Desiderio
Desideravi của Đức Thánh Cha Phanxicô
Nhân
dịp lễ hai thánh Phêrô và Phaolô năm nay, ngày 29 tháng 6, 2022, Đức Phanxicô
đã ban hành tông thư tựa là Desiderio Desideravi [Thầy những khát
khao] về phụng vụ. Khác với cung giọng khi đề cập đến thánh lễ cổ truyền
trong Traditionis custodis, theo Cha de Souza, Desiderio
Desideravi có một cung gọng và bản chất khác hẳn. Nghĩ cho cùng cũng đúng
thôi vì nội dung chính của tông thư là về việc đào tạo phụng vụ, dựa trên hai
thế giá nổi bật là hiến chế Sacrosanctum Concilium của Vatican II và học giả
linh mục Guardini. Sau đây là nguyên văn tông thư dựa theo bản tiếng Anh của
Tòa Thánh. Bản dịch02/Jul/2022
TÔNG THƯ
Desiderio
Desideravi
của Đức Thánh Cha
Phanxicô
Gửi các Giám mục, các Linh mục và
Phó tế,
Các Người Thánh hiến Nam nữ,
và Các Tín hữu Giáo dân
VỀ viỆc đào
tẠo PhỤng vỤ
cho dân
Chúa
Thầy
những khát khao mong mỏi
ăn lễ Vượt Qua này với anh em
trước khi chịu khổ hình (Lc 22,15)
1. Anh
chị em thân yêu nhất của tôi,
Với lá
thư này, tôi mong muốn vươn tới tất cả anh chị em - sau khi chỉ viết cho các
giám mục lúc công bố Tự sắc Traditionis custodes - và tôi viết
để chia sẻ với anh chị em một số suy tư về phụng vụ, một chiều kích căn bản cho
đời sống của Giáo hội. Chủ đề này rất rộng lớn và luôn đáng được xem xét chu
đáo về mọi khía cạnh của nó. Mặc dù vậy, với bức thư này, tôi không có ý định
bàn đến vấn đề này một cách thấu đáo. Tôi chỉ mong muốn cung cấp một số nhắc
nhở hoặc gợi ý cho những suy tư có thể hỗ trợ cho việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp và
chân lý của việc cử hành Kitô giáo.
Phụng
vụ: “ngày nay” của lịch sử cứu độ
2. “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt
Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22,15) Những
lời này của Chúa Giêsu, mà với chúng, tường thuật Bữa Tiệc Ly là cửa hé mở qua
đó chúng ta được ban cho khả thể đáng ngạc nhiên là trực giác được chiều sâu
tình yêu của các ngôi trong Ba Ngôi Cực Thánh dành cho chúng ta.
3.
Phêrô và Gioan được sai đi chuẩn bị cho bữa ăn Lễ Vượt Qua đó, nhưng trên thực
tế, tất cả sáng thế, tất cả lịch sử - mà
cuối cùng đang trên đà tự bộc lộ là lịch sử cứu rỗi – là một sự chuẩn bị to lớn
cho Bữa tối đó. Phêrô và những người khác có mặt tại chiếc bàn đó, không hề hay
biết nhưng cần thiết. Cần thiết vì mỗi món quà, để là món quà, phải có người
sẵn sàng để nhận nó. Trong trường hợp này, sự bất cân xứng giữa sự mênh mông
của món quà và sự nhỏ bé của người nhận nó quả là vô hạn, và nó không thể không
làm chúng ta ngạc nhiên. Tuy nhiên, nhờ lòng thương xót của Chúa, món quà được
ủy thác cho các Tông đồ để nó được mang đến cho mọi người nam nữ.
4.
Không ai đã từng kiếm được một chỗ trong Bữa tối hôm đó. Tất cả đã được mời.
Hay nói đúng hơn: tất cả đã bị lôi kéo đến đó bởi ước muốn cháy bỏng này là
Chúa Giêsu phải ăn Lễ Vượt Qua với họ. Người biết Người là Chiên Con của bữa ăn
Vượt Qua đó; Người biết rằng Người là Lễ Vượt Qua. Đây là điều mới tuyệt đối,
điều độc đáo tuyệt đối, của Bữa Tối đó, điều mới thực sự duy nhất trong lịch
sử, làm cho Bữa Tối đó trở thành duy nhất và vì lý do này là “Bữa Tối Sau Cùng”,
không thể lặp lại. Tuy nhiên, ước muốn vô hạn của Người là tái lập sự hiệp
thông với chúng ta, vốn đã và vẫn là thiết kế ban đầu của Người, sẽ không được
thoả mãn cho đến khi mọi người nam nữ, từ mọi bộ tộc, mọi ngôn ngữ, mọi dân tộc
và mọi quốc gia (Kh 5,9), sẽ được ăn Mình và uống Máu Người. Và vì
lý do này, cũng một Bữa Tối đó sẽ được làm cho hiện diện trong việc cử hành Bí
Tích Thánh Thể cho đến khi Người trở lại lần nữa.
5. Thế
giới vẫn chưa biết điều này, nhưng mọi người được mời đến dự bữa tối trong đám cưới Chiên Con (Kh 19,9). Để được
vào dự tiệc, chỉ cần có áo cưới đức tin phát xuất từ việc nghe Lời Người
(xem Rm 10,17). Giáo Hội may chiếc áo như thế để vừa với mỗi
người, với màu trắng của áo được tắm trong máu của Chiên Con (Kh 7,14).
Chúng ta không được phép cho mình nghỉ ngơi, dù trong một lúc, khi biết rằng
vẫn không phải ai cũng nhận được lời mời tham dự Bữa Tối này hoặc biết rằng
những người khác đã quên khuấy mất nó hoặc đã lạc lối trong cuộc sống xoay vần
của kiếp nhân sinh. Đó là điều tôi muốn nói khi nói, “Tôi mơ về một ‘giải pháp
truyền giáo', nghĩa là, một sự thúc đẩy truyền giáo có khả năng biến đổi mọi
sự, để các phong tục, cách thức làm việc, thời gian và lịch trình, ngôn ngữ và
cấu trúc của Giáo hội có thể được gom góp một cách thích hợp cho việc phúc âm
hóa thế giới ngày nay hơn là cho sự tự bảo tồn của mình” (Evangelii gaudium,
số 27). Tôi muốn điều này để tất cả mọi người được ngồi vào Bữa Ăn Tối lễ hy
sinh của Chiên Con và được sống nhờ Người.
6.
Trước khi chúng ta đáp lại lời mời của Người - trước nhiều! – là sự mong muốn
của Người đối với chúng ta. Chúng ta thậm chí có thể không nhận thức được điều
đó, nhưng mỗi khi chúng ta đi tham dự Thánh lễ, lý do đầu tiên là chúng ta bị
lôi cuốn bởi mong muốn của Người dành cho chúng ta. Về phần chúng ta, đáp ứng
khả hữu – cũng là chủ nghĩa khổ hạnh khắt khe nhất – luôn là, đầu hàng tình yêu
này, để bản thân được Người lôi cuốn. Thật vậy, mọi cuộc rước Mình và Máu Thánh
Chúa Kitô đã được Người mong muốn trong Bữa Ăn Tối Sau Cùng.
7. Nội
dung của tấm bánh được bẻ ra là thánh giá của Chúa Giêsu, sự hy sinh vâng phục
của Người vì tình yêu đối với Chúa Cha. Nếu chúng ta không có Bữa Ăn Tối Sau
Cùng, nghĩa là, nếu chúng ta không có nghi thức dự ứng về cái chết của Người,
chúng ta sẽ không bao giờ có thể hiểu được việc Người bị kết án tử hình trên
thực tế là hành động thờ phượng hoàn hảo, đẹp lòng Chúa Cha, hành động thờ
phượng chân chính duy nhất, phụng vụ chân chính duy nhất. Chỉ vài giờ sau Bữa
Ăn Tối Sau Cùng, các tông đồ, nếu chịu đựng được sức nặng của nó, đã có thể
nhìn thấy trong thập giá của Chúa Giêsu điều Chúa Giêsu nói có nghĩa gì, “mình
bị nộp”, “máu đổ ra”. Chính đó là điều chúng ta làm để tưởng niệm trong mỗi Bí
tích Thánh Thể. Khi Đấng Phục Sinh trở lại từ cõi chết để bẻ bánh cho các môn
đệ tại Emmâu, và cho các môn đệ của Người đi đánh cá chứ không phải đi cá người
trên Biển Galilê trở về, thì chính cử chỉ bẻ bánh đó đã mở mắt họ ra. Nó chữa
họ khỏi sự mù lòa do sự kinh hoàng của thập giá gây ra, và nó khiến họ có khả
năng “nhìn thấy” Đấng Phục sinh, tin vào sự Phục sinh.
8. Nếu
bằng cách nào đó, chúng ta đến Giêrusalem sau Lễ Ngũ Tuần và cảm thấy khao khát
không những có thông tin về Chúa Giêsu thành Nadarét mà còn mong muốn được gặp
Người, thì chúng ta không có khả thể nào khác ngoài khả thể tìm kiếm các môn đệ
của Người để có thể nghe được lời Người và thấy những cử chỉ của Người, sống
động hơn bao giờ hết. Chúng ta sẽ không có khả thể nào khác được thực sự gặp gỡ
Người ngoài cuộc gặp gỡ giữa cộng đồng đang cử hành. Vì lý do này, Giáo hội
luôn bảo vệ mệnh lệnh của Chúa, “Hãy làm điều này mà nhớ đến Thầy”, như kho
tàng quý giá nhất của mình.
9. Ngay
từ ban đầu, Giáo Hội đã ý thức rằng đây không phải là vấn đề diễn tả lại Bữa Ăn
Tối của Chúa, dù thánh thiêng đến đâu. Nó không hề có ý nghĩa gì, và không ai
có thể nghĩ đến việc “dàn dựng” khoảnh khắc cao quý nhất trong cuộc đời của
Thầy, nhất là trước mắt Đức Maria, Mẹ của Chúa. Ngay từ thuở sơ khai, được Chúa
Thánh Thần soi sáng, Giáo hội đã nắm được điều hiển hiện nơi Chúa Giêsu, có thể
nhìn thấy bằng mắt và chạm được bằng tay, các lời nói và cử chỉ của Người, tính
cụ thể của Ngôi Lời nhập thể - mọi điều của Người đã được chuyển qua việc cử
hành các bí tích.[1]
Phụng
vụ: nơi gặp gỡ Chúa Kitô
10. Ở
đây có tất cả vẻ đẹp mạnh mẽ của phụng vụ. Nếu sự sống lại đối với chúng ta chỉ
là một khái niệm, một ý tưởng, một suy nghĩ; nếu Đấng Phục sinh đối với chúng
ta chỉ là sự hồi tưởng của những người khác, dù có thẩm quyền, chẳng hạn như
của các Tông đồ; nếu chúng ta không được ban cho khả thể gặp gỡ thật sự với
Người, thì việc công bố tính mới mẻ của Ngôi Lời đã thành xác thịt trở thành vô
ích. Thay vào đó, việc Nhập thể, ngoài việc là sự kiện luôn luôn mới mẻ duy
nhất mà lịch sử biết đến, còn là chính phương pháp mà Ba Ngôi Chí Thánh đã chọn
để mở ra cho chúng ta con đường hiệp thông. Đức tin Kitô giáo hoặc là một cuộc
gặp gỡ với Đấng còn sống, hoặc nó không hiện hữu.
11.
Phụng vụ bảo đảm cho chúng ta khả thể xảy ra cuộc gặp gỡ như vậy. Đối với chúng
ta, một ký ức mơ hồ về Bữa Ăn Tối Sau Cùng sẽ chẳng ích lợi gì. Chúng ta cần có
mặt trong Bữa Ăn Tối Sau Cùng đó, để có thể nghe tiếng Người, để ăn Mình và
uống Máu Người. Chúng ta cần Người. Trong Bí tích Thánh Thể và trong tất cả các
bí tích, chúng ta được bảo đảm khả thể gặp gỡ Chúa Giêsu và khả thể được quyền
năng của Mầu nhiệm Vượt qua của Người đến với chúng ta. Quyền năng cứu độ của
lễ hy sinh của Chúa Giêsu, các lời nói, các cử chỉ, ánh mắt và cảm giác của
Người đến với chúng ta qua việc cử hành các bí tích. Tôi là Nicôđêmô, là người
phụ nữ Samaria bên giếng, người bị quỷ ám ở Caphácnaum, người bại liệt trong
nhà Phêrô, người đàn bà tội lỗi được ân xá, người đàn bà bị băng huyết, con gái
của Giaia, người mù thành Giêricô, Giakêu, Ladarô, tên trộm và Phêrô đều được
ân xá. Chúa Giêsu, Đấng không chết nữa,
Đấng sống đời đời với các dấu chỉ cuộc Khổ nạn của Người [2] tiếp tục tha thứ cho chúng
ta, chữa lành chúng ta, cứu chúng ta bằng quyền năng của các bí tích. Đó là
cách cụ thể Người yêu chúng ta nhờ việc nhập thể của Người. Đó là cách để Người
thỏa mãn cơn khát của chính Người đối với chúng ta, cơn khát mà Người đã tuyên bố
từ trên thập giá (Ga 19,28).
12.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta với cuộc vượt qua của Người là biến cố đánh
dấu cuộc đời của mọi tín hữu: Phép Rửa của chúng ta. Đây không phải là sự tán
đồng đối với suy nghĩ của Người hay sự đồng ý đối với quy tắc ứng xử do Người
áp đặt. Đúng hơn, đó là việc lao mình vào nỗi thống khổ, cái chết, sự phục sinh
và thăng thiên của Người, lao mình vào hành động vượt qua của Người. Nó không
phải là ma thuật. Ma thuật trái ngược với luận lý của các bí tích vì ma thuật
tự cho mình có quyền năng đối với Thiên Chúa, và vì lý do này nó phát xuất từ
Tên Cám Dỗ. Hoàn toàn liên tục với việc Nhập thể, chúng ta có khả thể chết và
sống lại trong Chúa Kitô nhờ sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần.
13.
Cách điều này xảy ra cảm động xiết bao. Lời cầu nguyện khi làm phép nước rửa
tội [3] cho chúng ta thấy rằng
Thiên Chúa đã tạo ra nước chính vì Người đã nghĩ tới Bí tích Rửa tội. Điều này
có nghĩa là khi Thiên Chúa tạo ra nước, Người đã nghĩ đến Phép Rửa của mỗi
người chúng ta, và cùng một ý nghĩ này đã đồng hành cùng với Người trong suốt
hành động của Người trong lịch sử cứu rỗi mỗi khi, với ý định chính xác, Người
dùng nước cho công việc cứu rỗi của Người. Giống như thể sau khi tạo ra nước
ngay lần đầu, Người đã muốn hoàn thiện nó bằng cách biến nó thành nước của Phép
Rửa. Vì vậy, Người muốn đổ đầy nó với sự chuyển động của Chúa Thánh Thần là là
bay trên mặt nước (St 1,2) để nó có thể chứa ẩn bên trong quyền
năng thánh hóa. Người đã dùng nước để tái tạo loài người qua trận lụt (St 6,1–9,29).
Người đã kiểm soát nó, tách nó ra để mở con đường tự do qua Biển Đỏ (x. Xh 14).
Người đã thánh hiến nó tại sông Giócđan, bằng cách dìm vào đó thịt của Ngôi Lời
từng được thấm đẫm Chúa Thánh Thần. (xem Mt 3,13-17; Mc 1,9-11; Lc 3,21-22).
Cuối cùng, Người hòa nó với máu Con Người, hồng phúc của Chúa Thánh Thần kết
hợp một cách không thể phân ly với hồng phúc sự sống và sự chết của Chiên Con
đã bị giết vì chúng ta, và từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, Người đã đổ nó
ra trên chúng ta (Ga 19,34) Và chính trong dòng nước này, chúng ta
đã được ngâm mình để nhờ quyền năng của nó, chúng ta được lồng vào Mình Chúa
Kitô và cùng với Người trỗi dậy để sống bất tử (xem Rm 6,1-11).
Giáo
hội: Bí tích của Nhiệm thể Chúa Kitô
14. Như
Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta (x. Sacrosanctum Concilium,
n. 5), bằng cách trích dẫn sách thánh, các Giáo phụ và Phụng vụ - những
trụ cột của Truyền thống đích thực – chính
từ cạnh sườn Chúa Kitô khi Người ngủ giấc ngủ của thần chết trên thập giá đã
xuất hiện “bí tích kỳ diệu là toàn thể Giáo hội”.[4] Sự song hành giữa Ađam đầu
tiên và Ađam mới rất nổi bật: từ cạnh sườn Ađam đầu tiên, sau khi đã đưa ông
vào giấc ngủ thật ngon, Thiên Chúa đã kéo Evà ra thế nào, thì từ cạnh sườn của
A-đam mới, đang ngủ giấc ngủ của thần chết trên thập giá, đã sinh ra Evà mới,
là Giáo hội như vậy. Sự kinh ngạc đối với chúng ta nằm ở những lời mà chúng ta
có thể tưởng tượng Ađam mới đã nhận làm của riêng khi nhìn chằm chằm vào Giáo
hội: “Đây cuối cùng là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi” (St 2,23).
Nhờ tin vào Lời Người và lội xuống nước Phép Rửa, chúng ta trở nên xương bởi
xương và thịt bởi thịt Người.
15.
Không có sự nhập thân này thì không thể có việc sống trọn vẹn sự thờ phượng
Thiên Chúa. Thật vậy, chỉ có một hành động thờ phượng, hoàn hảo và đẹp lòng
Chúa Cha; tức là sự vâng phục của Chúa Con, mà thước đo là cái chết của Người
trên thập giá. Khả thể duy nhất để có thể tham gia vào lễ dâng của Người là trở
thành “những người con trong Chúa Con”. Đây là hồng phúc chúng ta đã nhận được.
Chủ thể hoạt động trong Phụng vụ luôn luôn và duy nhất là Chúa Kitô-Giáo hội,
tức Nhiệm thể Chúa Kitô.
Cảm
thức thần học về Phụng vụ
16.
Chúng ta nợ Công đồng – và phong trào phụng vụ đi trước nó – việc tái khám phá
sự hiểu biết thần học về Phụng vụ và tầm quan trọng của nó trong đời sống Giáo
hội. Vì các nguyên tắc chung được nêu ra trong hiến chế Sacrosanctum
Concilium là nền tảng cho việc cải cách phụng vụ, nên chúng tiếp tục
là nền tảng cho việc cổ vũ việc cử hành đầy đủ, có ý thức, tích cực và hữu hiệu
đó (xem Sacrosanctum Concilium, n. 11; 14), trong phụng vụ, “nguồn
đệ nhất và không thể thiếu mà từ đó các tín hữu dẫn khởi được tinh thần Kitô
giáo đích thực” (Sacrosanctum Concilium, n.14). Với lá thư này, tôi chỉ
muốn mời gọi toàn thể Giáo hội khám phá lại, bảo vệ và sống sự thật và sức mạnh
của việc cử hành Kitô giáo. Tôi muốn vẻ đẹp của việc cử hành Kitô giáo và những
hậu quả tất yếu của nó đối với đời sống của Giáo hội không bị hư hoại bởi sự
hiểu biết hời hợt và rút ngắn về giá trị của nó, hoặc tệ hơn, bởi việc nó bị
lợi dụng để phục vụ cho một tầm nhìn ý thức hệ nào đó, bất kể màu sắc ra sao.
Lời cầu nguyện linh mục của Chúa Giêsu trong Bữa Ăn Tối Sau Cùng để tất cả nên
một (Ga 17,21) lên án mọi chia rẽ của chúng ta xung quanh Bánh được
bẻ ra, quanh Bí tích lòng thương xót, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái.[5]
Phụng
vụ: thuốc giải độc cho sự độc hại của tính thế gian thiêng liêng
17. Vào
nhiều dịp khác nhau, tôi đã cảnh cáo về cơn cám dỗ nguy hiểm cho đời sống của
Giáo Hội, mà tôi gọi là “tính thế gian thiêng liêng”. Tôi đã nói về điều này
một cách dài dòng trong tông huấn Evangelii gaudium (nn.
93-97), xác định chính xác Thuyết Ngộ đạo và thuyết Tân Pêlagiô như hai phiên
bản được nối kết giữa chúng với nhau để nuôi dưỡng tính thế gian thiêng liêng
này.
Thuyết
thứ nhất thu hẹp đức tin Kitô giáo thành một chủ nghĩa chủ quan “cuối cùng
khiến người ta bị giam cầm trong những suy nghĩ và cảm xúc của chính họ” (EG
94). Thuyết thứ hai loại bỏ vai trò của ân sủng và “thay vào đó dẫn đến chủ
nghĩa ưu tú tự yêu mình thái quá và độc đoán, theo đó thay vì truyền giảng Tin
Mừng, người ta phân tích và phân loại người khác, và thay vì mở cửa cho ân
sủng, người ta vắt kiệt sức lực của họ trong kiểm tra và xác minh” (EG 94).
Những
hình thức méo mó của Kitô giáo này có thể gây ra những hậu quả tai hại cho đời
sống của Giáo hội.
18. Từ
những gì tôi đã nhắc lại ở trên, điều rõ ràng là, tự bản chất của nó, Phụng vụ
là liều thuốc giải độc hiệu quả nhất chống lại những chất độc này. Hiển nhiên,
tôi đang nói về Phụng vụ theo nghĩa thần học của nó và, như Đức Piô XII đã
khẳng định, chắc chắn không phải Phụng vụ như
những nghi lễ trang trí hay chỉ là một tổng số luật lệ và giới luật chi phối
việc phụng tự.[6]
19. Nếu
thuyết Ngộ đạo chuốc độc chúng ta bằng chất độc của chủ nghĩa chủ quan, thì
việc cử hành phụng vụ giải thoát chúng ta khỏi ngục tù của sự tự quy chiếu được
nuôi dưỡng bởi lối lý luận của riêng người ta và cảm quan riêng của họ. Hành
động cử hành không thuộc về cá nhân mà thuộc về Chúa Kitô-Giáo hội, tức là toàn
thể các tín hữu hiệp nhất trong Chúa Kitô. Phụng vụ không nói “tôi” mà là “chúng
ta” và bất cứ giới hạn nào đối với bề rộng của chữ “chúng ta” này luôn luôn là
của ma quỷ. Phụng vụ không để chúng ta một mình tìm kiếm một điều được cho là
hiểu biết cá nhân về mầu nhiệm Thiên Chúa. Đúng hơn, nó cầm tay chúng ta, cùng
nhau, như một cộng đoàn, dẫn chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm mà Ngôi Lời và
các dấu chỉ bí tích mạc khải cho chúng ta. Và, nhất quán với mọi hành động của
Thiên Chúa, nó thực hiện điều này theo con đường Nhập thể, tức là bằng ngôn ngữ
biểu tượng của thân xác, vốn vươn tới các sự vật trong không gian và thời gian.
20. Nếu
chủ nghĩa tân Pêlagiô làm say mê chúng ta với giả định về một ơn cứu độ có được
nhờ nỗ lực của chính chúng ta, thì việc cử hành phụng vụ thanh tẩy chúng ta,
công bố tính nhưng không của ơn cứu độ nhận được trong đức tin. Tham dự vào hy
tế Thánh Thể không phải là thành quả của riêng chúng ta, như thể vì nó mà chúng
ta có thể khoe khoang trước Thiên Chúa hoặc trước anh chị em của chúng ta. Khởi
đầu của mỗi cử hành nhắc nhở tôi rằng tôi là ai, yêu cầu tôi thú nhận tội lỗi
của mình và mời tôi khẩn cầu Đức Maria đầy ơn phúc mãi mãi đồng trinh, các
thiên thần, các thánh và tất cả anh chị em của tôi cầu nguyện cho tôi với Chúa
là Thiên Chúa của chúng ta. Chắc chắn, chúng ta không xứng đáng vào nhà Người;
chúng ta cần một lời của Người để được cứu. (xem Mt 8,8) Chúng
ta không có gì khác để khoe khoang ngoài thập giá của Chúa chúng ta là Chúa
Giêsu Kitô (x. Gl 6,14). Phụng vụ không liên quan gì đến chủ nghĩa
duy luân khổ hạnh. Nó là hồng phúc Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa, một hồng phúc,
nếu được đón nhận một cách ngoan ngoãn, sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta trở
nên mới mẻ. Phòng Tiệc Ly chỉ được vào nhờ sức hấp dẫn của Người muốn ăn Lễ
Vượt Qua với chúng ta: Desiderio desideravi hoc Pascha manducare
vobiscum, antequam patiar (Lc 22,15).
Hàng ngày tái khám phá vẻ đẹp sự thật của việc cử hành Kitô
giáo
21. Nhưng chúng ta phải cẩn thận: để liều thuốc giải độc của
Phụng vụ có hiệu quả, mỗi ngày chúng ta phải tái khám phá vẻ đẹp sự thật của
việc cử hành Kitô giáo. Một lần nữa tôi đề cập đến ý nghĩa thần học, như số 7
của hiến chế Sacrosanctum Concilium đã mô tả rất hay: Phụng vụ
là chức tư tế của Chúa Kitô, được mặc khải và ban cho chúng ta trong Mầu nhiệm
Vượt qua của Người, được làm cho hiện diện và hoạt động bằng các dấu chỉ được
ngỏ với các giác quan (nước, dầu, bánh, rượu, các cử chỉ, lời nói), để Chúa
Thánh Thần, khi dìm chúng ta trong mầu nhiệm vượt qua, có thể biến đổi mọi
chiều kích của đời sống chúng ta, khiến chúng ta ngày càng trở nên đồng hình
đồng dạng với Chúa Kitô.
22. Việc liên tục tái khám phá vẻ đẹp của Phụng vụ không phải
là việc tìm kiếm một thẩm mỹ thuộc nghi lễ vốn chỉ bằng lòng với việc cẩn thận
tuân giữ bên ngoài một nghi thức hoặc được thỏa mãn với việc tuân thủ cẩn thận
các qui định. Hiển nhiên, những gì tôi đang nói ở đây không hề mong muốn tán
thành thái độ ngược lại, bằng bất cứ cách nào, một điều gây nhầm lẫn giữa tính
đơn giản với tính tầm thường bất cẩn, hoặc điều thiết yếu với điều hời hợt
thiếu hiểu biết, hoặc tính cụ thể của hành động nghi lễ với chủ nghĩa duy chức
năng thực tế gây bực tức.
23. Chúng ta hãy nói rõ ở đây: mọi khía cạnh của cử hành phải
được chăm chút cẩn thận (không gian, thời gian, cử chỉ, lời nói, đồ vật, lễ phục,
bài hát, âm nhạc…) và mọi qui định đều phải được tuân thủ. Sự chú ý như vậy đủ
để ngăn chặn việc cướp đoạt của cộng đoàn những gì nó vốn sở hữu; cụ thể là mầu
nhiệm Vượt qua được cử hành theo nghi thức được Giáo hội ấn định. Nhưng ngay cả
khi phẩm chất và hành động thích hợp của cử hành được bảo đảm, điều đó vẫn
không đủ để làm cho sự tham gia của chúng ta đầy đủ.
Ngạc nhiên trước Mầu nhiệm Vượt qua: một phần thiết yếu của
hành vi phụng vụ
24. Nếu không ngạc nhiên trước sự kiện mầu nhiệm Vượt qua
được làm cho hiện diện cách cụ thể qua các dấu chỉ bí tích, thì chúng ta thực
sự có nguy cơ không thấm nhập vào đại dương ân sủng vốn tràn ngập mọi cử hành.
Các cố gắng nhằm cổ vũ phẩm chất cao hơn của cử hành, dù đáng khen, vẫn chưa
đủ; cả lời kêu gọi phải có một nội tâm tính lớn hơn cũng thế. Nội tâm tính này
có thể có nguy cơ tự giản lược thành một chủ quan tính trống rỗng nếu nó không
tiếp nhận sự mặc khải của mầu nhiệm Kitô giáo. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa không
phải là kết quả của một tìm kiếm Người trong nội tâm cá nhân, nhưng nó là một
sự kiện đã đã có đó. Chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua sự kiện Nhập thể
mới, là sự kiện, trong Bữa ăn tối Sau cùng, đã đạt tới cực điểm của việc Người
khao khát được chúng ta ăn. Làm thế nào sự bất hạnh trong đó chúng ta tự tách
rời khỏi sức hấp dẫn đẹp đẽ của hồng phúc này lại có thể xảy ra với chúng ta?
25. Khi nói về sự ngạc nhiên trước mầu nhiệm vượt qua, tôi
hoàn toàn không có ý định ám chỉ điều mà đôi khi đối với tôi dường như là một
biểu thức mơ hồ của “cảm thức mầu nhiệm”. Đôi khi đây là một trong những cáo
buộc chính bị coi là chống lại cuộc cải cách phụng vụ. Người ta nói rằng cảm
thức mầu nhiệm đã bị loại bỏ khỏi việc cử hành. Sự ngạc nhiên hay thán phục mà
tôi nói đến không phải là loại bị vượt qua khi đối diện với một thực tại tối
tăm hoặc một nghi thức mầu nhiệm. Ngược lại, nó rất đáng ngạc nhiên do sự kiện
này là chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã được mạc khải trong hành động vượt
qua của Chúa Giêsu (xem Ep 1,3-14), và quyền năng của hành
động vượt qua này tiếp tục đến với chúng ta khi cử hành “các mầu nhiệm” bí
tích. Điều vẫn còn đúng là, đối với sự hữu hạn của con người chúng ta, tính
viên mãn của mặc khải có một sự dư dật vượt lên trên chúng ta và sẽ được hoàn
thành vào lúc tận cùng thời gian khi Chúa sẽ trở lại. Còn nếu sự ngạc nhiên
đúng loại, thì không hề có rủi ro nào là người ta không nhận biết tính khác
biệt của Thiên Chúa, ngay cả trong sự gần gũi mà mầu nhiệm Nhập thể vốn dự
định. Nếu cuộc cải cách đã loại bỏ “cảm thức mầu nhiệm” mơ hồ đó, thì đó là
công phúc của nó chứ không phải là nguyên nhân dẫn đến những lời buộc tội. Cũng
giống như sự thật, vẻ đẹp luôn tạo ra sự ngạc nhiên, và khi những điều này nói
đến mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng dẫn đến sự tôn thờ.
26. Thán phục là một phần thiết yếu của hành vi phụng vụ bởi
vì đó là cách nhìn sự vật của những người biết họ đang tham gia vào tính đặc
thù của các cử chỉ tượng trưng. Đó là việc ngạc nhiên của những người trải
nghiệm sức mạnh của biểu tượng, một việc không hệ ở việc đề cập đến một số khái
niệm trừu tượng mà là chứa đựng và phát biểu một cách rất cụ thể những gì nó
biểu thị.
Sự cần thiết của việc đào tạo phụng vụ nghiêm túc và quan yếu
27. Vì vậy, câu hỏi căn bản là: làm thế nào để chúng ta phục
hồi được khả năng sống trọn vẹn các hoạt động phụng vụ? Đây là mục tiêu cải
cách của Công đồng. Thách thức này vô cùng đòi hỏi vì con người hiện đại -
không phải trong mọi nền văn hóa và ở cùng một mức độ - đã mất khả năng tham
gia vào hành động biểu tượng, vốn là một đặc điểm thiết yếu của hành vi phụng
vụ.
28. Với thời hậu hiện đại, con người càng cảm thấy mình bị
lạc lõng hơn, không có bất cứ hình thức tham chiếu nào, thiếu thốn về giá trị
bởi vì họ đã trở nên dửng dưng, hoàn toàn mồ côi, sống cảnh vỡ vụn trong đó
chân trời ý nghĩa dường như không còn khả hữu. Và do đó, nó càng bị đè nặng bởi
di sản nặng nề mà kỷ nguyên trước đã để lại cho chúng ta, bao gồm chủ nghĩa duy
cá nhân và chủ nghĩa duy chủ quan (điều này gợi lên một lần nữa những vấn đề
của thuyết Pêlagiô và thuyết ngộ đạo). Nó cũng bao gồm một chủ nghĩa tâm linh
trừu tượng vốn mâu thuẫn với chính bản chất con người, vì con người là một tinh
thần nhập thể và do đó có khả năng hành động biểu tượng và hiểu biết biểu
tượng.
29. Chính với thực tại của thế giới hiện đại này, mà Giáo
hội, hợp nhất trong Công đồng, đã muốn tiếp xúc, tái khẳng định ý thức của mình
về việc trở thành bí tích của Chúa Kitô, là Ánh sáng của các dân tộc (Lumen
gentium), đặt mình vào việc tận tụy lắng nghe Lời Chúa (Dei Verbum),
và nhìn nhận là của mình các niềm vui và hy vọng (Gaudium et spes) của
con người thời đại chúng ta. Các Hiến chế lớn của Công đồng không thể bị tách
biệt khỏi nhau, và không phải ngẫu nhiên mà nỗ lực to lớn duy nhất được suy tư
tại Công đồng chung bắt đầu với việc suy tư về Phụng vụ (Sacrosanctum
Concilium); đây cũng là biểu thức cao nhất nói lên tính đồng nghị trong
Giáo hội mà sự phong phú của nó tôi, cùng với tất cả anh chị em, được kêu gọi
trở thành người trông coi.
30. Bế mạc kỳ họp thứ hai của Công đồng (ngày 4 tháng 12 năm
1963) Thánh Phaolô VI đã phát biểu như sau:
“Các cuộc tranh luận khó khăn, phức tạp đã có kết quả phong
phú. Chúng đã đưa ra một chủ đề để kết luận, đó là phụng vụ thánh thiêng. Được
bàn luận trước tất cả những điều khác, theo một nghĩa nào đó, nó được ưu tiên
hơn tất cả những điều khác vì phẩm giá nội tại và tầm quan trọng của nó đối với
đời sống của Giáo hội và hôm nay chúng ta sẽ long trọng ban hành văn kiện về
phụng vụ. Do đó, tinh thần của chúng ta nhẩy mừng với niềm vui thực sự, vì theo
cách mà mọi sự đã diễn ra, chúng ta ghi nhận sự tôn trọng đối với thang giá trị
và bổn phận đúng đắn. Thiên Chúa phải giữ vị trí đầu tiên; cầu nguyện với Người
là bổn phận đầu tiên của chúng ta. Phụng vụ là nguồn hiệp thông thần linh đầu
tiên, trong đó Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của chính Người với chúng ta. Nó
cũng là trường học đầu tiên của đời sống thiêng liêng. Phụng vụ là món quà đầu
tiên chúng ta phải dành cho những Kitô hữu hợp nhất với chúng ta trong đức tin
và lòng nhiệt thành cầu nguyện của họ. Nó cũng là một lời mời gọi hàng đầu gửi
tới loài người, để giờ đây mọi người có thể cất lên giọng nói thầm lặng của họ
trong lời cầu nguyện chân thật và chúc phúc, và do đó có thể cảm nghiệm được
sức mạnh tái sinh khôn tả khi họ tham gia cùng chúng ta trong việc cao rao
những lời ngợi khen Thiên Chúa và những hy vọng của trái tim con người qua Chúa
Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần”.[7]
31. Trong bức thư này, tôi không thể nói với anh chị em về sự
phong phú của các cách diễn đạt khác nhau của đoạn văn, mà tôi đề nghị anh chị
em nên suy gẫm này. Nếu phụng vụ là “đỉnh cao mà hoạt động của Giáo hội hướng
tới, và đồng thời là nguồn suối mà từ đó mọi quyền lực của Giáo hội tuôn chảy”
(Sacrosanctum Concilium, n. 10), thì chúng ta có thể hiểu điều gì đang
bị đe dọa trong vấn đề phụng vụ. Quả là chuyện tầm phào nếu chỉ đọc các căng
thẳng, không may đã xuất hiện xung quanh việc cử hành, như một sự khác biệt đơn
giản giữa các thị hiếu khác nhau liên quan đến một hình thức nghi lễ đặc thù.
Vấn đề chủ yếu có tính giáo hội học. Tôi không thấy làm thế nào người ta có thể
nói rằng họ công nhận tính hợp lệ của Công đồng - mặc dù tôi ngạc nhiên nếu một
người Công Giáo nào đó lại có thể không nghĩ như vậy – nhưng cùng một lúc, không
chấp nhận cuộc cải cách phụng vụ phát xuất từ Sacrosanctum Concilium,
một văn kiện diễn tả thực tại của Phụng vụ gắn bó mật thiết với viễn kiến về
Giáo hội một cách đáng ngưỡng mộ được mô tả trong Lumen gentium. Vì
lý do này, như tôi đã bày tỏ trong thư gửi tất cả các giám mục, tôi cảm thấy
mình có nhiệm vụ khẳng định rằng “Các sách phụng vụ do Thánh Phaolô VI và Thánh
Gioan Phaolô II ban hành, phù hợp với các sắc lệnh của Công đồng Vatican II, là
cách diễn đạt độc đáo của Lex orandi [luật cầu nguyện] của
Nghi lễ Rôma” (Motu Proprio Traditionis custodes, điều 1)
Việc không chấp nhận cuộc cải cách phụng vụ, cũng như một sự
hiểu biết hời hợt về nó, làm chúng ta xao lãng nghĩa vụ phải tìm ra các câu trả
lời cho câu hỏi mà tôi xin nhắc lại: làm thế nào chúng ta lớn lên trong khả
năng sống trọn vẹn hành động phụng vụ của mình? Làm thế nào chúng ta tiếp tục
để mình ngạc nhiên trước những gì diễn ra trong việc cử hành dưới chính con mắt
của chúng ta? Chúng ta đang cần một việc đào tạo phụng vụ nghiêm túc và năng
động.
32. Chúng ta hãy trở lại phòng tiệc ly ở Giêrusalem. Vào sáng
ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội được khai sinh, tế bào ban đầu của nhân loại mới.
Cộng đồng người nam và người nữ duy nhất – hòa giải vì được tha thứ, sống vì
Người đang sống, đích thật vì được Thánh Thần sự thật cư ngụ ở trong – mới có
thể mở toang không gian chật hẹp của chủ nghĩa cá nhân thiêng liêng.
33. Chính cộng đoàn của Lễ Ngũ Tuần mới có thể bẻ Bánh khi
biết chắc rằng Chúa đang sống, sống lại từ cõi chết, hiện diện bằng lời của
Người, bằng cử chỉ của Người, bằng việc dâng Mình và Máu Người. Kể từ thời điểm
đó, việc cử hành đã trở thành địa điểm đặc biệt – mặc dù không phải là địa điểm
duy nhất – của cuộc gặp gỡ với Người. Chúng ta biết rằng chỉ nhờ ân sủng của
cuộc gặp gỡ này, con người mới trở thành con người trọn vẹn. Chỉ có Giáo hội
của Lễ Ngũ tuần mới có thể quan niệm con người như một ngôi vị, cởi mở đón nhận
mối liên hệ trọn vẹn với Thiên Chúa, với sáng thế và với anh chị em mình.
34. Trong điều này, trọn vấn đề quyết định của việc đào tạo
phụng vụ đã được đặt ra. Romano Guardini từng nói, “Đây cũng là nhiệm vụ thực
tế đầu tiên được chỉ ra: tiến bước theo sự biến đổi nội tâm này của thời đại
chúng ta, chúng ta phải học lại cách liên hệ về tôn giáo như những hữu thể hoàn
toàn nhân bản”.[8] Đây là điều mà Phụng vụ
làm cho khả hữu. Vì điều này, chúng ta phải được đào tạo. Guardini không ngần
ngại tuyên bố rằng nếu không có sự đào tạo phụng vụ “thì những cải cách về nghi
lễ và văn bản sẽ không giúp ích được gì nhiều”.[9]
Tôi không có ý định trình bày ở đây một cách toàn diện về chủ đề rất phong phú
của việc đào tạo phụng vụ. Tôi chỉ muốn đưa ra một số điểm khởi đầu để suy gẫm.
Tôi nghĩ có thể phân biệt hai khía cạnh: đào tạo cho Phụng vụ và đào tạo bởi
Phụng vụ. Điều đầu tiên phụ thuộc vào điều thứ hai vốn là điều chủ yếu.
35. Vốn cần và vẫn còn cần phải tìm ra các đường kênh cho một
việc đào tạo xứng với một nghiên cứu về Phụng vụ. Ngay từ đầu phong trào phụng
vụ, nhiều việc đã được thực hiện về phương diện này, với sự đóng góp quý báu
của các học giả và viện hàn lâm. Tuy nhiên, điều quan trọng bây giờ là phải phổ
biến kiến thức này ra ngoài môi trường học thuật, một cách dễ dàng tiếp cận, để
mỗi người trong hàng tín hữu có thể phát triển kiến thức về ý nghĩa thần học
của Phụng vụ. Đây là vấn đề có tính quyết định, và nó dựa trên mọi cách hiểu và
mọi thực hành phụng vụ. Nó cũng tạo cơ sở cho chính việc cử hành, giúp mỗi
người và mọi người có được khả năng hiểu các bản văn kinh nguyện, động lực nghi
lễ và ý nghĩa nhân học của chúng.
36. Tôi nghĩ đến nhịp điệu đều đặn của các cộng đoàn chúng ta
đến với nhau để cử hành Bí tích Thánh Thể vào Ngày của Chúa, hết Chúa Nhật này
sang Chúa Nhật nọ, hết Lễ Phục Sinh này sang Lễ Phục Sinh nọ, vào những khoảnh
khắc đặc thù trong cuộc sống của mỗi con người riêng rẽ và của cộng đồng, thuộc
mọi lứa tuổi của cuộc sống. Các thừa tác viên thụ phong thi hành một hoạt động
mục vụ có tầm quan trọng hàng đầu khi họ cầm tay các tín hữu đã được rửa tội để
dẫn dắt họ vào kinh nghiệm lặp đi lặp lại của Mầu nhiệm Vượt qua. Chúng ta hãy
luôn nhớ rằng chính Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là chủ thể cử hành chứ không
chỉ là linh mục. Loại kiến thức có được từ nghiên cứu chỉ là bước đầu tiên để
có thể đi vào mầu nhiệm được cử hành. Hiển nhiên, để có thể dẫn dắt anh chị em
mình, các thừa tác viên chủ tọa các cộng đoàn phải biết đường đi, biết nó từ
việc nghiên cứu nó trên bản đồ nghiên cứu thần học của họ nhưng cũng từ việc
thường xuyên lui tới phụng vụ trong thực hành thực sự kinh nghiệm sống đức tin,
được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện – và chắc chắn không những chỉ như một
nghĩa vụ phải hoàn thành. Vào ngày được truyền chức, mọi linh mục đều nghe vị
giám mục nói với mình: “Hãy hiểu những gì con sẽ làm, hãy bắt chước những gì
con sẽ cử hành, và phù hợp cuộc sống của con với mầu nhiệm Thập giá của Chúa”.[10]
37. Ngoài ra, kế hoạch nghiên cứu về Phụng vụ trong các chủng
viện phải tính đến khả năng phi thường mà việc cử hành thực sự tự nó có được để
cung ứng một viễn kiến hữu cơ và thống nhất về tất cả các kiến thức thần học.
Mọi ngành thần học, theo quan điểm riêng, phải cho thấy mối liên hệ mật thiết
của nó với Phụng vụ, mà dưới ánh sáng của nó, tính thống nhất của việc đào tạo
linh mục được làm rõ ràng và thực hiện (x. Sacrosanctum Concilium,
n. 16). Một kế hoạch nghiên cứ phụng vụ-khôn ngoan trong việc đào tạo thần học
của các chủng viện chắc chắn sẽ có những hậu quả tích cực trong hoạt động mục
vụ. Không có khía cạnh nào của đời sống Giáo hội lại không tìm được đỉnh cao và
suối nguồn của nó trong Phụng vụ. Không chỉ là kết quả của những chương trình
công phu, việc thực hành mục vụ toàn diện, hữu cơ và tổng hợp là kết quả của
việc đặt Bí tích Thánh Thể Chúa Nhật, nền tảng của sự hiệp thông, làm trung tâm
của đời sống cộng đoàn. Sự hiểu biết thần học về Phụng vụ không hề cho phép việc
hiểu những hạn từ này theo nghĩa thu gọn mọi sự vào khía cạnh thờ phượng. Một
cuộc cử hành không truyền giảng Tin Mừng là không chân chính thế nào, thì một
lời rao giảng không dẫn đến cuộc gặp gỡ với Chúa Phục sinh trong việc cử hành
là không chân chính như thế. Và rồi cả hai điều này, nếu không có chứng từ của
lòng bác ái, cũng giống như tiếng cồng ồn ào hoặc tiếng chũm chọe chói tai. (1
Cr 13,1)
38. Đối với các thừa tác viên cũng như đối với tất cả những
người đã rửa tội, việc đào tạo phụng vụ theo nghĩa đầu tiên này không phải là
điều có thể đạt được một lần và mãi mãi. Vì hồng phúc của mầu nhiệm được cử
hành vượt quá khả năng hiểu biết của chúng ta, nên nỗ lực này chắc chắn phải đi
cùng với sự đào tạo thường hằng của mọi người, với lòng khiêm nhường của những
người nhỏ bé, thái độ bừng nở thành lòng thán phục.
39. Một nhận xét cuối cùng về các chủng viện: ngoài chương
trình học, họ cũng phải cung cấp khả thể trải nghiệm việc cử hành không những
mẫu mực theo quan điểm nghi lễ, mà còn chân thực và sống động, giúp sống thực
sự hiệp thông với Thiên Chúa; nhận thức thần học cũng phải hướng tới cùng một
sự hiệp thông này. Chỉ có hành động của Chúa Thánh Thần mới có thể đem sự hiểu
biết mầu nhiệm Thiên Chúa của chúng ta đến chỗ hoàn tất, vì mầu nhiệm Thiên Chúa
không phải là vấn đề về một điều gì đó có thể nắm bắt bằng trí khôn mà là một
mối liên hệ đụng đến trọn cuộc sống. Một kinh nghiệm như vậy có tính nền tảng
để, một khi các chủng sinh của chúng ta trở thành các thừa tác viên thụ phong,
họ có thể đồng hành với các cộng đoàn trong cùng một hành trình hiểu biết mầu
nhiệm Thiên Chúa, vốn là mầu nhiệm tình yêu.
40. Xem xét cuối cùng này đưa chúng ta đến suy tư về ý nghĩa
thứ hai được chúng ta hiểu trong thành ngữ “đào tạo phụng vụ”. Tôi đề cập đến
việc chúng ta được đào tạo từ việc tham gia cử hành phụng vụ này, mỗi người tùy
theo ơn gọi của mình. Ngay cả kiến thức phát xuất từ các nghiên cứu mà tôi vừa
nói, để nó không trở thành một loại chủ nghĩa duy lý, cũng phải phục vụ cho
việc thể hiện hành động đào tạo của chính Phụng vụ nơi mỗi tín hữu tin vào Chúa
Kitô.
41. Từ tất cả những gì chúng ta đã nói về bản chất của Phụng
vụ, có thể thấy rõ rằng sự hiểu biết về mầu nhiệm Chúa Kitô, câu hỏi quyết định
cho cuộc đời chúng ta, không hệ ở việc hấp thụ một ý tưởng nào đó về phương
diện trí thức nhưng hệ ở việc gắn bó hiện sinh thực sự với con người của Người.
Theo nghĩa này, Phụng vụ không nói về “kiến thức,” và phạm vi của nó không phải
chủ yếu về mặt sư phạm, mặc dù nó có giá trị sư phạm rất lớn. (Xem Sacrosanctum
Concilium, n. 33) Đúng hơn, Phụng vụ nói về sự ngợi khen, về sự cảm tạ Lễ
Vượt Qua của Chúa Con, Đấng có quyền năng đối đời sống chúng ta. Việc cử hành
liên quan đến thực tại chúng ta ngoan ngoãn đối với hoạt động của Chúa Thánh
Thần, Đấng hoạt động qua nó cho đến khi Chúa Kitô được thành hình trong chúng
ta. (Xem Gl 4:19) Trọn bộ phạm vi đào tạo của chúng ta là sự
đồng hình đồng dạng của chúng ta với Chúa Kitô. Tôi xin nhắc lại: nó không liên
quan đến một diễn trình trí tuệ trừu tượng, mà liên quan đến việc trở thành Người.
Đây là mục đích mà vì thế Chúa Thánh Thần đã được ban cho, mà hoạt động của
Người luôn luôn và chỉ để cấu thành Thân Thể Chúa Kitô. Cũng như thế với bánh
Thánh Thể, và với mỗi người đã chịu phép rửa được kêu gọi trở nên mỗi ngày một
hơn điều đã được lãnh nhận như một hồng ân trong Bí tích Rửa tội; cụ thể là,
trở thành chi thể của Thân thể Chúa Kitô. Đức Lêô Cả từng viết, “Việc chúng ta
tham dự Mình và Máu Chúa Kitô không có mục đích nào khác hơn là khiến chúng ta
trở thành điều chúng ta ăn”.[11]
42. Việc tham dự hiện sinh này xảy ra một cách bí tích – liên
tục và phù hợp với phương pháp Nhập thể. Phụng vụ được thực hiện với những điều
hoàn toàn trái ngược với những điều trừu tượng tinh thần: bánh, rượu, dầu,
nước, nước hoa, lửa, tro, đá, vải, màu sắc, cơ thể, lời nói, âm thanh, sự im
lặng, cử chỉ, không gian, chuyển động, hành động, thứ tự, thời gian, ánh sáng.
Toàn bộ sáng thế là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa, và từ khi tình yêu đó
được thể hiện trọn vẹn nơi thập giá của Chúa Giêsu, thì trọn sáng thế đều bị
thu hút về phía đó. Chính toàn bộ công trình sáng tạo được giả định để phục vụ
cho cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời: nhập thể, bị đóng đinh, chết, sống lại, lên trời
về với Chúa Cha. Nó như lời cầu nguyện trên nước tại giếng rửa tội từng ca hát,
nhưng cũng là lời cầu nguyện trên dầu để tạo dầu thánh và những lời để dâng
bánh và rượu – tất cả đều là hoa trái của trái đất và công lao của bàn tay con
người.
43. Phụng vụ tôn vinh Thiên Chúa không phải vì chúng ta có
thể thêm được điều gì vào vẻ đẹp của ánh sáng không thể nào tiếp cận được trong
đó Thiên Chúa cư ngụ (x. 1Tm 6,16). Chúng ta cũng không thể thêm
vào sự hoàn hảo của bài ca thiên thần vốn đời đời vang lên khắp các nơi trên
thiên đàng. Phụng vụ tôn vinh Thiên Chúa vì nó cho phép chúng ta - ở đây, trên mặt
đất này – nhìn thấy Thiên Chúa trong việc cử hành các mầu nhiệm, và, nhờ nhìn
thấy Người, rút tỉa được sự sống từ Lễ Vượt qua của Người. Chúng ta, những
người đã chết vì tội lỗi của mình và đã được làm cho sống lại với Chúa Kitô -
chúng ta là sự vinh hiển của Thiên Chúa. Nhờ ân sủng, chúng ta đã được cứu rỗi
(Ep 2,5). Thánh Irênê, doctor unitatis [tiến sĩ
hợp nhất], nhắc chúng ta điều này: “Sự vinh hiển của Thiên Chúa là con người
sống động, và sự sống của con người hệ ở việc nhìn thấy Thiên Chúa: nếu sự mặc
khải của Thiên Chúa qua sáng thế luôn ban sự sống cho mọi hữu thể sống động
trên trái đất, thì sự biểu lộ của Chúa Cha qua Ngôi Lời còn là nguyên nhân của
sự sống cho những ai nhìn thấy Thiên Chúa xiết bao hơn thế nữa”.[12]
44. Guardini từng viết, “Ở đây có phác thảo nhiệm vụ đầu tiên
của công việc đào tạo phụng vụ: con người phải một lần nữa trở nên có khả năng
biểu tượng”.[13] Đây là trách nhiệm đối
với mọi người, đối với các thừa tác viên thụ phong cũng như các tín hữu. Nhiệm
vụ này không hề dễ dàng vì con người hiện đại đã trở nên mù chữ, không còn khả
năng đọc được các biểu tượng; gần như thể sự hiện hữu của chúng thậm chí không
được nghi vấn. Điều này cũng xảy ra với biểu tượng của cơ thể chúng ta. Cơ thể
của chúng ta là một biểu tượng bởi vì nó là sự kết hợp mật thiết giữa linh hồn
và thể xác; nó là tính hiển thị của linh hồn thiêng liêng trong trật tự xác
thân; và tính độc đáo của con người, chuyên biệt của con người không thể bị
giản lược vào bất cứ hình thức sinh vật nào khác đều hệ ở việc này. Sự cởi mở
của chúng ta đối với thể siêu việt, đối với Thiên Chúa, là yếu tố cấu thành nên
chúng ta. Không nhận ra điều này chắc chắn chúng ta không những không biết về
Thiên Chúa mà còn không biết về chính mình. Chỉ cần nhìn vào cách nghịch lý
trong đó cơ thể được đối xử, có lúc được chăm sóc một cách gần như ám ảnh, lấy
cảm hứng từ huyền thoại tuổi trẻ vĩnh cửu, có lúc, lại giản lược cơ thể thành
vật chất hoàn toàn bị phủ nhận mọi phẩm giá. Thực tại là không thể dành giá trị
nào cho cơ thể nếu chỉ bắt đầu từ chính cơ thể. Mọi biểu tượng vừa mạnh mẽ vừa
mong manh. Nếu nó không được tôn trọng, nếu nó không được đối xử như chính nó
là, nó sẽ tan vỡ, mất đi sức mạnh, trở nên vô nghĩa.
Chúng ta không còn có cái nhìn của Thánh Phanxicô, người đã
nhìn vào mặt trời – mà ngài gọi là anh em vì ngài cảm thấy nó như vậy – và
thấy nó đẹp đẽ và rạng rỡ với vẻ lộng lẫy tuyệt vời (bellu
e radiante cum grande splendore), và đầy thán phục, ngài đã hát rằng nó mang hình ảnh giống như Ngài,
hỡi Đấng Tối Cao (de te Altissimu, porta significatione).[14]
Việc mất khả năng nắm bắt giá trị biểu tượng của cơ thể và của mọi sinh vật
khiến ngôn ngữ biểu tượng của Phụng vụ hầu như không thể tiếp cận được đối với
não trạng hiện đại. Thế nhưng, chắc chắn người ta phải từ bỏ một ngôn từ như
vậy. Nó không thể bị từ bỏ bởi vì đó là cách Chúa Ba Ngôi đã chọn để vươn tới
chúng ta qua xác thịt của Ngôi Lời. Đúng hơn đây là vấn đề khôi phục khả năng
sử dụng và hiểu các biểu tượng của Phụng vụ. Chúng ta không được mất hy vọng
bởi vì chiều kích này trong chúng ta, như tôi vừa nói, có tính cấu thành; và
bất chấp những điều xấu xa của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy linh – cả hai
đều phủ nhận tính thống nhất của linh hồn và thể xác – nó luôn sẵn sàng xuất
hiện trở lại, cũng như mọi chân lý.
45. Vì vậy, câu hỏi tôi muốn đặt ra là làm thế nào chúng ta
có thể một lần nữa trở nên có khả năng biểu tượng? Làm thế nào chúng ta có thể
biết cách đọc chúng và có thể sống chúng một lần nữa? Chúng ta biết rõ rằng
việc cử hành các bí tích, bởi ân sủng của Thiên Chúa, tự nó hữu hiệu (ex
opere operato), nhưng điều này không bảo đảm sự tham dự đầy đủ của mọi
người nếu không có một cách thức thỏa đáng để họ tự đặt mình vào mối liên hệ
với ngôn ngữ cử hành. “Đọc” một cách biểu tượng không phải là một nhận thức của
trí tuệ, không phải là việc tiếp thu các khái niệm, mà là một kinh nghiệm sống.
46. Trên hết, chúng ta phải lấy lại niềm tin về sự sáng tạo.
Tôi muốn nói rằng sự vật – các bí tích “được tạo thành” từ sự vật – phát xuất
từ Thiên Chúa. Chúng được quy hướng về Người, chúng được Người mang lấy, và
được mang lấy một cách đặc thù trong biến cố Nhập thể, để chúng trở nên công cụ
cứu rỗi, phương tiện của Chúa Thánh Thần, máng chuyển ân sủng. Trong điều này,
rõ ràng là khoảng cách giữa viễn kiến này và viễn kiến duy vật hay duy linh
rộng lớn biết chừng nào. Nếu những vật được tạo dựng là một phần căn bản, thiết
yếu của hành động bí tích mang lại ơn cứu rỗi cho chúng ta, thì chúng ta phải
sắp xếp mình trước sự hiện diện của chúng với một sự quan tâm mới mẻ, không hời
hợt, tôn trọng và biết ơn. Ngay từ khởi nguyên, các sự vật được tạo dựng đã
chứa đựng hạt giống ơn thánh hóa của các bí tích.
47. Vẫn còn trong diễn trình suy nghĩ về việc Phụng vụ đào
tạo chúng ta như thế nào, một câu hỏi quyết định khác là việc giáo dục cần
thiết để có thể có được thái độ nội tâm giúp chúng ta sử dụng và hiểu các biểu
tượng phụng vụ. Tôi xin diễn đạt nó một cách đơn giản. Tôi luôn nghĩ đến cha
mẹ, hay có khi hơn nữa đến ông bà, nhưng cũng cả các mục tử và giáo lý viên của
chúng ta. Nhiều người trong chúng ta đã học được sức mạnh của các cử chỉ phụng
vụ từ họ, chẳng hạn như dấu thánh giá, quỳ gối, các công thức đức tin của chúng
ta. Có lẽ chúng ta không thực sự nhớ được việc học này, nhưng chúng ta dễ dàng
hình dung ra cử chỉ bàn tay lớn hơn nắm lấy bàn tay nhỏ bé của một đứa trẻ và
từ từ kèm bàn tay đó vạch trên cơ thể lần đầu tiên dấu hiệu ơn cứu rỗi của
chúng ta. Những lời nói đi kèm với chuyển động, những lời này cũng được nói ra
một cách chậm rãi, gần như muốn chiếm hữu mọi khoảnh khắc của cử chỉ, chiếm hữu
toàn bộ cơ thể: “Nhân danh Cha… và Con… và Thánh Thần. …. Amen”. Và sau đó bàn
tay của đứa trẻ được để lại cho một mình nó, và được quan sát việc lặp lại việc
đó một mình, với sự trợ giúp sẵn sàng ở bên cạnh nếu cần. Nhưng nay, cử chỉ đó
được ủy thác, giống như một thói quen sẽ phát triển cùng với Người, ban cho nó
một ý nghĩa mà chỉ có Chúa Thánh Thần mới biết cách thực hiện. Từ thời điểm đó
trở đi cử chỉ đó, sức mạnh tượng trưng của nó, là của chúng ta, nó thuộc về
chúng ta; hoặc nói đúng hơn, chúng ta thuộc về nó. Nó cung cấp cho chúng ta mô
thức. Chúng ta được hình thành bởi nó. Không cần nhiều lời ở đây. Không cần
thiết phải hiểu tất cả mọi điều trong cử chỉ đó. Điều cần thiết là trở thành
nhỏ bé, cả trong việc ủy thác lẫn lãnh nhận nó. Phần còn lại là công việc của
Chúa Thánh Thần. Bằng cách này, chúng ta được khai tâm vào ngôn ngữ biểu tượng.
Chúng ta không thể để mình bị cướp mất sự phong phú như vậy. Lớn lên chúng ta
sẽ có nhiều cách để có thể hiểu, nhưng luôn với điều kiện vẫn còn là những đứa
trẻ.
Nghệ thuật cử hành
48. Một cách quan tâm tới và phát triển trong sự hiểu biết
quan yếu về các biểu tượng của Phụng vụ chắc chắn là ars celebrandi,
tức nghệ thuật cử hành. Biểu thức này cũng có thể được giải thích khác nhau. Ý
nghĩa của nó trở nên rõ ràng nếu chúng ta tham khảo ý nghĩa thần học của Phụng
vụ được mô tả trong Sacrosanctum Concilium số 7, mà tôi đã
nhắc đến vài lần. Không thể giản lược ars celebrandi thành một
qui chế chữ đỏ, càng không nên nghĩ về nó như một tính sáng tạo tưởng tượng -
đôi khi lung tung - không có quy tắc. Nghi thức, tự nó, đã là một chuẩn mực, và
chuẩn mực tự nó không bao giờ kết thúc, nhưng nó luôn nhằm phục vụ một thực tại
cao hơn mà nó muốn bảo vệ.
49. Như trong bất cứ nghệ thuật nào, ars celebrandi đòi
hỏi các loại kiến thức khác nhau. Trước hết, nó đòi sự hiểu biết về tính năng
động bộc lộ qua Phụng vụ. Hành động cử hành là nơi trong đó Mầu nhiệm Vượt qua
được làm cho hiện diện bằng phương tiện tưởng niệm để những người đã rửa tội,
qua việc tham gia của họ, có thể cảm nghiệm nó trong đời sống của chính họ. Nếu
không có sự hiểu biết này, việc cử hành dễ trở thành mối bận tâm về hình thức
bên ngoài (ít nhiều tinh tế) hoặc chỉ quan tâm đến các qui định chữ đỏ (ít
nhiều cứng ngắc).
Sau đó, cần phải biết Chúa Thánh Thần hoạt động như thế nào
trong mọi cử hành. Nghệ thuật cử hành phải hòa hợp với hành động của Chúa Thánh
Thần. Chỉ bằng cách này, nó mới thoát khỏi tính chủ quan vốn là kết quả của thị
hiếu cá nhân trổi vượt. Chỉ bằng cách này, nó mới thoát khỏi sự xâm nhập của
các yếu tố văn hóa được tiếp nhận mà không có sự phân định và không liên quan
gì đến sự hiểu biết đúng đắn về việc hội nhập văn hóa.
Cuối cùng, cần phải hiểu động lực của ngôn ngữ biểu tượng,
bản chất đặc thù của nó, hiệu năng của nó.
50. Từ những chỉ dẫn ngắn gọn này, cần rõ ràng rằng nghệ
thuật cử hành không phải là thứ có thể cương biến. Giống như mọi nghệ thuật, nó
yêu cầu ứng dụng nhất quán. Đối với một nghệ nhân, kỹ thuật là đủ. Nhưng đối
với một nghệ sĩ, ngoài kiến thức kỹ thuật, còn phải có cảm hứng, đó là một hình
thức sở hữu tích cực. Người nghệ sĩ chân chính không sở hữu một tác phẩm nghệ
thuật mà là bị nó sở hữu. Người ta không học nghệ thuật cử hành bằng cách
thường xuyên tham gia một khóa học nói trước công chúng hoặc các kỹ thuật
truyền thông đầy thuyết phục. (Tôi không đánh giá các ý định, chỉ quan sát các
hiệu quả.) Mọi công cụ đều có thể hữu ích, nhưng nó phải phục vụ bản chất của
Phụng vụ và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Cần phải có sự tận tụy cần mẫn cho
việc cử hành, để chính việc cử hành tự truyền tải nghệ thuật của nó cho chúng
ta. Guardini từng viết: “Chúng ta phải hiểu rằng chúng ta vẫn còn cố thủ xiết
bao trong chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa chủ quan, chúng ta đã trở nên không
quen thuộc xiết bao đối với những đòi hỏi của những ‘điều vĩ đại’ và các thông
số trong đời sống tôn giáo của chúng ta nhỏ bé đến mức nào. Chúng ta phải lấy
lại cảm thức đối với phong thái cầu nguyện ‘vĩ đại’, cả ý chí hướng tới hiện
sinh trong cầu nguyện nữa. Tuy nhiên, cách để đạt được điều này là thông qua kỷ
luật, thông qua việc từ bỏ tính tình cảm ủy mị; qua việc làm nghiêm túc, được
thực hiện trong sự tuân phục Giáo hội, về việc là người tôn giáo và là người hành
động”.[15]
Đây là cách học được nghệ thuật cử hành.
51. Nói về chủ đề này, chúng ta có xu hướng chỉ nghĩ về nó
trong tương quan với các thừa tác viên thụ phong thực hiện nhiệm vụ chủ tọa.
Nhưng thực ra, đây là một thái độ mà tất cả những người đã được rửa tội đều
được mời gọi để sống. Tôi nghĩ đến tất cả các cử chỉ và lời nói thuộc cộng
đoàn: tập hợp, bước đi cẩn thận trong đám rước, ngồi, đứng, quỳ, hát, im lặng,
tung hô, nhìn, lắng nghe. Có nhiều cách trong đó cộng đoàn, như một cơ
thể (Nkm 8,1) tham gia vào
cuộc cử hành. Mọi người cùng làm một cử chỉ giống nhau, mọi người cùng nói với
nhau một giọng - điều này truyền cho mỗi cá nhân năng lực của toàn bộ cộng
đoàn. Đây là sự đồng nhất không những không làm chết đi mà ngược lại, giáo dục
các tín hữu cá nhân khám phá ra tính duy nhất đích thực của nhân cách họ không
phải trong thái độ cá nhân chủ nghĩa mà trong ý thức là một cơ thể. Không phải
là vấn đề tuân theo một cuốn sách về nghi thức phụng vụ. Đúng hơn, nó là một
“kỷ luật” – theo cách mà Guardini đã đề cập đến – thứ mà nếu được tuân theo một
cách chân chính sẽ đào luyện chúng ta. Đây là những cử chỉ và lời nói đặt trật
tự trong thế giới nội tâm của chúng ta giúp chúng ta sống những cảm xúc, thái
độ, hành vi nhất định. Chúng không phải là lời giải thích cho một lý tưởng mà
chúng ta tìm cách để nó truyền cảm hứng cho chúng ta, mà thay vào đó chúng là
một hành động mời gọi toàn bộ cơ thể tham dự, nghĩa là trong một thể thống nhất
gồm thể xác và linh hồn.
52. Trong số các hành vi nghi lễ thuộc về toàn thể cộng đoàn,
sự im lặng chiếm một vị trí quan trọng tuyệt đối. Nhiều lần nó được quy định rõ
ràng trong các qui định chữ đỏ. Toàn bộ việc cử hành Thánh Thể chìm đắm trong
sự im lặng trước khi bắt đầu và đánh dấu mọi khoảnh khắc của việc triển khai
nghi lễ. Thật vậy, nó hiện diện trong hành vi sám hối, sau lời mời “Chúng ta
hãy cầu nguyện,” trong Phụng vụ Lời Chúa (trước các bài đọc, giữa các bài đọc
và sau bài giảng), trong kinh nguyện Thánh Thể, sau khi rước lễ.[16]
Sự im lặng như vậy không phải là nơi ẩn náu bên trong, để giấu mình trong một
kiểu cô lập thân mật nào đó, như thể bỏ hình thức nghi lễ lại phía sau như một
sự phân tâm. Kiểu im lặng đó mâu thuẫn với bản chất của việc cử hành. Sự im
lặng trong phụng vụ là một điều gì vĩ đại hơn nhiều: nó là biểu tượng của sự
hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm sinh động toàn bộ hoạt
động cử hành. Vì lý do này, nó tạo thành một điểm đến trong trình tự phụng vụ.
Chính vì nó là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, nên nó có sức mạnh nói lên hành
động nhiều mặt của Người. Bằng cách này, trở lại các khoảnh khắc tôi vừa đề
cập, sự im lặng chuyển sang việc thống hối vì tội lỗi và ước muốn được hoán
cải. Nó đánh thức sự sẵn sàng nghe Lời Chúa và đánh thức việc cầu nguyện. Nó
chuẩn bị để chúng ta tôn thờ Mình và Máu Chúa Kitô. Nó gợi cho mỗi người, trong
tình thân mật hiệp thông, điều Chúa Thánh Thần sẽ tác động trong đời sống chúng
ta để làm chúng ta nên đồng hình đồng dạng với tấm Bánh được bẻ ra. Vì tất cả
những lý do này, chúng ta được kêu gọi thực hiện một cách hết sức cẩn trọng cử
chỉ im lặng mang tính biểu tượng. Qua đó, Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta hình
dạng, ban cho chúng ta mô thức.
53. Mọi cử chỉ và mọi lời nói đều chứa đựng một hành động
chính xác luôn luôn mới bởi vì nó gặp một khoảnh khắc luôn mới trong cuộc sống
của chúng ta. Tôi sẽ giải thích ý tôi bằng một thí dụ đơn giản. Chúng ta quỳ
gối để cầu xin sự tha thứ, bẻ cong lòng kiêu hãnh của chúng ta, để dâng lên
Chúa những giọt nước mắt của chúng ta, để cầu xin sự can thiệp của Người, để
cảm ơn Người về một hồng phúc đã nhận được. Đó luôn luôn cùng là một cử chỉ mà,
trong yếu tính, tuyên bố rằng con người chúng ta là nhỏ bé trước sự hiện diện
của Thiên Chúa. Tuy nhiên, được thực hiện trong những khoảnh khắc khác nhau của
cuộc đời chúng ta, nó lên khuôn các chiều sâu nội tâm của chúng ta và sau đó tự
biểu lộ ra bên ngoài trong mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa và với anh
chị em của chúng ta. Việc quỳ gối cũng nên được thực hiện một cách nghệ thuật,
nghĩa là, với ý thức đầy đủ về ý nghĩa biểu tượng của nó và sự cần thiết chúng
ta phải có cử chỉ này để phát biểu cách chúng ta hiện diện trước nhan Thiên
Chúa. Và nếu tất cả những điều này đúng đối với cử chỉ đơn giản này, thì việc
cử hành Lời Chúa sẽ còn phải hơn thế xiết bao? Ôi, chúng ta được triệu tập để
học nghệ thuật nào cho việc công bố Lời, nghe Lời, để Lời linh hứng cho việc
cầu nguyện của chúng ta, để làm cho Lời ấy trở thành chính cuộc sống của chúng
ta? Tất cả những điều này đáng được quan tâm tối đa - không phải về hình thức
hay chỉ đơn thuần là bên ngoài, mà là sống động và nội tâm - để mọi cử chỉ và
mọi lời nói của việc cử hành, được phát biểu một cách có “nghệ thuật,” đào tạo
nên nhân cách Kitô hữu của mỗi cá nhân và của cộng đoàn.
54. Nếu quả ars celebrandi được toàn thể
cộng đoàn cử hành yêu cầu, thì quả các thừa tác viên thụ phong cũng phải có mối
quan tâm đặc biệt đối với nó. Khi đến thăm các cộng đồng Kitô giáo, tôi nhận
thấy cách sống của họ trong việc cử hành phụng vụ tùy thuộc cách mục tử của họ
chủ tọa cộng đoàn, mà tốt hơn hoặc, không may, tệ hơn. Có thể nói rằng có nhiều
“mô hình” chủ tọa khác nhau. Sau đây là một danh sách khả hữu liệt kê một số
phương thức, thậm chí trái ngược nhau, cho thấy đặc tính của một cách chủ tọa
chắc chắn không thỏa đáng: khắc khổ cứng ngắc hoặc sáng tạo gây mất lòng, một
chủ nghĩa huyền bí linh đạo hoặc một chủ nghĩa duy chức năng thực tế, một sự
nhanh chóng vội vàng hoặc một sự chậm chạp nhấn mạnh quá mức, sự bất cẩn cẩu
thả hoặc sự cầu kỳ quá mức, một sự thân thiện quá mức hoặc sự vô tình kiểu cha
cụ. Tuy các thí dụ này bao gồm một phạm vi khá rộng, nhưng theo tôi sự bất cập
của các mô hình chủ tọa này có một gốc rễ chung: chủ nghĩa cá nhân cao độ muốn
có phong cách cử hành đôi khi kỳ quặc, được che giấu một cách kém cỏi, nhằm kéo
chú ý của mọi người. Thường thì điều này trở nên rõ ràng hơn khi các cuộc cử
hành của chúng ta được truyền qua mạng hoặc trực tuyến, một điều không phải lúc
nào cũng thuận lợi và cần được suy nghĩ thêm. Xin anh chị em hiểu tôi một cách
chắc chắn rằng: đây không phải là những hành vi được loan truyền rộng rãi nhất,
nhưng các cộng đoàn vẫn đang bị lạm dụng như vậy.
55. Còn nhiều điều để nói về tầm quan trọng của việc chủ tọa
và nó đòi phải quan tâm ra sao. Trong nhiều dịp khác nhau, tôi đã nhấn mạnh đến
nhiệm vụ giảng trong thánh lễ, một nhiệm vụ nhiều đòi hỏi.[17] Ở
đây, tôi xin giới hạn vào một số xem xét tổng quát khác, luôn muốn suy nghĩ với
anh chị em về cách chúng ta phải được Phụng vụ đào tạo ra sao. Tôi nghĩ về nhịp
điệu bình thường của Thánh lễ Chúa nhật trong các cộng đồng của chúng ta, và do
đó tôi xin ngỏ lời với các linh mục, nhưng một cách mặc nhiên với mọi thừa tác
viên thụ phong.
56. Linh mục sống việc tham dự đặc trưng của ngài vào việc cử
do hồng phúc đã nhận lãnh trong Bí tích Truyền chức thánh, và điều này được thể
hiện một cách minh nhiên chính trong việc chủ tọa. Giống như tất cả các vai trò
mà ngài được kêu gọi để thực hiện, đây chủ yếu không phải là một bổn phận mà
cộng đoàn giao cho ngài nhưng là hệ quả của việc tuôn đổ Chúa Thánh Thần nhận
được trong lúc chịu chức, để trang bị cho ngài một nhiệm vụ như vậy. Linh mục
cũng được đào tạo bởi việc chủ tọa của ngài trong cộng đoàn cử hành.
57. Để việc phục vụ này được thực hiện tốt – đúng hơn, một
cách đầy nghệ thuật! - điều quan trọng căn bản là linh mục phải nhận thức sâu
sắc về sự hiện diện đặc thù của Chúa Phục Sinh, nhờ lòng thương xót của Thiên
Chúa. Chính thừa tác viên thụ phong là một trong những kiểu hiện diện của Chúa
làm cho cộng đoàn Kitô giáo trở nên độc đáo, khác với bất cứ cộng đoàn nào
khác. (xem Sacrosanctum Concilium, số 7) Sự kiện này mang lại mức
quan trọng “bí tích” (theo nghĩa rộng) cho mọi cử chỉ và lời nói của vị chủ
tọa. Trong những cử chỉ và lời nói này, cộng đoàn có quyền cảm nhận được ước
muốn của Chúa, hôm nay cũng như trong Bữa Tiệc Ly, được ăn Lễ Vượt Qua với
chúng ta. Vì vậy, Chúa Phục sinh giữ vai trò dẫn đạo, chứ không phải các ấu trĩ
của chúng ta, đảm nhận những vai trò và hành vi không thích hợp chút nào. Ước
muốn hiệp thông mà Chúa muốn dành cho mỗi người nên chế ngự chính vị linh mục.
Như thể ngài được đặt giữa trái tim yêu thương cháy bỏng của Chúa Giêsu và trái
tim của mỗi tín hữu, vốn là đối tượng của tình Chúa yêu thương. Chủ tọa Bí tích
Thánh Thể là lao mình vào lò lửa tình yêu của Thiên Chúa. Khi chúng ta được ơn
hiểu thực tại này, hoặc thậm chí chỉ trực giác một điều gì đó của nó, chúng ta
chắc chắn không cần Sách Hướng Dẫn để qui định tác phong thích
đáng nữa. Nếu chúng ta vẫn cần điều đó, thì đó là vì sự cứng lòng của
chúng ta. Qui luật cao nhất, và do đó đòi hỏi nhiều nhất, chính là thực tại
của việc cử hành Thánh Thể, một cử hành chọn lựa các lời nói, cử chỉ, cảm xúc
có thể giúp chúng ta hiểu được việc chúng ta sử dụng những điều này có đúng mức
với thực tại mà chúng phục vụ hay không. Hiển nhiên không thể cương biến được.
Đó là một nghệ thuật. Nó đòi phải có sự chuyên tâm của linh mục, một sự chuyên
cần chăm lo cho ngọn lửa tình yêu của Chúa mà Người vốn đến để đốt cháy trên
mặt đất (Lc 12,49).
58. Khi cộng đoàn đầu tiên bẻ bánh tuân theo mệnh lệnh của
Chúa, họ đã làm như vậy trước sự hiện diện của Mẹ Maria, đấng đã đồng hành với
những bước chân đầu tiên của Giáo Hội: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí,
chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức
Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14). Mẹ Đồng Trinh “trông
chừng” các cử chỉ của Con Mẹ đã được ủy thác cho các Tông đồ. Như Mẹ đã bảo vệ
Ngôi Lời thành xác thịt sau khi nhận được lời của sứ thần Gabrien, Mẹ, một lần
nữa, bảo vệ các cử chỉ trong lòng Giáo hội vốn hình thành nên thân thể Con Mẹ.
Chính vị linh mục, người lặp lại những cử chỉ đó do hồng phúc đã lãnh nhận
trong Bí tích Truyền Chức Thánh, cũng được bảo vệ trong cung lòng Đức Trinh Nữ.
Liệu chúng ta có thực sự cần một quy tắc ở đây để cho chúng ta biết chúng ta
phải hành động như thế nào không?
59. Khi trở thành khí cụ để đốt cháy ngọn lửa tình yêu của
Chúa trên trái đất, vốn được che chở trong cung lòng Mẹ Maria, Trinh Nữ đã trở
thành Giáo hội (như Thánh Phanxicô đã hát về Mẹ), các linh mục phải để Chúa
Thánh Thần tác động trên các ngài, hoàn thành công việc mà Người đã bắt đầu nơi
các ngài khi các ngài được phong chức. Hoạt động của Chúa Thánh Thần cung ứng
cho các ngài khả thể thi hành thừa tác vụ chủ tọa cộng đoàn Thánh Thể với lòng
kính sợ của Thánh Phêrô, ý thức mình là kẻ có tội (Lc 5,1-11), với
lòng khiêm nhường mạnh mẽ của người tôi tớ đau khổ (x. Is 42tt),
với lòng mong muốn “được ăn” bởi những người được giao phó cho họ trong việc
thi hành thừa tác vụ hàng ngày.
60. Chính việc cử hành cũng giáo dục linh mục để ngài đạt tới
bình diện và phẩm chất chủ tọa này. Tôi xin nhắc lại, nó không phải là việc
chấp nhận trí thức, cho dù toàn bộ trí tuệ cũng như mọi nhạy cảm của chúng ta
đều phải tham gia vào đó. Vì vậy, linh mục được đào tạo nhờ việc chủ tọa lời
nói và cử chỉ mà Phụng vụ vốn đặt lên môi và lên tay ngài. Ngài không ngồi trên
một ngai vàng [18] bởi vì Chúa trị vì với sự
khiêm nhường của một người phục vụ. Ngài không đánh cướp sự chú ý khỏi vị trí
trung tâm của bàn thờ, vốn là dấu chỉ Chúa Kitô, Đấng mà từ cạnh sườn
bị đâm thâu chảy ra máu và nước, nhờ đó mà các Bí tích của Giáo hội được thiết
lập và là trung tâm của lời ca tụng và tạ ơn của chúng ta.[19]
Đến gần bàn thờ để dâng của lễ, vị linh mục được giáo dục về
lòng khiêm nhường và thống hối bằng những lời: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin
thương nhận chúng con đang hết lòng khiêm nhường thống hối, và xin cho hy lễ
chúng con dâng trước Tôn Nhan hôm nay được đẹp lòng Chúa”.[20]
Ngài không thể dựa vào chính mình để thi hành thừa tác vụ đã được ủy thác cho
ngài vì Phụng vụ mời gọi ngài cầu nguyện để được thanh tẩy qua dấu chỉ của
nước, khi ngài đọc: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm, xin
Ngài thanh tẩy”.[21]
Những lời mà Phụng vụ đặt lên môi ngài có những nội dung khác
nhau, đòi hỏi những âm sắc chuyên biệt. Nghệ thuật cử hành đích
thực đòi linh mục phải coi trọng những lời như vậy. Những điều này tạo nên hình
dạng và hình thức cho cảm xúc nội tâm của ngài, có lúc phải khẩn cầu Chúa Cha
nhân danh cộng đoàn, có lúc phải dạy dỗ cộng đoàn, có lúc lại tung hô đồng
thanh với toàn thể cộng đoàn.
Trong Kinh nguyện Thánh Thể - trong đó mọi người đã được rửa
tội đều tham gia bằng cách lắng nghe với lòng tôn kính, im lặng và
xen kẽ bằng những lời tung hô [22]
(IGMR 78-79) – vị chủ tọa có sức mạnh, nhân danh toàn thể dân thánh,
để tưởng nhớ trước mặt Chúa Cha lễ dâng của Con Người trong Bữa Tiệc Ly, để lễ
dâng bao la ấy có thể được làm cho hiện diện mới mẻ trên bàn thờ. Ngài tham gia
vào lễ dâng đó lễ bằng việc dâng chính mình ngài. Linh mục không thể thuật lại
Bữa Tiệc Ly cho Chúa Cha mà không tự mình trở thành người tham dự vào đó. Ngài
không thể nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy sẽ bị nộp
vì các con,” mà lại không sống theo cùng một ước muốn dâng chính thân thể mình,
mạng sống mình cho những người được giao phó cho ngài. Đây là điều diễn ra khi
thi hành thừa tác vụ của ngài.
Từ tất cả những điều trên và từ nhiều điều khác, linh mục
liên tục được đào tạo bởi hành động cử hành.
* * *
61. Trong lá thư này, tôi chỉ muốn chia sẻ một số suy tư mà
chắc chắn không khai thác hết kho tàng bao la của việc cử hành các mầu nhiệm
thánh. Tôi yêu cầu tất cả các giám mục, linh mục và phó tế, những người đào tạo
trong các chủng viện, những người hướng dẫn trong các khoa thần học và các
trường thần học, và tất cả các giáo lý viên hãy giúp dân thánh của Thiên Chúa
rút tỉa được từ dòng suối đầu tiên của linh đạo Kitô giáo. Chúng ta được mời
gọi liên tục tái khám phá sự phong phú của các nguyên tắc tổng quát được trình
bày trong những đoạn đầu tiên của Hiến chế Sacrosanctum Concilium,
nắm bắt mối liên hệ mật thiết giữa hiến chế đầu tiên của Công Đồng đồng này và
tất cả những hiến chế khác. Vì lý do này, chúng ta không thể quay trở lại hình
thức nghi lễ mà các nghị phụ Công đồng, cum Petro et sub Petro [cùng
với Phêrô và dưới Phêrô], cảm thấy cần phải cải cách, chấp thuận, dưới sự hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần và tuân theo lương tâm của họ trong tư cách mục tử, các
nguyên tắc mà từ đó cuộc cải cách đã phát sinh ra. Các thánh Giáo hoàng Phaolô
VI và Gioan Phaolô II, khi phê chuẩn các sách phụng vụ được cải cách, ex
decreto Sacrosancti Œcumenici Concilii Vaticani II [từ sắc lệnh của
Công Đồng Chung Vatican II], đã bảo đảm lòng trung thành của việc cải tổ của
Công đồng. Vì lý do này, tôi đã viết tự sắc Traditionis custodes,
để Giáo hội, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, có thể nâng lên một và cùng một lời
cầu nguyện có khả năng phát biểu sự hiệp nhất của mình.[23]
Như tôi đã viết, tôi dự định sự thống nhất này sẽ được tái
lập trong toàn thể Giáo Hội thuộc Nghi lễ Rôma.
62. Tôi muốn lá thư này giúp chúng ta khơi dậy sự ngạc nhiên
thán phục trước vẻ đẹp của sự thật cử hành Kitô giáo, để nhắc nhở chúng ta về
sự cần thiết của việc đào tạo phụng vụ đích thực, và nhận ra tầm quan trọng của
một nghệ thuật cử hành để phục vụ chân lý của Mầu nhiệm Vượt qua và phục vụ sự
tham gia vào đó của tất cả những ai đã được rửa tội, mỗi người tùy theo ơn gọi
của mình.
Tất cả sự phong phú này không xa cách đối với chúng ta. Nó
nằm ngay trong các nhà thờ của chúng ta, trong các ngày lễ của Kitô giáo chúng
ta, ở tính trung tâm của Ngày của Chúa, trong quyền năng của các bí tích mà
chúng ta cử hành. Đời sống Kitô hữu là một hành trình tăng trưởng không ngừng.
Chúng ta được mời gọi để mình được đào tạo trong niềm vui và sự hiệp thông.
63. Vì điều này, tôi mong muốn để lại cho anh chị em một chỉ
dẫn nữa để tuân theo dọc hành trình của chúng ta. Tôi mời anh chị em tái khám
phá ý nghĩa của năm phụng vụ và Ngày của Chúa. Cả hai điều này cũng
đã được Công Đồng để lại cho chúng ta (xem Sacrosanctum Concilium,
các số 102-111).
64. Dưới ánh sáng của tất cả những gì chúng ta đã nói ở trên,
chúng ta thấy rằng năm phụng vụ cho chúng ta khả thể tăng trưởng trong sự hiểu
biết của chúng ta về mầu nhiệm Chúa Kitô, dìm cuộc sống chúng ta vào mầu nhiệm
Tử nạn và Phục sinh của Người, chờ đợi Người trở lại trong vinh quang. Đây là
một sự đào tạo liên tục thực sự. Cuộc sống của chúng ta không phải là một chuỗi
sự kiện hỗn loạn ngẫu nhiên, sự kiện này nối tiếp sự kiện kia. Đúng hơn, nó là
một hành trình chính xác, một cử hành mà từ một cử hành hàng năm về sự chết và
sự phục sinh của Người cho đến cử hành kế tiếp, làm chúng ta nên đồng hình đồng
dạng với Người, đang khi chúng con mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày
trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng con.[24]
65. Khi thời gian được làm nên mới nhờ mầu nhiệm Sự Chết và
Sự Phục Sinh của Người, cứ mỗi ngày thứ tám, Giáo Hội lại cử hành biến cố cứu
rỗi chúng ta trong ngày của Chúa. Trước khi là một giới luật, Chúa nhật là một
hồng phúc mà Thiên Chúa ban cho dân tộc của Người; và vì lý do này, Giáo hội
bảo vệ nó bằng một giới luật. Việc cử hành Chúa nhật cung cấp cho cộng đồng
Kitô hữu khả thể được Bí tích Thánh Thể đào tạo. Từ Chúa Nhật này đến Chúa Nhật
nọ, lời của Chúa Phục Sinh soi sáng cuộc hiện sinh của chúng ta, muốn đạt được
trong chúng ta mục đích mà lời ấy đã được sai đi (x. Is 55,10-11).
Từ Chúa Nhật này đến Chúa Nhật nọ, việc rước Mình và Máu Thánh Chúa Kitô cũng
muốn biến cuộc đời chúng ta trở thành của lễ đẹp lòng Chúa Cha, trong sự hiệp
thông chia sẻ, hiếu khách, phục vụ huynh đệ. Từ Chúa Nhật này đến Chúa Nhật nọ,
năng lực của Bánh được Bẻ nâng đỡ chúng ta trong việc loan báo Tin Mừng, trong
đó tính chân chính của việc chúng ta cử hành đã tự được tỏ hiện.
Chúng ta hãy từ bỏ những luận điệu luận chiến của mình để
cùng nhau lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần nói với Giáo hội. Chúng ta hãy lo
bảo vệ sự hiệp thông của chúng ta. Chúng ta hãy tiếp tục ngạc nhiên thán phục
trước vẻ đẹp của Phụng vụ. Mầu nhiệm Vượt qua đã được ban cho chúng ta. Chúng
ta hãy để cho mình được đón nhận bởi ước muốn của Chúa được tiếp tục ăn Lễ Vượt
Qua của Người với chúng ta. Tất cả những điều này dưới con mắt của Đức Maria,
Mẹ của Giáo hội.
Ban hành tại Rôma, tại Nhà thờ Thánh Gioan Latêranô, vào ngày
29 tháng 6, Lễ Trọng các Thánh Phêrô và Phaolô, các Tông đồ, năm 2022, năm thứ
mười triều đại Giáo hoàng của tôi.
Phanxicô
_________________________________________________
Mọi người hãy kính sợ, cả thế giới hãy run sợ, và các tầng
trời hãy hân hoan
Khi Chúa Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống, hiện diện trên bàn thờ trong tay của một linh mục!
Ôi, sự cao cả
và phẩm giá tuyệt vời!
Ôi sự khiêm
nhường cao cả! Ôi sự uy nghi khiêm hạ!
Chúa của vũ
trụ, Thiên Chúa và Con Thiên Chúa,
Tự hạ mình đến
nỗi để cứu rỗi chúng con
Người đã giấu
mình dưới hình bánh tầm thường!
Hỡi anh em,
anh em hãy nhìn vào sự khiêm nhường của Thiên Chúa,
Và thổ lộ hết
cõi lòng trước mặt Người!
Hãy hạ mình
xuống để anh em có thể được Người nâng lên cao!
Không giữ điều
gì của anh em cho chính anh em,
để Đấng ban
chính mình Người hoàn toàn cho anh em có thể đón nhận anh em hoàn toàn!
Thánh Phanxicô Assisi
Thư gửi Toàn
bộ Nhà Dòng II, 26-29
[1] xem
Đức Lêô Cả, Bài giảng LXXIV: Về Chúa Lên trời II, 1: “quod […]
Redemptoris nostri conspicuum fuit, in sacramenta transivit” [điều hiển hiện
của Chúa Cứu Chuộc được chuyển qua các bí tích].
[2] Kinh tiền tụng Phục sinh III, Sách lễ Rôma (2008) tr. 367: “Người
đã bị sát tế mà không còn chết nữa, dù đã bị giết mà vẫn sống luôn mãi”.
[3] xem Sách
Lễ Rôma (2008) tr. 532.
[4] xem
Thánh Augustinô, Chú giải các Thánh vịnh. Tv. 138,2; Kinh nguyện sau
bài đọc thứ bầy, Vọng Phục sinh, Sách lễ Rôma (2008) tr. 359; Trên các của dân,
cầu cho Giáo Hội (B), Sách lễ Rôma (2008) tr. 1076.
[5] xem
Thánh Augustinô, Trong khảo luận về Tin Mừng Gioan XXVI, 13.
[6] xem
Thông điệp Mediator Dei (20 tháng 11, 1947) trong AAS 39
(1947) 532.
[7] AAS 56 (1964)
34.
[8] R. Guardini Liturgische Bildung [Đào tạo Phụng
vụ] (1923) trong Liturgie und liturgische Bildung [Phụng vụ và Việc Đào tạo
Phụng vụ] (
[9] R. Guardini Der Kultakt und die gegenwärtige
Aufgabe der Liturgischen Bildung [Hành vi thờ phượng và Nhiệm vụ thực sự Dào
tạo Phụng vụ] (1964) trong Liturgie und liturgische Bildung [Phụng vụ và Việc
Đào tạo Phụng vụ] (Mainz 1992) tr. 14.
[10] De Ordinatione Episcopi, Presbyterorum et
Diaconorum [về việc Truyền chức
Giám mục, Linh mục và Phó tế] (1990) tr. 95: “Agnosce quod age, imitare quod
sugarabis, et vitam tuam mysrio dominicæ crossis conforma” [Hãy biết việc con
làm, hãy bắt chước việc con giảng dạy và rập đời sống con phù hợp với mầu nhiệm
thập giá Chúa]
[11] Đức Lêô Cả, Bài giảng LXIII: De Passione
Domini [về Cuộc Khổ nạn của Chúa]III, 7.
[12] Thánh Irênê thành
[13] R. Guardini Liturgische Bildung [Đào tạo Phụng
vụ] (1923) trong Liturgie und liturgische Bildung [Phụng vụ và Việc Đào tạo
Phụng vụ] (
[14] Cantico delle Creature (Ca khúc Tạo vật], Fonti Francescane, tr. 263; Bản
Tiếng Anh, Francis of
[15] R. Guardini Liturgische Bildung [Đào tạo Phụng
vụ] (1923) trong Liturgie und liturgische Bildung [Phụng vụ và Việc Đào tạo
Phụng vụ](
[16] xem Quy chế tổng quát
Sách Lễ Rôma các số 45; 51; 54-56; 66; 71; 84; 88;
271.
[17] xem
Tông huấn Evangelii gaudium, (24 tháng 11 năm 2013) các số 135-144.
[18] xem Quy chế tổng quát
Sách Lễ Rôma n. 310.
[19] Lời cầu nguyện thánh hiến trong Nghi thức thánh hiến
nhà thờ và bàn thờ (1977) tr.
102.
[20] Sách lễ Rôma (2008) tr. 515: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin thương nhận chúng con đang
hết lòng khiêm nhường thống hối, và xin cho hy lễ chúng con dâng trước Tôn Nhan
hôm nay được đẹp lòng Chúa”.
[21] Sách Lễ Rôma (2008) tr. 515: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm,
xin Ngài thanh tẩy”.
[22] xem Quy chế tổng quát Sách Lễ Rôma, các số
78-79.
[23] xem Đức Phaolô VI, Tông hiến Missale
Romanum (3 tháng 4, 1969) trong AAS 61 (1969) 222.
[24] Sách lễ Rôma (2008) tr. 598: “… mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của
Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng con”.