dục “bởi vì nó cần thiết cho việc sinh sản”.147 Lòng khao khát tình dục
không phải là một điều gì đó đáng bị coi
thường, và “sẽ
không thể có một nỗ lực nào cho bất cứ điều gì để đặt vấn đề về sự cần thiết của tình dục”.148
151. Đối với những
người sợ rằng việc đào luyện các đam mê và đào luyện về tình dục
sẽ lấyđi tính tự nhiên của tình yêu tính dục, Thánh Gioan
Phaolô II trả lời rằng con
người nhân loại được “mời gọi đi vào sự tự nhiên và trưởng thành trọn vẹn trong các
mối quan hệ của họ”, một sự trưởng thành vốn “là hoa trái từng
bước của một sự biện phân các động lực trong tâm hồn của một người”.149 Điều
này đòi hỏi tính kỷ luật và làm chủ bản thân, bởi vì mọi người“phải học, bằng sự nhẫn nại và nhất quán, ý nghĩa của thân xác của
mình”.150 Tình dục không phải là một phương tiện thoả mãn
hoặc giải trí; nó là một ngôn ngữ liên
vị mà trong đó người khác được coi trọng, theo phẩm giá
thánh thiêng và bất khả xâm phạm của họ. Như thế, “tâm hồn con người
sẽ dự phần vào, có thể nói, một kiểu tự nhiên khác”.151 Trong ngữ cảnh này, ái
tình xuất hiện như một biểu hiện tình dục cụ thể của con
người. Nó giúp chúng ta khám phá “ý nghĩa nguyên sơ của thân xác và phẩm giá đúng đắn của quà tặng”.152 Trong các bài giáo lý của Ngài về thần học thân xác, Thánh Gioan
Phaolô II dạy rằng sự khác biệt về phái tính không chỉ là “một nguồn hoa trái
và sinh sản”, mà còn thủ đắc “khả năng thể hiện tình yêu; tình yêu ấy cách cụ thể trong đó con người trở thành một quà tặng”.153 Một lòng khao khát tình dục lành mạnh, mặc dù có liên hệ gần gũi đến việc theo đuổi
một lạc thú, thì luôn liên
hệ đến một cảm thức về sự tuyệt vời, và vì lý do quan trọng đó mà có thể nhân hoá mọi xung năng.
152. Do đó, chẳng
còn cách nào khác, chúng ta có thể coi chiều kích ái tình của
tình yêu đơn giản chỉ như
là một sự dữ được phép hoặc một gánh nặng cần phải chịu đựng vì sự
tốt lànhcủa gia đình. Hơn thế, nó phải được coi là một quà tặng
từ Thiên Chúa làm
phong phú mối quan hệ của đôi bạn. Khi một niềm đam mê được làm cho thăng hoa bởi
một tình yêu tôn trọng phẩm giá của nhau, thì nó trở thành “một
sự khẳng định tinh tuyền, thuần khiết” làm tỏ lộ những điều kỳ diệu mà tâm hồn
của con người có thể có
được. Theo đó, ngay cả lúc này, chúng ta có thể cảm thấy rằng “đời sống trở
nên tốt lành và hạnh phúc”.154
Bạo lực và sự
thao túng
153. Trên nền tảng
của cái nhìn tích cực về tình dục, chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ chủ để bằng một thực tế lành
mạnh. Sau cùng, có một sự thật là tình dục thường trở thành mất
nhân tính và không lành mạnh; kết quả là, “nó trở thành một dịp và một
công cụ cho sự khẳng định bản thân và sự thoả mãn ích kỷ của những khao
khát và bản năng cá nhân”.155 Trong thời đại của
chúng ta, tình dục có nguy cơ trở bị nhiễm độc bởi não
trạng “sự dụng và bỏ đi”. Thân xác của người
khác thường bị coi như một đồ vật để sử dụng chừng nào nó còn mang lại sự
thoả mãn, và bỏ đi
một khi nó không còn hấp dẫn nữa. Chúng ta có thể thực sự phớt lờ hoặc
coi thường những hình
thức liên tục của sự thống trị, kiêu ngạo, lạm dụng, truỵ lạc và bạo lực tình dục
vốn đang là sản phẩm của một sự hiểu biết méo mó về tình
dục không? Hoặc sự thật là phẩm giá của người khác và ơn gọi làm
người của chúng ta để yêu thương thì lại mang lấy kết cục là trở nên kém
quan trọng hơn cả nhu cầu ngớ ngẩn của việc “tìm lấy chính
mình”?
154.
Chúng ta cũng biết rằng, ngay trong chính bản thân hôn nhân, tình dục có thể trở
thành một nguồn đau khổ và thao túng. Do đó cần phải tái
khẳng định lại cách rõ ràng rằng “một hành vi vợ chồng áp
đặt trên người khác mà không chú ý đến hoàn cảnh của người
ấy, hoặc những mong ước cá nhân và hợp lý của người ấy,
thì không phải là hành vi thật sự của tình yêu, và do đó phạm đến trật tự luân lý trong sự
áp dụng cụ thể của nó đối với quan hệ gần gũi của người chồng và người vợ”.156 Những
hành động phù hợp với sự hiệp nhất tính dục của người chồng và người vợ theo
đúng bản chất của tình dục như Thiên Chúa mong muốn
khi chúng diễn ra “theo một cách thế thật sự là nhân bản”.157 Thánh Phaolô khẳng định: “Đừng ai lừa dối và làm tổn
thương anh chị em mình trong vấn đề này” (1 Tx 4:6). Mặc dù
Thánh Phaolô đã viết trong bối cảnh của một nền văn hoá gia trưởng mà trong
đó người phụ nữ bị coi hoàn toàn là phụ đối với người đàn ông, thì Ngài cũng dạy rằng tình dục phải liên hệ đến sự giao tiếp giữa
hai vợ chồng: Ngài đưa ra khả năng trì hoãn các mối quan hệ tình
dục trong một thời gian, nhưng “phải đồng thuận” (1 Cr 7:5).
155.
Thánh Gioan Phaolô II cảnh cáo rất tinh tế rằng một đôi bạn có thể bị “đe doạ bởi sự
vô độ”.158 Nói
cách khác, mặc dù được mời gọi đến với sự hiệp nhất sâu sắc ngày một hơn, thì họ có thể gặp nguy cơ làm lu mờ những khác biệt của họ và khoảng
cách đúng đắn giữa hai người. Vì mỗi người đều thủ đắc một
phẩm giá đúng đắn và bất khả xâm phạm của riêng mình. Khi sự thuộc
về nhau trở thành một sự thống trị, “thì cấu trúc của sự hiệp thông trong các mối
quan hệ cá nhân nhất thiết sẽ bị thay đổi”.159 Chính do bởi não trạng thống trị mà những người thống trị mang
lấy kết cục là loại trừ chính phẩm giá của riêng họ.160 Sau cùng, họ không còn
“đồng hoá bản
thân họ cách chủ quan với thân xác họ nữa”,161 bởi vì họ lấy đi ý nghĩa sâu sắc nhất của nó. Họ
mang lấy kết cục sử dụng tình dục như là một hình thức trốn thoát và loại bỏ vẻ đẹp của sự hiệp nhất vợ chồng.
156.
Mọi hình thức phục tùng tình dục phải được loại bỏ cách rõ
ràng. Điều này bao gồm hết
mọi mọi sự giải thích sai lạc về thông điệp trong Thư gửi Tín Hữu Êphêsô nơi mà Phaolô nói rằng
người phụ nữ “phải phục tùng chồng” (Ep 5:22). Thông điệp này phản ánh các
kiểu văn hoá của thời đó, nhưng sự bận tâm của chúng ta không phải với khuôn mẫu
văn hoá của nó mà là với thông điệp mạc khải mà nó mang lại. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nhận định cách khôn ngoan: “Tình yêu loại trừ mọi
kiểu phục tùng mà ở đó người
vợ có thể trở thành một người tôi tớ hay một nô lệ của người chồng... Cộng đoàn
hay sự hiệp nhất mà họ cần thiết lập ngang qua hôn nhân được thiết lập bởi sự
trao ban bản thân
cho nhau, cũng chính là sự phục tùng nhau”.162 Do đó Thánh Phaolô tiếp tục nói rằng “chồng phải yêu vợ như yêu chính mình” (Ep 5:21). Trong hôn nhân, “sự phục tùng” nhau mang lấy một ý
nghĩa mới, vàđược coi như là một sự thuộc về nhau có chọn lựa được đánh
dấu bởi lòng trung thành, tôn trọng và chăm sóc. Tình dục không thể tách rời khỏi việc phục vụ tình bạn vợ chồng này, vì
nó được tạo nên để trợ
giúp sự thành toàn của người khác.
157.
Cùng một trật, việc chối bỏ những méo mó về tình dục và ái tình cần phải không
bao giờ được dẫn
chúng ta đến sự khinh miệt hay phớt lờ tình dục và ái tình nơi chính chúng. Lý tưởng
về hôn nhân không thể được coi
thuần tuý là một sự cho đi
đại lượng và hy sinh bản thân, nơi mà mỗi người vợ chồng chối bỏ hết mọi nhu cầu
cá nhân và chỉ tìm kiếm lợi ích cho người khác mà không
quan tâm đến sự thoả mãn cá nhân. Chúng ta cần nhớ rằng tình yêu đúng đắn cũng cần biết đón nhận
người khác, chấp nhận sự mỏng manh và những nhu cầu của bản thân, và đón nhận bằng
sự trân trọng và lòng biết ơn vui tươi những biểu
hiện thể lý của tình yêu có được
ở trong một sự âu yếm, một cái ôm, một nụ hôn và sự hiệp nhất tình dục. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI nói về điều
này cách rõ ràng: “Nếu con người chỉ ước ao tinh thần thuần
tuý và chối bỏ xác thịt chỉ thuộc về bản chất động vật của mình mà
thôi, thì cả tinh thần và thể xác sẽ đánh mất đi phẩm giá của chúng”.163 Vì lý do này, “con người không thể sống chỉ bằng tình yêu tách biệt, đi xuống mà thôi. Con người không thể
luôn luôn cho đi, mà cũng cần phải biết nhận lãnh. Bất cứ ai
mong muốn cho đi tình yêu thì cũng phải nhận lãnh tình yêu như một quà tặng”.164 Cũng
thế, chúng ta phải không bao giờ được quên rằng sự quân bình của
con người là mỏng manh; có một phần của chúng ta kháng cự lại sự phát triển nhân
bản thật sự, và bất cứ lúc nào nó có thể làm khai mở những khuynh hướng ban sơ và ích kỷ nhất.
Hôn nhân và
đồng trinh
158.
“Nhiều người không kết
hôn thì không chỉ tận hiến
cho gia đình họ mà thôi mà thường mang lại sự phục vụ lớn lao trong
nhóm bạn của họ, trong cộng đồng Giáo Hội và trong đời sống nghề nghiệp của họ.
Đôi khi sự hiện diện và những đóng góp của họ bị xem thường, tạo nên ở nơi họ một
cảm giác cô lập. Nhiều người dùng tài năng của họ để phục vụ cho cộng đồng Kitô Giáo qua công việc
bác ái và thiện nguyện. Những người khác vẫn không kết hôn bởi vì họ thánh hiến đời
sống của họ cho tình yêu của Đức Kitô và người
thân cận của họ. Sự tận hiến của họ làm phong phú một cách lớn lao đời sống gia đình,
Giáo Hội và xã hội”.165
159. Sự đồng
trinh là một hình thức của tình yêu. Như là một dấu chỉ,
sự đồng trinh nói cho chúng ta về sự ngự đến của Nước Trời và sự cần thiết đối
với sự tận hiến trọn vẹn cho Tin Mừng (x. 1 Cr 7:32). Đó cũng là một sự phản
chiếu về sự trọn vẹn của nước trời, nơi mà“người ta không dựng vợ gả chồng” (Mt 22:30). Thánh Phaolô đề xuất sự đồng trinh bởi vì Ngài mong chờ sự trở lại sẽ tới của Chúa Giêsu và Ngài cảnh báo mọi người hãy chỉ tập trung vào việc loan báo Tin Mừng: “thời gian chẳng còn bao
lâu” (1 Cr 7:25). Tuy nhiên, Ngài làm rõ rằng đây là ý kiến cá nhân và tham
chiếu cá nhân của Ngài (x. 1 Cr 7:6-9), chứ không phải điều gì đó mà Đức Kitô đòi hỏi: “tôi không có
chỉ thị nào của Chúa” (1
Cr 7:25). Cũng thế, Ngài nhận biết giá trị của những ơn gọi khác
nhau: “mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng, kẻ thế này, người
thế khác” (1 Cr 7:7). Suy
tư về điều này, Thánh GioanPhaolô II nhấn mạnh rằng các bản văn kinh
thánh “không
đưa ra một lý do nào để
khẳng định ‘sự thấp
kém’ của hôn nhân, cũng
như “sự trổi
vượt’ của sự
đồng trinh hay sự
khiết tịnh”166 dựa trên sự tiết chế tình dục. Thay vì nói về sự trổi vượt của sự đồng trinh,
thì thật làđủ để nói đến những tình trạng khác
nhau của sự thành toàn đời sống cho nhau, và kết quả là một số người có
thể hoàn hảo hơn bằng cách này và người khác lại bằng cách khác. Alexander
thành Hales chẳng hạn, cho rằng theo một nghĩa nào đó thì hôn
nhân có thể được coi là
cao hơn những bí tích khác, vì nó là biểu tượng của thực
tại cao cả của “sự
hiệp nhất của Đức Kitô
với Giáo Hội, hoặc sự hiệp nhất của thần tính của Ngài với những bản tính nhân
loại của Ngài”.167
160. Do đó, “vấn đề không phải
là loại bỏ đi giá trị của hôn nhân vì sự tiết dục”.168 “Không có cơ sở
nào cho việc coi trọng bậc sống này hơn bậc sống kia....
Nếu, theo một truyền thống thần học nhất định, thì người
ta có thể nói về một ‘tình trạng hoàn hảo’ (status perfectionis),điều này có liên hệ
không chỉ ở nơi chính bản thân sự tiết dục, mà là với toàn bộ đời sống dựa trên
những lời khuyên tin mừng”.169 Một người kết hôn có thể kinh nghiệm
được mức độ bác ái cao nhất và do đó “đạt tới sự hoàn hảo vốn xuất phát từ bác ái, qua sự trung
thành với tinh thần của những lời khuyên dạy này. Sự hoàn hảo như thế là có thể
và đạt tới được đối với hết mọi người nam nữ”.170
161.
Giá trị của sự đồng trinh hệ tại ở chính việc nó là biểu
tượng của một tình yêu không cần chiếm hữu người khác; bằng
cách này nó phản chiếu sự tự do của Nước Trời. Sự đồng trinh khích lệ đôi bạn kết
hôn sống tình yêu vợ chồng của họ dựa trên nền của tình yêu đáng tin cậy nhất của Đức Kitô, trong hành trình
cùng nhau đi đến sự thành toàn
của Nước Trời. Về
phần nó, tình yêu vợ chồng là biểu tượng cho những giá trị khác. Một mặt, đó là một sự phản chiếu cụ thể của sự hiệp nhất trọn vẹn
trong sự cách biệt có ở nơi Ba Ngôi. Gia đình cũng là một dấu chỉ
của Đức Kitô. Nó làm tỏ hiện sự
gần gũi của Thiên Chúa Đấng
là một phần của mọi đời sống con người, bởi vì Ngài trở nên một
với chúng ta ngang qua sự
nhập thể, sự chết và phục sinh của Ngài. Mỗi người bạn đời trở nên “một xương một
thịt” với
người kia như là một dấu chỉ của sự sẵn lòng chia sẻ hết mọi sự với người ấy cho đến
chết. Trong khi sự đồng trinh là một dấu chỉ “mang tính cánh chung” của
Đức Kitô phục
sinh, thì hôn nhân là một dấu chỉ “mang tính lịch sử” đối với chúng ta đang sống trong thế
gian, một dấu chỉ của Đức Kitôtrần thế Đấng đã chọn để trở nên một với chúng ta và trao
ban chính bản thân Ngài vì chúng ta cho đến nỗi đổ máu đào của Ngài. Sự đồng
trinh và hôn nhân là, và phải là, những cách thế yêu khác nhau. Vì “con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người
vẫn là một hữu thể
không thể hiểu nổi đối với
chính bản thân con người, cuộc đời của con người là vô nghĩa, nếu tình yêu không được
mạc khải cho con người”.171
162. Sự khiết tịnh
có thể có nguy cơ trở thành một đời sống độc thân an nhàn vốn mang lại sự tự do
để được độc lập, rời khỏi nơi ở, công việc hoặc chọn lựa của
mình đến một nơi khác, xải
tiền theo nhu cầu và dùng thời gian với người khác như người ta muốn. Trong những
trường hợp như vậy, thì chứng tá của người kết hôn trở nên đặc biệt
rõ nét. Những người được mời gọi sống đồng trinh có thể gặp
gỡ ở nơi một số cuộc hôn nhân một dấu chỉ rõ ràng của lòng trung
thành đại lượng và kiên vững
của Thiên Chúa đối với giao ước của Ngài, và điều này
có thể dẫn họ đến một sự sẵn lòng đại lượng và cụ thể hơn với người
khác. Nhiều đôi bạn kết hôn vẫn trung thành khi một trong hai người họ trở nên
không còn hấp dẫn về thể lý nữa, hoặc không còn thoả mãn được những nhu cầu của người kia nữa,
bất chấp những tiếng nói trong xã hội của chúng ta có thể đang khích lệ họ trở nên không trung
thành hoặc bỏ người kia. Một người vợ có thể chăm sóc cho người chồng bị bệnh của mình
và dođó, trong việc đến gần với
Thập Giá, canh tân
sự cam kết của mình để yêu
cho đến chết. Trong tình yêu như thế, phẩm giá của người
yêu đích thực chiếu toả, như thế thật là một sựthích hợp đối với bác ái để yêu thương hơn là được
yêu thương.172 Chúng ta cũng có thể cho thấy sự hiện diện trong nhiều gia đình một khả năng quên mình
và sự phục vụ yêu thương khi con cái gặp rắc rối và thậm chí cả khi vô
ơn. Điều này làm cho những bậc cha mẹ này trở thành một dấu chỉ của tình yêu nhưng không và quên mình của Chúa Giêsu. Những trường hợp như thế này khích lệ
những người sống khiết tịnh sống sự dấn thân của họ cho Nước Trời bằng một sự đại
lượng và sự cởi mở lớn lao hơn. Ngày nay, tục hoá đã làm lu mờ
giá trị của sự hiệp nhất dài lâu suốt đời và vẻ đẹp của ơn gọi hôn nhân.
Vì lý do này, thật “cần thiết để đào sâu một sự hiểu biết
về những khía cạnh tích cực của tình yêu vợ chồng”.173
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA
TÌNH YÊU
163. Giờ đây tuổi thọ ngày càng cao có nghĩa là các mối quan hệ gần gũi và
đặc biệt phải kéo
dài khoảng bốn, năm hay thậm
chí sáu mươi năm; do đó, quyết định ban đầu phải thường xuyên được canh tân đổi
mới. Trong khi một trong hai người bạn đời có thể không còn kinh nghiệm được một lòng
khao khát tình dục mạnh mẽ đối
với người kia nữa, thì người ấy vẫn có thể kinh nghiệm được
niềm vui của sự thuộc về nhau và sự hiểu biết rằng không ai trong họ đang cô
đơn mà có một “người
bạn đời” đang
chia sẻ mọi thứ trong cuộc sống. Người ấy là một người bạn đường trong hành trình của cuộc sống, cùng
với người ấy đối diện với những khó khăn của cuộc sống và vui hưởng niềm vui của
cuộc sống. Sự thoả mãn này là một phần của tình cảm thích hợp với
tình yêu vợ chồng. Không có sự đảm
bảo nào là chúng ta sẽ cảm thấy như nhau trong suốt cuộc đời. Nhưng nếu một đôi
bạn có thể đi với nhau được dự án chung và hết đời, thì họ có thể
yêu thương nhau và sống với nhau nên một cho đến khi cái chết chia lìa họ, vui hưởng một sự gần gũi làm phong phú.
Tình yêu mà họđoan hứa thì lớn hơn bất kì một cảm xúc, cảm nhận hay
tình trạng tâm trí nào, mặc dù nó có thể bao hàm hết tất cả những điều này. Đó là một
tình yêu sâu đậm hơn, một
quyết định cả đời của con tim. Ngay giữa những mâu thuẫn chưa giải quyết được
và những hoàn cảnh bối rối về mặt cảm xúc, hằng ngày họ tái khẳng định lại quyết
định yêu thương của mình, để thuộc về nhau, để chia sẻ cuộc sống
với nhau và tiếp tục yêu thương và tha thứ. Mỗi người tiến bước trên con đường
của sự trưởng thành và phát triển cá nhân. Trên hành trình này,
tình yêu vui mừng trong mọi bước đi và trong mọi giai đoạn mới.
164.
Trong tiến trình của mọi cuộc hôn nhân những biểu hiện thể lý bên ngoài thay đổi, nhưng diều này không
có nghĩa là tình yêu và sự hấp dẫn cần phải tàn phai. Chúng ta yêu người
khác vì họ là, chứ không chỉ vì thân xác của họ. Mặc dù thân xác
trở nên già nua, thì nó vẫn thể hiện rằng căn tính cá nhân là điều đầu
tiên giành được trái tim của chúng ta. Ngay cả khi người khác không còn có thể thấy được
vẻ đẹp của căn tính ấy, thì một người bạn đời vẫn tiếp tục
thấy điều đó bằng đôi mắt của tình yêu và vì thế tình cảm
của họ vẫn không suy giảm. Người ấy tái khẳng định lại quyết định để thuộc về
nhau và thể hiện sự chọn lựa ấy trong sự gần gũi yêu thương và trung thành. Sự
cao quý của quyết
định này, bởi sức mạnh và chiều sâu của nó, làm xuất hiện một kiểu tình cảm mới khi họ chu toàn sứ mạng hôn nhân của họ. Vì “tình cảm, được tạo nên bởi một con người khác
trong tư cách là một người...thì không có khuynh hướng tự
nó là một hành vi vợ chồng”.174 Tình cảm ấy có những
cách thể hiện nhạy cảm khác. Thực ra, tình yêu “là một thực tại đơn nhất,
nhưng với nhiều chiều kích khác nhau; ở nhiều thời điểm khác nhau, chiều kích này hay chiều
kích kia có thể xuất hiện rõ ràng hơn”.175 Mối dây liên kết hôn nhân có được những
hình thức thể hiện mới và liên lỉ tìm kiếm những cách thế mới để phát triển trong sự mạnh mẽ. Những hình thức này vừa
bảo tồn và củng cố mối dây liên kết. Chúng đòi hỏi sự nỗ lực hằng
ngày. Tuy nhiên, không một
điều nào trong hai điều này là có thể nếu không có sự cầu nguyện
với Chúa Thánh Thần xin sự
tuôn đổ ân sủng của Ngài, sức mạnh siêu nhiên của Ngài và ngọn lửa thiêng liêng
của Ngài, hướng dẫn và biến đổi tình yêu của chúng ta trong mọi
hoàn cảnh mới.
Giuse
Phạm Duy Cường - Dịch Giả Thông Điệp Laudato Si' (Bản chính thức của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam)
104 Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 1641
105 x. Benedict XVI, Thông Điệp Deus
Caritas Est (25/12/2005),
2: ASS 98 (2006), 218.
106 Bài Linh Thao, Chiêm Niệm Về Việc
Đạt Tới Tình Yêu (230).
107 Octavio Paz, La llama doble, Barcelona,
1993, 35.
108 Tôma Aquinô, Tổng
Luận Thần Học II-II, q. 114, art 2, ad 1.
109 Bài Giáo Lý (13/05/2005: L’Osservatore
Romano, 14/05/2015, tr. 8.
110 Tôma Aquinô, Tổng
Luận Thần Học II-II, q. 27, art 2, ad 1.
111 Ibid., q. 27, art. 1.
112 Bài Giáo Lý
(13/05/2015): L’Osservatore Romano, 14/05/2015, tr. 8.
113 Gioan Phaolô II, Tông Huấn Familiaris
Consortio (22/11/1981),
21: ASS 74 (1982), 106.
114
Martin Luther King Jr., Bài Giảng tại Giáo Hội Ân Điển Đại Lộ Dexter, Montgomery, Alabama,
17/11/1957.
115 Tôma
Aquinô, gọi tình yêu là một avis unitiva (Tổng Luận Thần Học I, q.20, art. 1,
ad 3), lặp lại một cụm của Tân Dionysius Đệ Areopagite (De Divinis Nominibus, IV, 12: PG 3, 709).
116 Tôma
Aquinô, Tổng Luận Thần Học II-II,
q. 27, art. 2.
117 Tông Thư
Casti Connubii (31/12/1930): ASS 22 (1930), 547-548.
118 Gioan
Phaolô II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22/11/1981) 13: AAS 74 (1982), 94.
119 Giáo Lý
(02/04/2014): L’Osservatore Romano, 3/4/2014, tr. 8.
120 Ibid.
121 Gioan
Phaolô II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22/11/1981) 9: AAS 75 (1982), 90.
122 Tôma
Aquinô, Summa Contra Gentiles III,
123; x. Aristotle, Nicomachean Ethics, 8, 12 (ed. Bywater, Oxford, 1984, 174).
123
Tông Thư Lumen Fidei (29/07/2013), 52: ASS 105 (2013), 590.
124 De
sacramento matrimonii, I, 2; in Id., Disputationes, III, 5, 3 (ed. Giuliano,
Naples, 1858), 778.
125 Công Đồng
Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Hiện Đại Gaudium
et Spes, 50.
126 Ibid., 49.
127 x. Tổng
Luận Thần Học I-II, q.31, art 3., ad 3.
128 Công Đồng
Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Hiện Đại Gaudium
et Spes, 48.
129 x. Tôma
Aquinô, Tổng Luận Thần Học I-II,
q. 26, art. 3.
130 Ibid., q.
110, art. 1.
131 Augustinô, Tự
Thuật, VIII, III, 7: PL 32, 752.
132 Diễn Văn trước Cuộc Hành
Hương Gia Đình trong Năm Đức Tin (26/10/2013): ASS
105 (2013), 980.
133 Thông Điệp Kinh Truyền
Tin (29/12/2013: L’Osservatore Romano, 30-31/12/2013, tr.7.
134 Diễn Văn trước Cuộc Hành
Hương Gia Đình trong Năm Đức Tin (26/10/2013): ASS
105 (2013), 978.
135 Tổng Luận Thần Học II-II, q. 24, art. 7.
136 Công Đồng Đại
Kết Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Hiện ĐạiGaudium et Spes, 48.
137 Hội Đồng
Giám Mục Chile, La vida y la familia: regalos de Dios para cada uno de nosotros (21/07/2014).
138
Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Hiện Đại Gaudium et Spes,
49.
139 A.
Sertillanges, L’Amour chrétien, Paris, 1920, 174.
140 x. Tôma
Aquinô, Tổng Luận Thần Học
I-II, q. 24, art. 1.
141 x. ibid., q. 59, art. 5.
142
Tông Thư Deus Caritas Est (25/12/2005), 3: AAS 98 (2006), 219-220.
143 Ibid., 4:
AAS 98 (2006), 220
144 x. Tôma
Aquinô, Tổng Luận Thần Học
I-II, q. 32, art. 7.
145 x. Id., Tổng Luận Thần Học II-II, q. 153, ad 2: “Abundantia delectationis quae est
in actu venereo secundum rationem ordinato, non contrariatur medio virtutis”.
146 Gioan
Phaolô II, Giáo Lý (22/10/1980), 5: Insegnamenti III/2
(1980), 951.
147 Ibid., 3.
148 Id., Giáo
Lý (24/09/1980), 4: Insegnamenti
III/2 (1980), 719.
149 Giáo Lý
(12/11/1980), 2: Insegnamenti
III/2 (1980), 1133
150 Ibid., 4
151 Ibid., 5
152 Ibid., 1: 1132.
153 Giáo Lý
(16/01/1980), 1: Insegnamenti
III/1 (1980), 151.
154 Josef
Pieper, Über die Liebe, Munich,
2014, 174. Tiếng Ánh: Về Tình Yêu, trong Niềm Tin, Hy Vọng, Tình Yêu, San
Francisco, 1997, tr. 256.
155 Gioan
Phaolô II, Tông
Thư Evangelium Vitae (25/03/1995), 23: AAS 87 (1995),
427.
156 Phaolô VI, Tông Thư Humanae Vitae (25/07/1968), 13: ASS 60 (1968),
489.
157 Công Đồng Đại
Kết Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Hiện ĐạiGaudium et Spes, 49.
158 Giáo Lý
(18/07/1980), 5: Insegnamenti III/1 (1980), 1778.
159 Ibid.,
6.
160 x. Giáo Lý
(30/07/1980), 1: Insegnamenti III/2 (1980), 311.
161 Giáo Lý
(08/04/1981), 3: Insegnamenti IV/1 (1981), 904
162 Giáo Lý
(11/08/1982), 4: Insegnamenti V/3 (1982), 205-206.
163
Tông Thư Deus Caritas Est (25/12/2005), 5: AAS 98 (2006), 221.
164 Ibid., 7.
165 Relatio Finalis 2015, 22.
166 Giáo Lý
(14/04/1982), 1: Insegnamenti V/1 (1982), 1176.
167 Glossa in quatuor libros
sententiarum Petri Lombardi, IV, XXVI, 2 (Quaracchi, 1957, 446).
168 Gioan
Phaolô II, Giáo Lý (07/04/1982), 2: Insegnamenti V/1 (1982), 1127.
169 Id., Giáo
Lý (14/04/1982), 3: Insegnamenti V/1 (1982), 1177.
170 Ibid.
171 Id., Tông Thư Redemptor Hominis (04/03/1979), 10: AAS 71 (1979), 274.
172 x. Tôma
Aquinô, Tổng Luận Thần Học, II-II, q. 27, art. 1
173
Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình, Gia Đình, Hôn Nhân và Sự Hiệp Nhất “Thực Sự”(26/07/2000),
40.
174 Gioan
Phaolô II, Giáo Lý (31/10/1984), 6: Insegnamenti VII/2 (1984), 1072. 175
175 Benedict
XVI, Tông Thư Deus Caritas Est (25/12/2005), 8: AAS 98 (2006), 224.