TÔNG HUẤN Redemptoris Custos
TÔNG HUẤN REDEMPTORIS
CUSTOS
ĐẤNG GÌN GIỮ CHÚA CỨU
THẾ
Về dung mạo và sứ mạng của thánh Giuse
trong cuộc đời của Chúa Giêsu và của Hội thánh.
* Bản dịch của Học viện Đa
Minh
Kính gởi các Giám mục,
Linh mục và Phó tế,
tu sĩ nam nữ,
và tất cả mọi tín hữu giáo dân,
NHẬP
ĐỀ
1. Được kêu gọi gìn giữ Chúa Cứu
Thế, “ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24)
Ngay từ những thế kỷ đầu, do cảm
hứng từ Tin Mừng, các Giáo phụ đã chứng tỏ cho thấy rõ ràng rằng thánh Giuse,
như đã ân cần săn sóc đức Maria và đã tận tình dạy dỗ đức Kitô trong niềm vui
sướng,[1] thì Người cũng là Đấng gìn giữ, bảo
trợ Thân Mình của đức Kitô, tức là Giáo Hội mà Đức Thánh Trinh Nữ là hình bóng
và là khuôn mẫu.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm công bố
thông điệp Quamquam Pluries của ĐGH Lêô XIII[2],
và trong đường hướng tôn kính thánh Giuse đã có từ nhiều thế kỷ, tôi muốn cùng
anh chị em suy niệm một vài tư tưởng về Đấng mà Thiên Chúa “đã trao phó cho
việc gìn giữ kho tàng quý giá nhất của Người”[3].
Tôi vui mừng thực hiện công tác mục vụ này để làm tăng triển lòng sùng kính của
mọi người đối với Đấng bảo trợ Giáo hội toàn cầu, cũng như làm tăng triển tình
yêu đối với Đấng Cứu Thế mà thánh Giuse đã phục vụ một cách gương mẫu.
Như thế, không những toàn thể dân
Kitô hữu sẽ nhiệt thành hơn trong việc chạy đến vói thánh Giuse và khẩn khoản
nài xin Người bảo trợ, nhưng Dân Chúa còn nhìn thấy được cách thức khiêm nhường
và khôn ngoan của thánh Giuse trong việc phục vụ và tham dự vào nhiệm cục cứu
độ.[4]
Thật vậy, tôi nhận thấy rằng, nếu
có được một suy tư mới mẻ về việc tham dự của vị Hôn phu đức Maria vào mầu
nhiệm thần linh, thì Giáo hội, trong bước đường đi tới tương lai cùng với toàn
thể nhân loại, sẽ không ngừng tìm thấy được căn tính của mình trong khung cảnh
kế hoạch cứu độ, kế hoạch này đặt nền tảng trong mầu nhiệm Nhập The.
Không kể đức Maria, Thân mẫu của
Ngôi Lời Nhập Thể, thánh Giuse Nadarét rõ ràng đã tham dự vào mầu nhiệm Nhập
Thể nhiều hơn ai hết. Cùng với Đức Mẹ, thánh Giuse đã tham dự vào mầu nhiệm đó,
đã được lôi cuốn vào trong thực tại của cùng một biến cố cứu độ, và Người đã là
người được ký thác cùng một tình yêu, nhờ tình yêu đó, Chúa Cha vĩnh cửu đã
“tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,5)
I. KHUNG CẢNH CỦA TIN MỪNG
CUỘC HÔN NHÂN VỚI ĐỨC MARIA
2. “Này ông Giuse, là con cháu
Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông ve, vì người con bà cưu mang
là do Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là
Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi” (Mt 1,20-21)
Những lời này gói ghém điều cốt yếu
của chân lý Thánh Kinh về thánh Giuse và về thời gian tại thế của Người mà các
giáo phụ thường đặc biệt quy chiếu.
Thánh Mátthêu giải thích ý nghĩa
thời gian đó bằng việc xác định cách sống của thánh Giuse. Tuy nhiên, để hiểu
đầy đủ nội dung và văn mạch đoạn văn đó, cần phải đặt nó song song với
đoạn Tin Mừng của Luca. Thật vậy, khi đối chiếu với câu: “Sau đây
là gốc tích đức Giêsu Kitô: bà Maria mẹ Người, đã đính hôn với ông
Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền
năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18), ta thấy thiên chức làm mẹ “do bởi Chúa Thánh
Thần” của Đức Maria trong bản văn của Luca nói về biến cố Truyền Tin được mô tả
chi tiết và rõ ràng hơn. “Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền
Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là
Giuse, thuộc nhà Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1,26-27). Những lời của
sứ thần: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28) làm
cho Đức Maria bối rối và phải suy nghĩ. Khi đó thiên sứ trấn an đức Maria và
bày tỏ cho bà biết ý định đặc biệt của Thiên Chúa đối với bà: “Thưa bà
Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh
hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi
là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua
Đavít, tổ tiên Người” (Lc 1,30-32).
Trước đó một chút, thánh sử đã xác
định rằng khi được sứ thần truyền tin, đức Maria “đã đính hôn với một người tên
là Giuse, thuôc nhà Đavít”. Tính chất của cuộc “hôn nhân” này được gián tiếp
giải thích trong câu hỏi của đức Maria khi nghe thiên sứ báo việc sinh hạ một
con trai: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ
chồng” (Lc 1,34). Khi đó, sứ thần trả lời: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên
bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế kẻ sắp sinh ra sẽ là
thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Đức Maria dù đã “kết hôn” với
thánh Giuse, vẫn mãi mãi đồng trinh, bởi vì Con Trẻ Người cưu mang khi Truyền
Tin là do Chúa Thánh Thần.
Về điểm này, bản văn Luca trùng hợp
với Mt 1,18 và giúp giải thích cho điều chúng ta vừa đọc: (theo Matthêu), sau
khi đính hôn với thánh Giuse, đức Maria “thấy mình có thai do bởi Chúa Thánh
Thần”, điều đó hoàn toàn phù hợp với biến cố Truyền tin (ở Luca), nhất là với
những lời cuối cùng của Đức Maria: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói” (Lc 1,38). Đức Maria đáp lại ý định rõ ràng của Thiên Chúa, và ngày qua
tháng lại, trước mặt nhân loại và thánh Giuse, đức Maria trở thành như một
người có thai, như một phụ nữ sẽ sinh con và mang trong mình huyền nhiệm làm
mẹ.
3. Trong hoàn cảnh như vậy, “ông
Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới
định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Thánh Giuse không biết phải cư xử
thế nào trước sự kiện làm mẹ “kỳ lạ” của Maria. Chắc chắn là thánh Giuse đã tìm
cách giải đáp thắc mắc làm ông lo ngại, nhưng nhất là phải tìm lối thoát khỏi
tình cảnh khó khăn này. Khi thánh Giuse “đang toan tính như vậy, thì kìa sứ
thần Chúa hiện đến báo mông cho ông rằng: “Này ông Giuse là con cháu
Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang
là do Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là
Giêsu vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi” (Mt 1,20-21)
Hai bản văn “Truyền Tin” của
Matthêu và Luca có rất nhiều nét giống nhau. Sứ thần Thiên Chúa dẫn đưa
Giuse vào huyền nhiệm làm mẹ của Maria. Người phụ nữ, theo pháp luật là hôn
thê của thánh Giuse, tuy vẫn hoàn toàn đồng trinh, đã trở thành mẹ do Chúa
Thánh Thần. Và khi người con trong lòng đức Maria chào đời thì sẽ được đặt tên
là Giêsu. Đó là một tên gọi quen thuộc trong dân Ítraen và người ta thỉnh
thoảng cũng đặt tên đó cho các trẻ em. Tuy nhiên, đây lại là người Con,
theo lời hứa của Thiên Chúa, sẽ hoàn tất trọn vẹn ý nghĩa của tên đó:
Giêsu, -Yêhôsua có nghĩa là Thiên Chúa cứu.
Sứ thần Thiên Chúa ngỏ lời với
thánh Giuse như là “người chồng của Maria”, là người, khi đến thời đến buổi, sẽ
đặt tên Giêsu cho con trẻ sinh ra do Trinh nữ đã đính hôn với ông. Như vậy khi
ngỏ lời với thánh Giuse, sứ thần đã giao phó cho thánh Giuse những
nghĩa vụ của một người cha trần thế đối với người con của đức Maria.
“Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như
sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Thánh Giuse đã đón nhận đức Maria
cùng với huyền nhiệm làm mẹ của Người, ông đón nhận Maria cùng với người con sẽ
được sinh ra do quyền năng Chúa Thánh Thần: như thế thánh Giuse tỏ ra một
ý muốn sẵn sàng, giống như đức Maria, đối với điều Thiên Chúa đã yêu cầu
qua lời sứ thần.
II. NGƯỜI ĐƯỢC KÝ THÁC MẦU NHIỆM CỦA THIÊN CHÚA
4. Ít lâu sau biến cố Truyền Tin,
đức Maria đi đến nhà Dacaria để thăm người bà con là Êlidabét. Khi nghe lời
chào của đức Maria, Êlidabét “được tràn đầy Thánh Thần” (xc. Lc 1,41) đã đáp
lại. Sau những lời có liên hệ chặt chẽ với lời chào của thiên sứ trong biến cố
Truyền Tin, Êlidabét nói thêm: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực
hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Những lời này đã là tư tưởng then
chốt của thông điệp Redemptoris Mater (Thân Mẫu Đấng Cứu Thế),
trong đó tôi muốn đào sâu giáo huấn của Công đồng Vaticanô II: “Đức Trinh Nữ
đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con Mình
cho đến bên thập giá”[5],
Mẹ “đi tiên phong”[6] những
người bước theo Chúa Kitô do lòng tin.
Bây giờ, vào lúc khởi đầu cuộc lữ
hành này, đức tin của đức Maria đã gặp đức tin của thánh Giuse. Nếu bà Êlidabét
đã nói với Mẹ Đấng Cứu Thế: “Phúc thay kẻ đã tin”, thì người ta cũng có thể
phần nào áp dụng mối phúc ấy cho thánh Giuse, bởi vì ông đã chấp thuận lời
Thiên Chúa ngỏ với ông trong giây phút quyết định đó. Nói đúng ra, ông Giuse
không đáp lại “lời truyền tin” của sứ thần như đức Maria, nhưng ông đã “làm như
sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”. Điều ông Giuse làm là một
sự “tuân phục của lòng tin” rất thuần tuy (xc. Rm 1,5;
16,26; 1 Cr 10,5-6).
Ta có thể nói rằng điều ông
Giuse làm đã nối kết Người một cách hết sức đăc biệt với đức tin của
đức Maria: ông Giuse đã chấp nhận điều mà trước đó đức Maria đón nhận khi được
truyền tin, như là một chân lý đến từ Thiên Chúa. Công đồng nói: “Phải bày tỏ
sự tuân phục của lòng tin đối với Thiên Chúa mạc khải. Nhờ sư
vâng phục đó, con người phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa một cách tự do, “dâng
lên Thiên Chúa mạc khải sự quy phục hoàn toàn của lý trí và ý chí” đồng thời
sẵn sàng chấp nhận mạc khải Người ban cho”[7].
Câu này, liên quan đến chính yếu tính của đức tin, được áp dụng trọn vẹn cho
ông Giuse người Nadarét.
5. Như thế, thánh Giuse được đặc
biệt trở thành người được ký thác mầu nhiệm “đã được giữ kín
từ muôn thuở nơi Thiên Chúa” (xc Ep 3,9), cũng như đức Maria đã được ký thác
như vậy trong giây phút quyết liệt mà thánh Tông đồ gọi là “khi thời gian
tới hồi viên mãn”, tức là khi “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con
một người đàn bà” để “cứu chuộc những ai sống dưới lề luật” để “ban cho họ ơn
làm nghĩa tử” (xc Gl 4,4-5). Thánh Công đồng nói: “Thiên Chúa nhân lành và khôn
ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý
Người (xc Ep 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô,
Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên
Chúa.” (xc Ep 2,18; 2 Pr 1,4)[8]
Cùng với đức Maria, thánh Giuse là
người đầu tiên được ký thác mầu nhiệm này của Thiên Chúa. Đồng thời và cùng với đức Maria,
thánh Giuse tham dự vào giai đoạn cao điểm của Mạc Khải, tức là việc Thiên Chúa
tỏ mình ra trong đức Kitô, và thánh Giuse đã tham dự từ giây phút khởi sự. Khi
đọc bản văn của hai thánh sử Matthêu và Luca, người ta cũng có thể nói rằng
thánh Giuse là người đầu tiên tham dự vào niềm tin của Mẹ Thiên Chúa, và như
thế, thánh Giuse nâng đỡ bạn mình trong niềm tin vào điều thiên sứ loan báo,
thánh Giuse cũng là người đã được Thiên Chúa đặt ở hàng đầu trên con
đường lữ hành đức tin, con đường mà đức Maria, nhất là khởi từ đồi
Can-vê và ngày Hiện xuống, sẽ là người đi tiên phong một cách tuyệt vời. [9]
6. Con đường cá biệt của thánh
Giuse, cuộc lữ hành đức tin của Người sẽ kết thúc trước, nghĩa là
trước khi đức Maria hiện diện dưới chân thập giá trên đồi Gôlgôtha và khi Đức
Kitô đã về cùng Chúa Cha, trước khi Mẹ Maria trở lại nhà Tiệc ly vào ngày Giáo
hội được sinh ra từ sức mạnh của Thánh Thần Chân lý và được bày tỏ cho thế
giới. Tuy nhiên con đường đức tin của thánh Giuse cũng theo một hướng
đó, hoàn toàn được quy định bởi cũng một mầu nhiệm; cùng với Mẹ Maria,
thánh Giuse trở thành người đầu tiên được ký thác mầu nhiệm đó. Nhập thể và Cứu
độ cùng làm nên môt thực thể duy nhất hữu cơ, bất khả phân, trong đó, “công
cuộc mạc khải được thực hiện bằng các biến cố và lời nói liên kết mật thiết với
nhau”[10]. Chính vì sự duy nhất này, đức Gioan
XXIII, người rất mực tôn kính thánh Giuse, đã quyết định rằng, trong lễ quy
Rô-ma, để muôn đời kính nhờ mầu nhiệm Cứu độ, danh tánh thánh Giuse được thêm
vào bên cạnh tên đức Maria, trước các tông đồ, các thánh giáo hoàng và các
thánh tử đạo[11].
NHIỆM VỤ CỦA VAI TRÒ LÀM CHA
7. Như ta thấy từ các bản văn Tin
Mừng, cuộc hôn nhân với đức Maria là nền tảng pháp lý cho vai trò làm cha của
thánh Giuse. Chính để bảo đảm một sự hiện diện phụ tử bên cạnh đức Giêsu mà
Thiên Chúa đã chọn thánh Giuse làm bạn của đức Maria. Như thế vai trò làm cha
của thánh Giuse “mối tương quan này đưa thánh Giuse đến thật gần với đức Kitô,
là cùng đích của mọi việc tuyển chọn và mọi ơn tiền định (xc Rm 8,28-29)” được
thực hiện qua cuộc hôn nhân với đức Maria, nghĩa là qua đời sống gia đình.
Trong khi quả quyết rõ ràng rằng
đức Giêsu được hoài thai nhờ Chúa Thánh Thần và đức Maria vẫn trọn vẹn đồng
trinh (xc Mt 1,18-25; Lc 1,26-38), các thánh ký vẫn gọi thánh Giuse là chồng
của đức Maria và đức Maria là vợ của thánh Giuse (xc Mt 1,16.18-24; Lc 1,27;
2,5).
Đối với Giáo hội cũng thế, nếu cần
phải tuyên bố rằng đức Giêsu được cưu mang trong sự đồng trinh thì cũng cần
phải bảo vệ cuộc hôn nhân giữa đức Maria và thánh Giuse, vì vai trò
làm cha của thánh Giuse lệ thuộc, theo pháp lý, vào cuộc hôn nhân đó. Như thế,
người ta hiểu tại sao dòng dõi đức Giêsu lại được kể theo gia phả thánh Giuse.
Thánh Augustinô tự hỏi: Tại sao các dòng dõi đó lại không thể thuộc về gia phả
của thánh Giuse được? Thánh Giuse không phải là chồng của đức Maria sao? (. .
.) Qua lời nói đầy uy tín của sứ thần, Kinh thánh xác quyết rằng Giuse là chồng
của đức Maria. Sứ thần nói: “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con
bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” Thánh Giuse được lệnh đặt tên
cho Hài Nhi theo dòng họ mình, dù rằng Hài Nhi không sinh ra do ông. Sứ thần
nói: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu.”
Kinh thánh biết rõ ràng là Đức Giêsu không sinh ra từ tinh trùng của thánh Giuse,
bởi vì thánh Giuse còn đang bận tâm về nguồn gốc việc thụ thai của đức Maria,
sứ thần đã nói với thánh Giuse: điều đó là do Thánh Thần. Tuy thế,
quyền làm cha của thánh Giuse không mất đi, bởi vì thánh Giuse được lệnh lấy
tên dòng họ mình đặt cho Con Trẻ. Sau cùng chính Đức Trinh Nữ Maria, dù ý thức
rõ ràng mình đã thụ thai đức Kitô không do liên hệ hôn nhân với thánh Giuse,
nhưng vẫn gọi thánh Giuse là cha của Đức Kitô”[12]
Vì mối dây hôn phối liên kết hai
người, nên người con trai của đức Maria cũng là con của thánh Giuse:
“Vì mối dây hôn nhân trung tín này, cả hai xứng đáng được gọi
là cha mẹ của đức Kitô, không phải chỉ có đức Maria được gọi là Mẹ, nhưng cả
thánh Giuse cũng được gọi là Cha của đức Kitô và là người chồng của đức Maria,
bởi vì cả hai trở thành cha mẹ không phải do xác thịt mà do tinh thần.”[13] Trong cuôc hôn nhân này, không
thiếu sót điều gì cả: “Nơi cha mẹ của đức Kitô, tất cả những thiện hảo của hôn
nhân đã được thực hiện: sinh con, trung tín, bí tích. Như chúng ta biết, sinh con chính
là Chúa Giêsu; trung tín bởi vì không hề có ngoại tình;
và bí tích vì không có ly dị”[14]
Khi phân tích cuộc hôn nhân này,
thánh Augustinô cũng như thánh Tôma đều luôn luôn cho rằng bản chất của nó là
do “sự liên kết chặt chẽ của hai tinh thần”, trong “sự liên kết của hai tâm
hồn”, trong “sự đồng lòng”[15],
tất cả những yếu tố đó được tỏ hiện môt cách gương mẫu trong cuộc hôn nhân này.
Vào lúc cao điểm của lịch sử cứu độ, khi Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Người
cho nhân loại qua việc ban Ngôi Lời, thì rõ ràng chính cuộc hôn nhân
của Maria và Giuse, với trọn vẹn tự do, đã thực hiện được “sự dâng hiến
chính mình trong hôn nhân” bằng cách đón nhận và diễn tả môt tình yêu như thế[16]. “Trong công cuôc đổi mới mọi sự trong
Đức Kitô, hôn nhân cũng được thanh tẩy và đổi mới, trở thành một thực tại mới,
một bí tích của Giao Ước mới. Và ở đây cũng như trong Giao Ước cũ, Giao Ước
được khởi đầu với một đôi vợ chồng. Tuy nhiên, trong khi đôi vợ chồng Ađam và
Evà là nguồn sự dữ lan tràn trên trần gian, thì đôi bạn thánh Giuse và đức
Maria lại là cao điểm từ đó sự thánh thiện tuôn tràn trên toàn trái đất. Đấng
Cứu thế đã bắt đầu công trình cứu độ của Người nhờ sự liên kết đồng trinh và
thánh thiện này, trong đó thể hiện được tất cả ý muốn quyền năng của Người
nhằm thanh tẩy và thánh hóa gia đình, là ngôi đền thánh của tình
yêu và là cái nôi của sự sống”[17]
Có biết bao bài học được rút ra cho
đời sống gia đình ngày nay. Bởi vì “yếu tính của gia đình và các bổn phận gia
đình dứt khoát phải được xác định bằng tình yêu” và vì “gia đình lãnh
nhận trách nhiệm gìn giữ, bày tỏ và thông truyền tình yêu, là phản
ảnh sống đông và là sự tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại,
vào tình yêu của Chúa Kitô đối với hiền thê của Người là Giáo hội”[18], tất cả các gia đình Kitô giáo phải tìm
thấy hình ảnh của mình trong gia đình thánh đó, “Giáo hội thu nhỏ”[19] tuyệt diệu đó. Quả thât, nơi đây,
do “ý định kỳ diệu của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã sống ẩn dật suốt nhiều năm
dài. Như thế, thánh gia là mô hình và là mẫu gương cho mọi gia đình Kitô giáo”[20]
8. Thiên Chúa đã gọi thánh Giuse để
trực tiếp phục vụ chính đức Giêsu và sứ vụ của Người qua việc thực thi
trách nhiệm làm cha: chính bằng cách đó, vào thời viên mãn, thánh Giuse đã
cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ lớn lao và người đích thật là “thừa tác viên của
ơn cứu độ” [21].
Trách nhiệm làm cha của thánh Giuse được diễn tả cụ thể trong sự kiện: “Người
đã biến cuộc đời mình thành môt sự phục vụ, một sự hy sinh cho mầu nhiệm Nhập
Thể và cho sứ vụ cứu độ gắn kèm theo đó; đã sử dụng uy quyền pháp lý đối với
thánh gia để trao ban bản thân, cuộc sống và công tác; đã biến đổi ơn gọi tự
nhiên trong tình yêu gia đình thành nên một hiến tế siêu nhiên chính bản thân
mình, trái tim và tất cả sức lực của mình cho tình yêu phục vụ Đấng Cứu Thế đã
sinh ra trong nhà mình”[22]
Phụng vụ nhắc lại rằng “thánh Giuse
đã được trao phó việc gìn giữ các mầu nhiệm cứu độ vào lúc bình minh của thời
đại mới”[23] và xác quyết rằng Người là “đầy tớ
trung tín và khôn ngoan mà Thiên Chúa đã trao phó thánh gia để Người coi sóc
như người Cha đối với Con duy nhất”[24]
Đức Lêô XIII nhấn mạnh tính cách
cao cả của sứ mệnh này: “Do phẩm cách rất cao sang, thánh Giuse sáng chói giữa
mọi người, bởi vì do ý muốn của Thiên Chúa, thánh Giuse đã là người giữ gìn Con
Thiên Chúa, và nhân loại nhìn lên Người như người Cha của mình; từ đó suy ra
rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đã khiêm nhường lụy phục thánh Giuse, đã vâng lời và
đã thảo kính đối với thánh Giuse theo những nghĩa vụ đòi buộc mọi người con đối
với cha mẹ mình” [25]
Không thể quan niệm một trách vụ
cao cả như thế lại không đòi những đức tính cần thiết để chu toàn. Như vậy,
thánh Giuse, “nhờ ân huệ đặc biệt từ trời, có tất cả tình thương tự nhiên, tất
cả sự ân cần âu yếm mà trái tim môt người cha có thể có được”[26]
Cùng với quyền thế của một người
cha đối với đức Giêsu, Thiên Chúa cũng ban cho thánh Giuse môt tình yêu xứng
hợp, tình yêu bắt nguồn từ trong Chúa Cha, là “nguồn gốc mọi gia tộc trên trời
dưới đất.” (Ep 3,15)
Trong các sách Tin Mừng, trách vụ
làm cha của thánh Giuse đối với đức Giêsu được mô tả rõ ràng. Thật vậy, tuy vẫn
tôn trọng sự “hạ mình” vốn có trong nhiệm cục Nhập Thể, ơn cứu độ, nhờ nhân
tính đức Giêsu, được thể hiện trong những hành vi làm nên đời sống gia đình
hằng ngày. Các thánh ký đã rất quan tâm đến việc minh chứng rằng, trong đời
sống đức Giêsu, không có điều gì là tình cờ và tất cả đều diễn ra theo kế hoạch
Thiên Chúa đã thiết lập từ trước. Công thức thường được nhắc đi nhắc lại: “Điều
đó xảy ra để hoàn tất . . . “ cũng như việc quy chiếu từng biến cố vào một bản
văn Cựu ước là nhằm để nhấn mạnh sự duy nhất và liên tục trong dự định của
Thiên Chúa, dự định đó hoàn thành trong Đức Kitô.
Qua biến cố Nhập Thể, “các lời hứa”
và “các hình bóng” của Cựu ước trở thành “những thực tại”: các nơi chốn, các
nhân vật, biến cố, nghi thức hòa lẫn vào nhau theo trật tự rõ ràng của Thiên
Chúa, được các thiên thần loan báo và được các nhân vật nhạy cảm đặc biệt với
lời Thiên Chúa đón nhận. Đức Maria là tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, được
chuẩn bị từ muôn thuở cho sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa; thánh Giuse là người Thiên
Chúa đã chọn để làm “người sắp xếp cho việc Chúa sinh ra”[27],
là người có trách vụ bảo đảm cho việc Con Thiên Chúa đến trần gian “đúng như dự
định”, trong sự tôn trọng những an bài của Thiên Chúa và những quy định của
nhân loại. Tất cả đời sống “riêng tư” và “ẩn dật” của đức Giêsu được giao phó
cho thánh Giuse coi sóc.
CUỘC KIỂM TRA DÂN SỐ
9. Khi trở về Bêlem để chịu kiểm
tra dân số theo lệnh quyền bính hợp pháp, thánh Giuse đã hoàn thành một trách
vụ quan trọng và có ý nghĩa đối vói Hài Nhi , đó là đăng ký chính thức với
chính quyền dân sự của đế quốc: Hài Nhi được mang tên là “Giêsu, con ông Giuse
Nadarét” (xc. Ga 1,45)
Việc ghi danh này cho thấy rõ ràng
đức Giêsu thuộc dòng giống nhân loại, như môt người trong muôn người, là công
dân của thế giới này, tuân theo các luật pháp và các định chế dân sự, nhưng
Người cũng là “Đấng Cứu Độ thế giới”. Ông Origène diễn giải ý nghĩa thần
học bao hàm trong sự kiện kịch sử này thật hay, đó không phải là một sự kiện
bên lề: “Tôi sẽ làm gì với câu chuyện này, câu chuyện đồng thời kể về cuộc kiểm
tra dân số đầu tiên của toàn thể thế giới vào thời hoàng đế Augustô, kể về cuộc
hành trình của “Thánh Giuse cùng với đức Maria, người vợ đang mang thai” bước
đi giữa lòng nhân loại để cùng đăng ký vào sổ nhân khẩu, kể về việc Chúa Giêsu
sinh ra nơi trần gian trước khi cuộc kiểm tra nhân khẩu chấm dứt? Với những ai
biết quan sát kỹ lưỡng, họ sẽ thấy những biến cố này là dấu hiệu của một mầu
nhiệm. Đức Giêsu cũng phải chịu cuộc kiểm tra nhân khẩu trong lần kiểm tra của
toàn thể thế giới, bởi vì Người muốn được ghi tên cùng với mọi người để thánh
hóa mọi người, Người muốn có tên trong danh sách cùng với toàn thể thế giới, để
cho thế giới được sống hiệp thông với Người. Sau cuộc kiểm tra này, Người muốn
kiểm tra tất cả mọi người cùng với mình trong sổ hằng sống và với tất cả những
ai đã tin nơi Người, Người muốn ghi tên họ trên trời cùng với các thánh của
Đấng nắm giữ tất cả vinh quang và sức mạnh từ thế kỷ này sang thế kỷ kia. Amen”[28]
GIÁNG SINH Ở BÊLEM
10. Là người quản lý “mầu nhiệm đã
được giấu kín từ muôn thuở” trong Thiên Chúa và nay bắt đầu được thể hiện ra
trước mắt mình khi “đến thời viên mãn”, thánh Giuse cùng với đức Maria
trong đêm ở Bêlem, là nhân chứng đặc biệt của việc Con Thiên Chúa sinh ra
nơi trần gian. Thánh Luca đã diễn tả việc đó như sau: “Khi hai người đang ở
đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng,
lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ
trong nhà trọ.” (Lc 2,6-7)
Thánh Giuse là nhân chứng nhãn tiền của việc sinh hạ này, diễn ra
trong những điều kiện khiêm tốn của nhân loại, đó là lời tiên báo đầu tiên về
việc “tự huỷ” (xc. Pl 2,5-8) mà Đức Kitô đã tự do chấp nhận để thứ tha tội lỗi.
Đồng thời thánh Giuse cũng là nhân chứng việc các mục đồng tìm đến thờ
lạy đức Giêsu sinh ra sau khi được thiên thần loan báo Tin Mừng lớn
lao và diễm phúc đó (xc. Lc 2,15-16). Về sau, thánh Giuse còn là nhân
chứng việc các đạo sĩ từ phương đông đến tỏ lòng tôn kính Chúa.(xc. Mt
2,11)
CẮT BÌ
11. Nhiệm vụ tôn giáo đầu tiên của
người cha là cắt bì cho con trai: với nghi thức này (xc Lc 2,21) thánh Giuse
thực thi quyền lợi và nghĩa vụ của Người đối với Đức Giêsu. Tất cả những nghi
thức của Cựu ước chỉ là hình bóng của thực tại (xc Dt 9,9-10; 10,1), nguyên tắc
đó giúp ta hiểu được tại sao đức Giêsu chấp nhận những nghi thức Cựu ước. Cũng
như các nghi thức khác, nghi thức cắt bì được “hoàn tất” nơi đức Giêsu. Giao
ước của Thiên Chúa với Ápraham mà việc cắt bì là dấu chỉ (xc St 17,13) đạt đến
hiệu quả tròn đầy nơi đức Giêsu, bởi vì đức Giêsu là lời “Amen” của tất cả
những lời hứa cũ (2 Cr 1,20) .
ĐẶT TÊN
12. Khi cắt bì, thánh Giuse đặt tên
cho Con Trẻ là Giêsu, đó là tên duy nhất mang lại ơn cứu độ (xc Cv 4,12) và ý
nghĩa chính của tên đó được bày tỏ cho thánh Giuse vào lúc “truyền tin” cho
Người: “Ông phải đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người
khỏi tội lỗi” (Mt 1,21). Khi đặt tên cho Hài Nhi theo dòng họ mình, thánh Giuse
đã tỏ ra quyền làm cha hợp pháp của mình đối với đức Giêsu, và khi đặt tên đó,
thánh Giuse công bố sứ vụ cứu độ của Hài Nhi.
DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ
13. Nghi thức này, được thánh Luca
thuật lại (2,22tt), bao gồm việc chuộc lại người con đầu lòng và
cũng soi sáng cho sự việc tương lai của đức Giêsu khi Người ở lại trong đền thờ
lúc 12 tuổi.
Việc chuộc lại người con đầu lòng
cũng là một nghĩa vụ của người cha và thánh Giuse đã chu toàn nghĩa vụ đó. Con
đầu lòng tượng trưng cho Dân Giao ước, sẽ được cứu khỏi ách nô lệ để thuộc về
Thiên Chúa. Trên bình diện này cũng thế, vì đức Giêsu là “giá chuộc”
đích thật (xc 1 Cr 6,20; 7,23; 1 Pr 1,19), nên Người không chỉ “hoàn tất” nghi
thức của Cựu ước, nhưng đồng thời Người cũng vượt qua nghi thức đó; thật vậy,
Người không phải là đối tượng để chuộc lại nhưng là chính tác giả của việc cứu
chuộc.
Thánh ký ghi nhận rằng: “Cha và mẹ
Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon nói về Người” (Lc 2,33) nhất là về
điều ông nói trong bài ca chúc tụng Thiên Chúa, trong đó, ông giới thiệu đức
Giêsu là “Ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”, là “ánh sáng soi đường cho
dân ngoại, và là vinh quang của Ítraen dân Người”, xa hơn một chút, ông nói
Người cũng là “dấu hiệu bị người đời chống báng.” (Lc 2,30-34)
TRỐN SANG AI CẬP
14. Sau biến cố dâng con trong đền
thờ, thánh Luca ghi: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền,
thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi
ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng
Thiên Chúa.” (Lc 2,39-40)
Tuy nhiên, theo bản văn Mátthêu,
trước khi trở về Galilê, còn có một biến cố rất quan trọng, trong đó, Thiên
Chúa quan phòng lại nhờ đến thánh Giuse: “Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì
kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài
Nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì
vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !”“ (Mt 2,13) Khi các nhà chiêm tinh từ
phương đông đến, vua Hêrôđê biết “vua dân Do thái” (Mt 2,2) đã sinh ra, và khi
họ bỏ đi, ông “sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân
cận.” (Mt 2,16) Như thế, khi giết tất cả các trẻ em vùng đó, Hêrôđê muốn giết
Đấng vừa sinh ra, “vua dân Do thái”, mà ông đã nghe nói khi các nhà chiêm tinh
đến thăm viếng ở triều đình. Trong khi đó, sau khi đã nghe lời báo trong giấc
mộng, thánh Giuse “đang đêm đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập.
Ông ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa
phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi Con Ta ra khỏi Ai cập.”“ (Mt
2,14-15; xc Hs 11,1)
Như vậy con đường của đức Giêsu từ
Bêlem về Nadarét phải đi qua Ai cập. Cũng như Ítraen xưa, “từ tình trạng nô
lệ”, đã bước theo con đường xuất hành để bắt đầu Giao ước cũ, thì cũng
vậy, thánh Giuse, người được giao phó và cộng tác vào mầu nhiệm quan
phòng của Thiên Chúa, cũng coi sóc Đấng thực hiện Giao ước mới trong bước
lưu đày.
CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ
15. Theo một nghĩa nào đó, từ biến
cố Truyền Tin, thánh Giuse cùng với đức Maria đã hiện diện ở trung tâm
mầu nhiệm từ muôn thuở vẫn ẩn giấu nơi Thiên Chúa và nay được tỏ hiện:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1,14) Ngôi
Lời ở giữa loài người và nơi Người sinh sống là thánh gia Nadarét, là
một trong nhiều gia đình sinh sống tại thành phố nhỏ miền Galilê, một trong
nhiều gia đình thuộc đất Ítraen. Tại đó, Đức Giêsu đã lớn lên: “Hài Nhi ngày
càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên
Chúa.” (Lc 2,40) Các thánh sử đã cô đọng trong vài dòng cả một quãng
đời dài “ẩn dật”, thời gian đức Giêsu dành cho việc chuẩn bị sứ vụ Thiên
Sai. Suốt thời gian “ẩn dật” đó, chỉ có một biến cố được nêu lên, thánh Luca
ghi lại như sau: “Dịp lễ Vượt Qua ở Giêrusalem lúc đức Giêsu được mười hai
tuổi”.
Đức Giêsu tham dự vào cuộc lễ này
như một người hành hương trẻ, cùng với đức Maria và thánh Giuse .Và rồi, “xong
kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem mà cha mẹ chẳng
hay biết” (Lc 2,43). Sau một ngày đàng, hai ông bà mới biết rằng mình lạc mất
con, và họ bắt đầu đi tìm “giữa đám bà con và người quen thuộc, sau ba ngày, hai
ông bà mới tìm thấy con trong Đền thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ
vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cũng phải ngạc nhiên về trí thông minh và những lời
đáp của cậu.” (Lc 2, 46-47) Mẹ Người nói: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ
như vậy? Con thấy không, cha và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !”
(Lc 2, 48) Câu trả lời của đức Giêsu khá lạ lùng đến nỗi hai ông bà “không hiểu
nổi”. Người nói: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có
bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49-50) Thánh Giuse mà đức Maria vừa
gọi là “cha của con” cũng nghe câu trả lời đó. Thật vậy, mọi người đều nói và
“nghĩ rằng đức Giêsu là con ông Giuse theo như thiên hạ tưởng” (Lc 3,23). Câu
trả lời trong đền thờ ít nhiều đã làm sống lại trong tâm trí người “cha giả
định” câu nói mà Người đã nghe vào một đêm nọ, trước đó mười hai năm: “Này ông
Giuse… đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do
quyền năng Chúa Thánh Thần”. Từ đó, thánh Giuse hiểu rằng mình là người
quản lý mầu nhiệm của Thiên Chúa, và hôm nay, khi lên mười hai tuổi, đức
Giêsu rõ ràng nhắc lại mầu nhiệm đó: “Con có bổn phận ở nhà của Cha con.”
ĐỨC GIÊSU SINH SỐNG VÀ ĐƯỢC DƯỠNG
DỤC TẠI NADARÉT
16. Đức Giêsu lớn lên “ngày càng
khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,51). Điều đó
được thực hiện trong khung cảnh thánh gia, dưới sự chăm sóc của thánh Giuse,
người có trách vụ cao cả là “dưỡng dục”, nghĩa là lo cơm ăn áo mặc cho Chúa
Giêsu và dạy dỗ về lề luật cũng như huấn luyện nghề nghiệp cho Người theo trách
nhiệm của một người cha.
Trong Thánh lễ, Giáo hội kính nhớ
đức Maria trọn đời đồng trinh và thánh Giuse[29] vì
“người nuôi nấng Đấng mà các tín hữu phải nhận lấy mà ăn như bánh trường sinh”[30]
Còn Đức Giêsu, Người “vâng phục cha
mẹ” (Lc 2,51) kính cẩn đền đáp những chăm sóc của cha mẹ. Như thế,
Người muốn thánh hóa những bổn phận của đời sống gia đình cũng như của công
việc lao đông mà Người thực hiện cùng với thánh Giuse.
III.
NGƯỜI CÔNG CHÍNH “ VỊ HÔN PHU
17. Trong suốt cuộc sống, một cuộc
lữ hành trong đức tin, thánh Giuse cũng như đức Maria, luôn tuyệt đối trung
thành với tiếng gọi của Thiên Chúa. Cuộc đời của đức Maria là sự thể hiện tột
cùng lời “xin vâng” của ngày Truyền Tin, còn thánh Giuse, như chúng ta
đã thấy, Người chẳng nói gì khi được “truyền tin”, nhưng chỉ “thực hiện như sứ
thần Chúa dạy.” (Mt 1,24) Và việc thực hiện đầu tiên
này là khởi điểm cho hành trình của thánh Giuse, Suốt cuộc hành
trình đó, các thánh sử không ghi lại một lời nói nào của Người, nhưng sự
im lặng của thánh Giuse có một tính hùng hồn đặc biệt: chính nhờ sự im
lặng đó, người ta có thể hiểu được đầy đủ chân lý hàm chứa trong nhận định của
Tin Mừng về thánh Giuse: “Đấng Công Chính” (Mt 1,19)
Cần phải hiểu rõ chân lý này, vì nó
chứa đựng một trong những chứng từ quan trọng nhất về con người cũng như ơn gọi
của mình. Qua các thời đại, Giáo hội ngày càng nghiên cứu chứng từ này một cách
cẩn thận và ý thức hơn, dường như Giáo hội rút ra từ kho tàng của dung mạo đặc
biệt này “cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13, 52)
18. Trước hết, “người công chính”
thành Nadarét có những tư cách nổi bật của một người chồng. Tin Mừng nói rằng
đức Maria là “một thiếu nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse.” (Lc 1,27)
Trước khi “mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa” (Ep 3,9) bắt đầu
thể hiện, Tin Mừng trình bày cho chúng ta hình ảnh một cặp vợ chồng. Theo phong
tục Do thái, hôn nhân chia thành hai giai đoạn: trước hết người ta lập hôn thú
theo pháp luật (hôn nhân thật sự) và chỉ sau đó một thời gian chú rể mới đón vợ
mình về. Trước khi chung sống với đức Maria, thánh Giuse đã là “chồng” của cô
rồi. Tuy vậy đức Maria vẫn giữ trong lòng ước nguyện dâng hiến trọn vẹn
cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể đặt vấn đề ước nguyện đó dung hợp thế nào
được với “hôn nhân”. Câu hỏi này chỉ được giải đáp qua diễn tiến các biến cố
cứu độ, nghĩa là qua hành động đặc biệt của chính Thiên Chúa. Từ ngày Truyền
tin, đức Maria hiểu rằng Mẹ phải thể hiện ước nguyện sống trinh khiết để hiến
dâng cho Thiên Chúa một cách dứt khoát và trọn vẹn trong chính lúc trở
thành Mẹ của Con Thiên Chúa. Thiên chức làm mẹ do tác động của Chúa Thánh
Thần là một hình thức dâng hiến mà Thiên Chúa chờ đợi nơi đức Trinh Nữ đã kết
hôn với thánh Giuse. Đức Maria thưa: “Xin Vâng”.
Sự kiện đức Trinh Nữ đã “đính hôn”
với thánh Giuse cũng nằm trong chính chương trình của Thiên Chúa.
Đó là điều mà các thánh sử Luca và Matthêu đã trình bày, nhất là nơi Matthêu.
Những lời sứ thần nói với thánh Giuse rất có ý nghĩa “Đừng ngại đón bà
Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng
Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Những lời này cho thấy mầu nhiệm nơi vị hôn thê của
thánh Giuse: Maria vẫn đồng trinh trong việc làm mẹ. Nơi đức Maria, “Con Đấng
Tối Cao” đón nhận một thân xác phàm nhân và trở nên “Con loài người”.
Khi nói với thánh Giuse qua lời sứ
thần, Thiên Chúa như nói với người chồng của trinh nữ Nadarét. Điều
đang được thực hiện nơi đức Maria do tác đông của Thánh Thần đồng thời cũng cho
thấy một phê chuẩn đặc biệt cho mối liên hệ phu thê đã có giữa
thánh Giuse và đức Maria. Sứ thần nói rõ ràng với thánh Giuse: “Đừng ngại đón
bà Maria vợ ông về”. Như thế điều này xảy ra trước đó – tức là cuộc hôn nhân
với đức Maria – là do thánh ý Thiên Chúa và vì vậy phải được duy trì. Trong
thiên chức Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria phải tiếp tục sống như một “trinh nữ, hôn
thê của một hôn phu.” (xc. Lc 1,27)
19. Qua những lời “truyền tin” báo
mộng, thánh Giuse không những lắng nghe ý định của Thiên Chúa và ơn gọi khôn
lường của bạn mình, nhưng Người còn lắng nghe ý nghĩa ơn gọi của chính
mình. “Người công chính” này, theo tinh thần những truyền
thống cao đẹp nhất của dân được chọn, đã yêu thương đức Trinh Nữ Nadarét và gắn
bó với cô bằng mối dây phu phụ, giờ đây nữa, lại được Thiên Chúa kêu gọi sống
tình yêu đó.
“Ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy
và đón vợ về nhà”. Thai nhi trong lòng Mẹ là “do Chúa Thánh Thần”: qua những
lời đó, phải chăng lại không thể kết luận rằng nơi thánh Giuse, tình
yêu của môt người nam cũng được Chúa Thánh Thần đổi mới hay sao? Chẵng lẽ
không thể cho rằng tình yêu Thiên Chúa mà Thánh Thần đổ tràn vào tâm hồn con
người (xc Rm 5,5) đã tác động vào mọi tình yêu nhân loại một cách hoàn thiện
nhất hay sao? Tình yêu đó cũng tác động “một cách hoàn toàn đặc biệt” vào tình
yêu phu phụ của các cặp vợ chồng và khắc ghi vào đó những gì xứng đáng và tốt
đẹp của con người, những gì mang ấn dấu của sự từ bỏ chính mình hoàn toàn, của
giao ước giữa các cá vị, và của sự hiệp thông đích thật vào mầu nhiệm Ba Ngôi.
“Ông Giuse… đón vợ về nhà. Ông
không ăn ở với ba, cho đến khi bà sinh môt con trai” (xc. Mt 1,24-25).
Những lời này cho thấy một sự thân mật khác của đời sống hôn
nhân. Tình thân mật sâu đậm đó, sự gắn bó tinh thần trong mối hiệp nhất và giao
tiếp giữa hai con người “nam và nữ” phát xuất từ chính Chúa Thánh Thần là Đấng
ban sự sống (xc. Ga 6,63). Thánh Giuse vâng lệnh Chúa Thánh Thần đã tìm thấy
nguồn suối tình yêu nơi Người, tình yêu của một người chồng, và tình yêu này
lớn lao hơn điều mà “người công chính” có thể chờ đợi theo mức độ của trái tim
con người.
20. Trong phụng vụ, đức Maria được
xưng tụng là đã kết hiệp với “thánh Giuse, người công chính, bằng tình yêu vợ
chồng và trinh khiết”.[31] Thật
vậy, hai tình yêu đó cùng nói lên mầu nhiệm của Giáo hội “ Trinh Nữ và Hiền Thê
“ mà cuộc hôn nhân giữa đức Maria và thánh Giuse là biểu tượng. “Trinh khiết và
độc thân vì Nước Trời không làm giảm thiểu phẩm giá hôn nhân chút nào, ngược
lại, nó giả thiết và củng cố phẩm giá ấy. Hôn nhân và trinh khiết là hai cách
để diễn tả và sống mầu nhiệm duy nhất của Giao ước Thiên Chúa với dân Người”[32], tức là sự hiệp thông tình yêu giữa
Thiên Chúa và con người.
Qua sự tự hiến hoàn toàn, thánh
Giuse diễn tả tình yêu quảng đại đối với Mẹ Thiên Chúa, dành cho Mẹ “sự dâng
hiến chính mình trong hôn nhân”. Mặc dù đã quyết định ra đi để khỏi cản trở
chương trình của Thiên Chúa đang thực hiện nơi đức Maria, nhưng theo lệnh rõ
ràng của sứ thần, thánh Giuse đã đón đức Maria về nhà và tôn trọng việc Mẹ hoàn
toàn thuộc về Thiên Chúa.
Hơn nữa, qua cuộc hôn nhân với đức
Maria, thánh Giuse đã có được phẩm giá độc nhất và các quyền đối với đức Giêsu.
“Chắc chắn phẩm giá làm Mẹ Thiên Chúa rất cao vời, không thụ tạo nào cao hơn
được nữa, nhưng vì thánh Giuse đã kết hiệp với đức Trinh Nữ bằng mối dây hôn
nhân, nên hơn hết mọi người, chắc chắn Người cũng đạt đến gần phẩm giá
siêu vời đó, phẩm giá đã làm cho Mẹ Thiên Chúa vượt hẳn trên mọi thụ tạo.
Thật vậy, hôn nhân là một cộng đồng và là ơn hiệp nhất sâu xa hơn hết; sự hiệp
nhất đó, tự nó, đưa tới sự chung nhau các thiện hảo giữa vợ chồng. Cũng thế,
khi chọn thánh Giuse làm hôn phu của đức Maria, Thiên Chúa đã ban cho đức Maria
không những một người bạn đời, môt chứng nhân của sự trinh khiết, một người bảo
vệ danh dự, nhưng chính nhờ khế ước hôn nhân, còn là một người tham gia vào
phẩm giá siêu vời của đức Maria”[33]
21. Mối dây đức ái đó đã làm nên
nếp sống của thánh gia, lúc đầu trong cảnh đạm bạc ở Bêlem, rồi trong cuộc lưu lạc
sang Ai-cập, và sau cùng trong đời sống tại Nadarét. Giáo hội đặc biệt tôn kính
gia đình này, đặt lên làm gương mẫu cho mọi gia đình. Gia đình Nadarét vừa hội
nhập trực tiếp vào mầu nhiệm Nhập Thể vừa cũng làm nên một mầu nhiệm đặc biệt.
Đồng thời, trong mầu nhiệm này “ cũng như trong mầu nhiệm Nhập Thể “ tình phụ
tử có một vị trí: gia đình của Con Thiên Chúa mang hình thức nhân loại,
được thiết lập do mầu nhiệm Thiên Chúa. Trong gia đình này, thánh Giuse
là người cha; tư cách làm cha đó không do việc sinh sản; tuy nhiên cũng
không phải là “giả danh” hay chỉ là “thay thế”, nhưng có đầy đủ tính
cách đích thật của quyền làm cha theo khía cạnh nhân loại và của vai
trò làm cha trong gia đình. Ở đây ta nhận thấy một hệ quả của mầu nhiệm Ngôi
Hiệp: nhân tính được kết hiệp với Ngôi Vị duy nhất của Ngôi Lời, là Chúa Con,
tức là đức Giêsu Kitô.
Không chỉ nguyên nhân tính,
nhưng tất cả những gì của nhân loại cũng được “tiếp nhận” vào
trong đức Kitô, đặc biệt là gia đình, khung cảnh đầu tiên của con người
sống trên trần gian. Trong bối cảnh đó, cả quyền làm cha theo khía cạnh con
người của thánh Giuse cũng được “tiếp nhận” trong đức Kitô.
Theo nguyên tắc đó, câu nói của đức
Maria với Chúa Giêsu trong đền thờ mang ý nghĩa sâu xa: “Cha của con và mẹ đi
tìm con.” Đó không phải là một câu nói bình thường: câu nói của Mẹ đức Giêsu
cho thấy tất cả thực tại của mầu nhiệm Nhâp Thể, thực tại thuộc mầu nhiệm gia
đình Nadarét. Chắc chắn, ngay từ đầu, “khi vâng phục trong niềm tin” để
chấp nhận vai trò làm cha theo tính cách nhân loại đối với Chúa Giêsu, theo sự
soi sáng của Chúa Thánh Thần ban cho con người qua đức tin, thì thánh Giuse
cũng khám phá ngày càng rõ hơn hồng ân khôn lường của vai trò làm cha.
IV. LAO ĐÔNG, BIỂU HIỆN CỦA TÌNH YÊU
22. Một trong những biểu hiện
thường nhật của tình yêu trong gia đình Nadarét là lao động. Bản văn Tin Mừng xác định cách
thức thánh Giuse làm việc để nuôi gia đình: nghề thợ mộc. Từ ngữ
ngắn gọn bao gồm tất cả cuộc đời của thánh Giuse. Còn đối với đức Giêsu, đó là
nơi Người trải qua những năm tháng ẩn dật mà Tin Mừng nhấc đến sau biến cố
trong đền thờ: “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nadarét và hằng
“vâng phục” các ngài” (Lc 2,51). Vâng phục ở đây, tức là đức Giêsu vâng lời
trong mái nhà Nadarét , cũng được hiểu là sự tham gia vào công việc lao
động của thánh Giuse. Cậu bé được người ta gọi là “con bác thợ mộc” đã học
nghề nơi người “được coi là cha”. Nếu trong kế hoạch của ơn cứu độ và của sự
thánh thiện, gia đình Nadarét là một tấm gương và là kiểu mẫu cho các gia đình
nhân loại, thì một cách tương tự, người ta cũng có thể nói như thế về công
việc của Chúa Giêsu bên cạnh bác thợ mộc Giuse. Trong thời đại chúng ta, ngoài
các ý nghĩa khác, Giáo hội đã nhấn mạnh đến giá trị lao động qua việc ấn định
lễ kính nhớ thánh Giuse lao đông ngày 01.05. Lao động của con người,
nhất là công việc tay chân, được nhấn mạnh đặc biệt trong Tin Mừng.
Lao đông được đón nhận vào mầu nhiệm Nhâp Thể cùng với nhân tính của Con Thiên
Chúa, và cũng được cứu đô một cách đặc biệt. Qua khung cảnh xưởng
mộc, nơi Người làm việc cùng với Chúa Giêsu, thánh Giuse đã đưa công việc của
con người đến gần mầu nhiệm cứu độ.
23. Trong thời gian đức Giêsu lớn
lên “trong sự khôn ngoan, vóc dạng và ân sủng”, nhân đức cần cù làm
việc có một vai trò quan trọng: vì “lao đông là một thiện hảo của con
người”, “biến đổi thiên nhiên” và theo một nghĩa nào đó, “làm cho con người trở
nên người hơn”.[34]
Tầm quan trọng của lao đông trong
cuộc sống con người buộc người ta phải nhận thức và nhận lấy các yếu tố của nó
hầu “giúp đỡ mọi người, nhờ lao đông, tiến lại gần Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và
Cứu Độ; thứ đến, tham gia vào chương trình cứu đô của Người đối với nhân loại
và thế giới; ngoài ra còn giúp họ gắn bó hơn trong cuộc sống thân mật với Đức
Kitô qua việc tham dự bằng đức tin sống động vào ba sứ vụ của Người: Tư Tế,
Ngôn Sứ, vàVương Đế” [35]
24. Cuối cùng là việc thánh hóa đời
sống thường nhật: mỗi người phải hướng tới việc đó tùy theo hoàn cảnh của mình
và nêu lên như một gương mẫu mọi người có thể noi theo: “Thánh Giuse là gương
mẫu của những con người khiêm tốn mà Kitô giáo có thể dẫn đưa tới những vận
mệnh lớn lao; thánh Giuse là bằng chứng cho thấy rằng, để là môn đệ tốt và đích
thật của đức Kitô, không cần thiết phải có những “kỳ công” mà chỉ cần những
nhân đức thông thường, nhân bản, đơn sơ nhưng phải là những nhân đức thật sự và
đích đáng”[36]
V. ĐỊA VỊ CAO TRỌNG CỦA ĐỜI SỐNG NỘI TÂM
25. Bầu khí thinh lặng quanh những
gì liên quan đến con người thánh Giuse cũng lan tỏa đến công việc thợ mộc của
Người trong ngôi nhà Nadarét. Tuy nhiên, đó là môt sự thinh lặng cho
thấy được một cách đặc biệt con người nội tâm của thánh Giuse. Các sách Tin
Mừng chỉ nói tới những gì “thánh Giuse làm”, nhưng cũng giúp chúng ta khám phá
được “trong những hành động” luôn thấm nhuần sự thinh lặng của Người có
một bầu khí chiêm niệm sâu xa. Hằng ngày thánh Giuse tiếp xúc với
“mầu nhiệm được giấu kín từ bao thế hệ”, mầu nhiệm đã “cư ngụ” dưới mái gia
đình của thánh Giuse. Sự kiện đó giúp ta hiểu tại sao thánh nữ Têrêxa Giêsu, vị
cải tổ lớn của dòng Carmel chiêm niệm, đã trở nên người cổ võ cho việc canh tân
lòng sùng kính đối với thánh Giuse trong Giáo hội Kitô giáo Tây phương.
26. Trong suốt cuộc đời, thánh
Giuse đã thể hiện một sự hiến dâng tuyệt đối để đáp ứng những nhu cầu của cuôc
sống của Đấng Cứu Thế trong nhà mình, sự hiến dâng đó nảy sinh “từ đời sống nội
tâm rất sâu xa của Người, nhờ đó, Người nghe được những mệnh lệnh và tìm thấy
những khích lệ thật đặc biệt; từ đời nội tâm đó, Người tìm được sự hợp lý và
sức mạmh thích hợp cho những tâm hồn đơn sơ và trong sáng; từ đời nội tâm đó,
Người có được những quyết định mạnh mẽ, chẳng hạn, mau mắn sẵn sàng tuân theo
chương trình của Thiên Chúa trong ý muốn tự do, trong ơn gọi đích thật của con
người, trong hạnh phúc hôn nhân; đồng thời chấp nhận hoàn cảnh, trách nhiệm
cũng như những khó khăn của đời sống gia đình, và khước từ tình yêu hôn nhân tự
nhiên, vốn làm nên và nuôi dưỡng đời sống gia đình, để có được một tình yêu
trinh khiết không gì so sánh được”[37]
Việc tuân phục Thiên Chúa như vậy,
nghĩa là ý muốn mau mắn hiến dâng tất cả để phục vụ Thiên Chúa, không gì khác
hơn là thể hiện lòng đạo đức (devotio), làm nên một
trong những cách diễn tả của nhân đức thờ phượng (virtus religio)[38].
27. Đời sống hiệp thông giữa thánh
Giuse và đức Giêsu còn giúp chúng ta nhìn ngắm mầu nhiệm Nhập Thể một cách
chính xác dưới khía cạnh nhân tính của đức Kitô, là dụng cụ hữu hiệu của thiên
tính để thánh hóa nhân loại. “Nhờ thiên tính, những hành vi nhân loại của đức
Kitô đã có tính cách cứu độ cho chúng ta, làm phát sinh trong chúng ta ân sủng
về mặt công phúc cũng như hiệu năng.[39]
Trong số những hành vi này, các
thánh ký đăc biệt nói tới những hành vi liên hệ với mầu nhiệm Vượt Qua; tuy
nhiên các ngài đã không quên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đụng chạm thật
sự tới Đức Giêsu trong những lần Người chữa bệnh (xc. thí dụ, Mc 1,41), hoặc bỏ
đi ảnh hưởng của Người đối với Gioan Tẩy Giả khi cả hai còn trong bụng mẹ. (xc.
Lc 1,41-44)
Như đã thấy, khi làm chứng cho đức
Kitô, các tông đồ đã không bỏ qua việc mô tả Người được sinh ra, chịu cắt bì,
được dâng trong đền thờ, trốn sang Ai-cập và đời sống ẩn dật tại Nadarét ; đó
là vì “mầu nhiệm” của ân sủng hàm chứa trong những “hành vi” như thế, tất cả
những hành vi đó đều có tính cách cứu dộ, vì tham dự vào cùng một nguồn suối
tình yêu: thiên tính của Đức Kitô. Nếu tình yêu này, do nhân tính của đức Kitô,
giãi sáng trên tất cả mọi người, thì hẳn nhiên những người đầu tiên được thừa
hưởng là những người mà Thiên Chúa muốn đưa vào trong mối tình thân mật sâu xa
nhất: đức Maria mẹ của Người, và thánh Giuse, người được coi là cha giả định
của Người.[40]
Bởi vì tình yêu “phụ tử” của thánh
Giuse không thể nào không ảnh hưởng đến tình yêu “con thảo” của Đức Giêsu, và
ngược lại, tình yêu “con thảo” của Đức Giêsu không thể nào không ảnh hưởng đến
tình yêu “phụ tử” của thánh Giuse, làm sao có thể thấu hiểu được chiều sâu của
mối tương quan hết sức đặc biệt như vậy? Những tâm hồn nhạy cảm nhất đối với
tác động tình yêu của Thiên Chúa sẽ thật sự tìm thấy nơi thánh Giuse mẫu gương
sáng chói của đời sống nội tâm.
Ngoài ra, nhờ đức ái hoàn hảo,
thánh Giuse đã lướt thắng được một cách tuyệt vời điều xem ra giằng co giữa đời
sống hoạt động và đời sống chiêm niệm. Theo như cách phân biệt phổ thông giữa
lòng yêu mến chân lý (charitas veritatis) và những đòi hỏi của lòng yêu
mến (necessitas charitatis)[41],
chúng ta có thể nói rằng thánh Giuse đã cảm nghiệm được lòng yêu mến
chân lý, nghĩa là tình yêu say mê chiêm ngắm chân lý của Thiên Chúa chiếu
giãi từ nhân tính đức Kitô, cũng như cảm nghiệm được những đòi hỏi của
lòng yêu mến, nghĩa là tình yêu phục vụ do sự đòi hỏi của việc bảo vệ
và làm triển nở nhân tính ấy.
VI. ĐẤNG BẢO TRỢ GIÁO HỘI THỜI NAY
28. Trong những thời gian khó khăn,
vì muốn dâng phó Giáo hội cho ơn bảo trợ đặc biệt của thánh Giuse, nên Đức Piô
IX đã tuyên phong Người là “Đấng Bảo Trợ Giáo hội Công Giáo”[42].
Đức Thánh Cha biết rằng quyết định của mình không phải là không hợp thời, bởi
vì, do phẩm tước hết sức cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho Người Đầy Tớ trung
thành này “không kể đối với đức Trinh Nữ bạn của Người, Giáo hội đã luôn hết
sức tôn kính thánh Giuse vinh phúc, Giáo hội đã hết lòng ca tụng Người và đặc
biệt chạy đến Người trong những lúc gian nan.[43]
Nhưng vì lý do gì Giáo hội lại tín
nhiệm Người như thế? Đức Lêô XIII đã kể ra những lý do như sau: “Những lý lẽ để
thánh Giuse được nhận làm Đấng Bảo Trợ đặc biệt của Giáo hội, và để Giáo hội hy
vọng rất nhiều vào sự che chở và bảo hộ của Người chính yếu là vì thánh Giuse
là chồng của đức Maria và mang danh là cha của Đức Giêsu Kitô (…). Thánh Giuse
đã là người gìn giữ, đứng đầu và bảo vệ gia đình Chúa, chiếu theo luật pháp
cũng như phù hợp với lẽ tự nhiên (…). Vì thế, như xưa kia thánh Giuse đã che
chở gia đình Nazarét một cách thánh thiện ở mọi hoàn cảnh, thì ngày nay, thật
là hợp lý và chính đáng, từ trời cao Người cũng che chở và bảo vệ Giáo hội của
đức Giêsu Kitô như vậy.”[44]
29. Giáo hội luôn phải kêu cầu
thánh Giuse bảo trợ, không những để bảo vệ Giáo hội khỏi những nguy hiểm không
ngừng nẩy sinh, nhưng nhất là còn để nâng đỡ Giáo hội trong những nỗ lực canh
tân nhằm rao giảng Tin Mừng cho thế giới cũng như tái rao giảng Tin Mừng lại
cho các vùng, các quốc gia mà, như tôi đã viết trong Tông huấn “Kitô hữu giáo
dân”, tôn giáo và đời sống Kitô hữu trước kia hết sức phong phú, và “ngày nay
đang bị thử thách”[45].
Để giới thiệu Tin Mừng đức Kitô
hoặc là để trình bày lại đức Kitô cho những nơi đã bỏ mất hay bỏ quên Tin Mừng
đó, Giáo hội cần phải có một “sức mạnh từ trời ban xuống” môt cách đặc biệt
(xc. Lc 24,49; Cv 1,8), sức mạnh đó tất nhiên là do Chúa Thánh Thần ban , nhưng
cũng nhờ sự chuyển cầu và gương mẫu của các thánh.
30. Ngoài sự bảo trợ hữu hiệu của
thánh Giuse, Giáo hội còn tin tưởng vào gương mẫu đặc biệt của Người, không chỉ
là tấm gương cho một bậc sống riêng biệt nào đó, nhưng được nêu lên cho tất cả
cộng đồng Kitô hữu, bất cứ hoàn cảnh và trách vụ nào của mỗi người.
Như Hiến chế “Mạc Khải” của Công
đồng Vatican II đã nói, thái độ nền tảng của toàn thể Giáo hội phải là thái độ
“cung kính lắng nghe lời Thiên Chúa”[46],
nghĩa là tuyệt đối sẵn sàng để trung thành phục vụ ý định cứu độ của Thiên
Chúa, được mạc khải qua đức Giêsu. Ngay từ khởi đầu ơn cứu độ con người, chúng
ta đã thấy được, sau đức Maria, mẫu gương vâng lời thể hiện nơi thánh Giuse,
Đấng đã đặc biệt trung thành thực thi các luật điều của Chúa.
Đức Phaolô VI kêu gọi hãy khẩn cầu
thánh Giuse “như Giáo hội trong thời gian gần đây vẫn quen làm, trước tiên khẩn
cầu cho chính Giáo hội, cho việc suy tư thần học về mối liên kết giữa hành động
của Thiên Chúa và hành động của con người trong nhiệm cục lớn lao của ơn cứu
độ, trong đó, điều thứ nhất, tức là hành đông của Thiên Chúa, đã hoàn toàn đầy
đủ, trong khi điều thứ hai, tức là hành động của con người, của chúng ta, tuy
vẫn hoàn toàn bất lực (xc. Ga 15,5) nhưng không bao giờ được chuẩn miễn khỏi
một sự công tác khiêm tốn, vẫn cần thiết và cao trọng. Ngoài ra, Giáo hội khẩn
cầu thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ, vì Giáo hội có một khao khát sâu xa và rất
hiện thực là muốn làm sinh động cuộc sống trần thế của mình, với các nhân đức
đích thật của Tin Mừng, như thấy tỏa sáng nơi thánh Giuse”[47]
31. Giáo hội biến những đòi hỏi đó
thành lời khẩn cầu. Khi nhắc lại rằng, ở bình minh của thời đại mới, Thiên Chúa
đã trao phó cho thánh Giuse việc gìn giữ các mầu nhiệm cứu độ, Giáo hội cũng
xin Người ban cho Giáo hội được trung thành cộng tác vào công cuộc cứu độ, yêu
mến công việc đó bằng một trái tim không chia sẻ, theo gương thánh Giuse, Đấng
đã tự hiến trọn vẹn để phục vụ Ngôi Lời Nhập Thể, và cũng cho chúng ta được
sống trong sự công chính và thánh thiện, nhờ sự nâng đỡ bằng gương mẫu và lời
cầu của Người[48].
Cách đây 100 năm, Đức Thánh Cha Lêô
XIII đã khuyến khích thế giới Công giáo hãy cầu nguyện để được bảo trợ nhờ
thánh Giuse, bổn mạng của toàn thể Giáo hội,. Thông điệp Quamquam
Pluries đã nại tới “Tình yêu phụ tử của thánh Giuse đối với Hài nhi
Giêsu”, nại tới “Đấng bảo trợ rất khôn ngoan của gia đình Thiên Chúa”, thông
điệp “trao phó” cho Người “gia tài quý hoá mà đức Giêsu đã dành được bằng chính
máu mình”. Từ khi đó, Giáo hội, như tôi đã nói đến lúc đầu, van
xin thánh Giuse bảo trợ, nhờ “tình thương đã kết hợp Người với đức Trinh Nữ
Vô Nhiễm Mẹ Thiên Chúa”, và Giáo hội dâng phó cho Người tất cả những lo âu của
mình, nhất là vì những đe dọa đang đè nặng trên gia đình nhân loại.
Và ngày nay nữa, chúng ta
có rất nhiều lý do để cầu nguyện như vậy: “ Ôi Cha rất yêu dấu, xin canh
giữ chúng con khỏi mọi vết nhơ của lầm lạc và nết xấu, … từ trời cao xin ban ân
đức và nâng đỡ chúng con trong cuộc chiến chống lại thế lực tối tăm …; và cũng
như xưa Cha đã giải thoát Hài Nhi Giêsu khỏi những nguy hiểm tính mạng, ngày
nay xin bảo vệ Hội thánh của Thiên Chúa khỏi những cạm bẫy của kẻ thù và của mọi
nghịch cảnh”[49]. Ngày
nay chúng ta vẫn có những lý do để dâng phó mỗi người cho thánh Giuse.
32. Tôi hết lòng mong ước rằng việc
gợi lại dung mạo của thánh Giuse lúc này sẽ đổi mới trong chúng ta lòng thiết
tha cầu nguyện mà vị tiền nhiệm của tôi, cách đây môt thế kỷ, đã truyền phải
thực hiện. Quả thật, chắc chắn rằng lời kinh đó và ngay chính dung mạo
của thánh Giuse vẫn còn thích hợp đối với hiện tình của Giáo hội thời đại chúng
ta, khi sắp bước vào thiên niên kỷ mới của Kitô giáo.
Công đồng Vaticanô II, môt lần nữa, lại làm cho
tất cả chúng ta cảm nhận được “những kỳ công của Thiên Chúa”, “nhiệm
cục cứu độ” mà thánh Giuse là thừa tác viên đặc biệt. Như vậy, khi
dâng phó cho sự bảo trợ của Đấng mà chính Thiên Chúa đã “giao phó cho việc quản
thủ những kho tàng quý báu và cao cả nhất của Người”[50],
thì đồng thời, chúng ta học nơi thánh Giuse cách thế phục
vụ “nhiệm cục cứu độ”. Ước mong thánh Giuse trở thành một vị thầy đặc
biệt cho chúng ta trong việc phục vụ sứ mệnh cứu đô của đức
Kitô; đó là trách vụ của chúng ta, của tất cả và của từng người trong Giáo hội:
của những đôi vợ chồng, của những bậc cha mẹ, của những người sinh sống bằng
công việc do chính đôi tay mình, hay tất cả những công việc khác, của những
người được kêu gọi sống đời chiêm niệm cũng như của những người được kêu gọi
làm việc tông đồ.
Mang trong mình toàn bộ gia sản của
Cựu ước, Đấng Công Chính cũng được đưa vào “khởi nguyên” của
Giao Ước Mới và vĩnh cửu trong đức Giêsu Kitô. Ước mong Người sẽ chỉ dẫn
cho chúng ta những nẻo đường của Giao ước cứu độ này ở ngưỡng cửa của thiên
niên kỷ sắp tới, khi đó, “sự viên mãn của thời gian” trong mầu nhiệm khôn tả
của mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể phải được tiếp diễn và phát triển!
Ước mong thánh Giuse ban cho Giáo
hội và thế giới cũng như cho mỗi người chúng ta phúc lành của Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần!
Ban hành tại Roma, cạnh đền thờ thánh Phêrô,
ngày 15.08.1989, đại lễ Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời,
năm thứ 11 triều đại giáo hoàng của tôi.
GIOAN PHAOLÔ II
————————
[1] Xc T. Irênêo, Adversus haereses, IV, 23, 1:
Sources Chrétiennes 100/2, tr. 692-694
[2] Lêô XIII, Thông điệp Quamquam Pluries (15/08/1889): Leonis
XIII P.M. Acta, IX (1890), tr. 175-182.
[3] Thánh bô Nghi Lễ, Sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870): Pii
IX P.M. Acta, pars 1, vol. V, tr. 282; Piô IX, Tông thư Inclytum
Patriarcham (07.07.1871) ibid., tr.331-335.
[4] Xc T. Gioan Kim Khẩu, In Matth. Hom. V,3:
PG 57, 57t.. Dựa trên sự trùng tên, các vị tiến sĩ Giáo hội và các Giáo hoàng
đã coi ông Giuse ở Ai cập xưa là nguyên mẫu của thánh Giuse Nadarét, bởi vì một
cách nào đó, ông Giuse ở Ai cập đã phác hoạ nên sứ vụ và sự cao cả trong việc
gìn giữ những kho tàng quý báu nhất của Thiên Chúa Cha, đó là Ngôi Lời Nhập Thể
và Đức Nữ Maria: xc, thí dụ, T. Bênađô, Super Missus est, Hom.
II,16: S.Bernardi Opera, Ed.Cist., IV, 33-34; Lêô XIII, Tđ. Quamquam
Pluries: nơi đã dẫn. tr. 179
[5] Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Giáo hội (=
GH), số 58
[6] GH số 63.
[7] Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên
Chúa (=MK), số 2
[8] MK số 2
[9] Xc GH số 63
[10] MK số 2
[11] Thánh bộ Nghi lễ, Sắc lệnh Novis hisce temporibus (13.11.1962):
AAS 54 (1962) tr. 873
[12] T. Augustinô, Sermo 51, 10, 16: PL 38,
342.
[13] T. Augustinô, De nuptiis et concupiscentia, I,
11, 12: PL 44, 421; xc De consensu evangelistarum II, 1, 2: PL
34, 1071; Contra Faustum, III,2: PL 42, 214.
[14] T. Augustinô, De nuptiis et concupiscentia, I,
11, 13: PL 44, 421; xc Contra Julianum, V, 12, 46: PL 44, 810.
[15] T. Augustinô, Contra Faustum, XXIII,8: PL 42,
470-471; De consensu evangelistarum II, 1, 3: PL 34,
1072; Sermo 51, 13, 21: PL 38, 344-345; T. Toma, Summa
Theol. III, q.29, a2 in conclus.
[16] Xc Huấn tư ngày 09.01; 16.01 và
20.02.1980: Insegnamenti, III/1 (1980), tr. 88-92; 148-152;
428-431.
[17] Phaolô VI, Huấn từ nói với “Equipes Notre Dame” (04.05.1970)
số 7: AAS 62 (1970), tr.431. Việc trình bày Thánh gia ở Nadarét như môt mẫu
gương tuyệt hảo cho các gia đình có thể tìm thấy, chẳng hạn, trong Lêô XIII,
Tông thư Neminem fugit (14.06.1892): Leonis XIII P.M.
Acta, XII (1892) tr.149-150; Bênêđitô XV, Tự sắc Bonum sane (25.07.1920):
AAS 12 (1920), tr.313-317.
[18] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (22.11.1981),
số 17: AAS 74 (1982), tr.100.
[19] Như trên, số 49: AAS 74 (1982), tr.140; xc Vaticanô .II,
GH số 11; Sắc lệnh Tông đồ giáo dân số 11.
[20] Tông huấn Familiaris consortio (22.11.1981),
số 85: AAS 74 (1982) tr.189t.
[21] Xc T. Gioan Kim Khẩu, In Matth.Hom. 5,3:
PG 57, 57-58.
[22] Phaolô VI, Huấn từ ngày 19.03.1966: Insegnamenti IV
(1966), tr.110.
[23] Xc Sách lễ Rôma, Kinh Tổng nguyện “Lễ trọng Thánh Giuse
bạn Đức Trinh Nữ Maria”.
[24] Xc Sách lễ Rôma, Kinh Tiền Tụng “Lễ trọng Thánh Giuse bạn
Đức Trinh Nữ Maria”.
[25] Thông điệp Quamquam Pluries: l.c. tr.178.
[26] Đức Piô XII, Sứ điệp truyền thanh gởi các sinh
viên các trường công giáo Hoa kỳ (19.2.1958): AAS 50 (1958), tr.174.
[27] Origène, Hom. XI in Lucam 7: S. Ch. 87,
tr. 214-215
[28] Origène, Hom. XI in Lc 6: S.Ch. 87, tr.
196-197.
[29] Xc Sách lễ Rô-ma, Kinh Nguyện Thánh The số
1.
[30] Thánh bộ Nghi lễ, Sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870):
l.c. tr.282
[31] Collectio Missarum de beata Maria Virgine, I,
“Sancta Maria de Nazaret”, Kinh Tiền Tung.
[32] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio số
16: AAS 74 (1982) tr. 98.
[33] Lêô XIII, Thông điệp Quamquam Pluries: l,c.
tr. 177-178
[34] Xc Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem exercens (14.09.1981)
số 9: AAS 73 (1981) tr. 599-600.
[35] Như trên, số 28: l.c. tr. 638. Thời gian gần đây các vị
Giáo hoàng luôn trình bày thánh Giuse như mẫu gương của các người thợ và các
người lao đông; xc, thí dụ Lêô XIII, Thông điệp Quamquam Pluries (15.08.1889):
l.c. tr.180; Bênêđitô XV, Tự sắc Bonum sane (25.07.1920): AAS
12(1920) tr. 314-316; Piô XII, Huấn tư ngày 11.03.1945, số 4:
AAS 37 (1945), tr.72; Huấn tư ngày 01.05.1955: AAS 47 (1955),
tr. 406; Gioan XXIII, Sứ điệp truyền thanh ngày 01.05.1960:
AAS (1960), tr.398.
[36] Phaolô VI, Huấn tư ngày 19.03.1969: Insegnamenti,
VII (1969), tr.1268
[37] Như trên, tr.1267.
[38] xc T. Tôma, Summa Theol. II-IIae, q.82,
a.3, ad 2.
[39] như trên, III, q.8, a.1, ad 1.
[40] Piô XII, Thông điệp Haurietis aquas (15.05.1956),
III: AAS 48 (1956), tr. 329-330.
[41] xc T. Thomas, Summa Theol. II-IIae, a.182, a.1
ad 3.
[42] xc. Thánh bộ Nghi lễ, sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870):
l.c. tr.283
[43] như trên, l.c. tr.282-283
[44] Lêô XIII, thông điệp Quamquam Pluríes (15.08.1889):
l.c. tr.177-179.
[45] Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles laici (30.12.1988),
số 34: AAS 81 (1989), tr.456.
[46] Vaticanô II, MK số 1.
[47] Phaolô VI, Huấn tư ngày 19.03.1969: Insegnamenti,
VII (1969), tr.1269.
[48] Xc. Sách lễ Roma, Kinh tổng nguyện và lời nguỵện trên lễ
vật “Lễ trọng thánh Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ Maria”; Lời nguyện sau hiệp lễ “Lễ
ngoại lịch kính thánh Giuse”.
[49] Xc Lêô XIII. “Lời nguyện với thánh Giuse” theo sau bản văn
Thông điệp Quamquam Pluries (15.08.1889): Leonis XIII
P.M. Acta, IX (1890), tr.183.
[50] Thánh bộ Nghi lễ, Sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870):
l.c. tr.282